*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Chương có nội dung bằng hình ảnh
Vài ngày sau, Lý Vi bỗng nghe nói phúc tấn đi cầu phúc cho Tứ a ca, tự móc tiền túi thắp ba ngọn đèn trường minh* tại chùa Hoàng Giác ở ngoại ô. Một ngọn đèn cho Tứ a ca, hai ngọn đèn khác lần lượt cho Đại cách cách và Nhị cách cách. Nghe đâu thắp một ngọn đèn trong một năm sẽ phải trả bốn trăm đồng.
*Đèn trường minh: đèn này thường được thắp trong các gia đình vào đêm giao thừa. Một khi đèn được thắp sáng thì sẽ không thổi tắt được trừ phi dầu hết, đèn sẽ tự tắt. Tương truyền, những chiếc đèn này thường được đặt trong lăng mộ của các vị vua Trung Quốc với hy vọng sẽ thắp sáng cả lăng mộ như đã từng thắp sáng cung điện của họ lúc sinh thời.
Dù là Lý Vi, cũng hiểu đây là chuyện tốt. Như ở hiện đại, bạn bè leo núi lớn, lội sông dài đi thắp hương bái Phật, lúc về bảo đã thắp ba nén hương hộ bạn rồi, bạn sẽ chỉ cho rằng người bạn này nghĩ cho bạn, và cũng sẽ không chửi người ta mê tín. Chửi thế là ngu.
Phủ Tứ a ca đã được ngày tháng yên bình mà trước nay chưa từng có. Tất cả cứ như ai về chỗ ấy, không còn ai thấy hào quang của Lý cách cách làm lu mờ phúc tấn, khiến địa vị phúc tấn lung lay nữa. Đứa nhỏ này chẳng khác nào Định Hải Thần Châm, thành công ổn định lại tình thế vốn xao động, rối ren của Tứ a ca phủ.
Cuối tháng năm, năm vị a ca gồm Tam, Tứ, Ngũ, Thất, Bát quay về trước. Họ về song không về luôn phủ, mà đều ở lại đại doanh ngoài ngoại ô. Tháng bảy, hoàng thượng về triều, Đại a ca thúc ngựa chạy vội về kinh báo tin trước, thái tử ra ngoại ô đón, cung nghinh đức Thánh quân.
Trong kinh thành, niềm vui khi đại quân trở về hãy chưa dịu xuống, đã phải nghe một tin sét đánh ngang tai: Chuyến này đi hoàng thượng muốn bắt Cát Nhĩ Đan, nhưng lại để kẻ này bỏ chạy mất rồi.
Vậy là, ai nấy đều rụt cổ cụp đuôi.
Mấy a ca ở đại doanh theo hoàng thượng hồi cung, khi về phải đứng ngoài Võ Anh điện suốt từ lúc mặt trời treo cao tới tận khi trời tối hẳn.
Có lẽ hoàng thượng ức chế thật, vừa về một cái không buồn nghỉ ngơi, đã cho gọi thái tử và vài vị đại thần cấp cao trong kinh đến, hỏi một lượt toàn bộ mọi chuyện to nhỏ ở kinh trong những ngày đại quân đi vắng.
Tứ a ca và các huynh đệ khác đứng bên nhau, người mặc giáp trụ, không nói năng gì. Trên đầu mặt trời rọi nắng chang chang, nướng toàn thân thiếu điều chín đỏ. Khi mặt trời lặn, ngoài Võ Anh điện lại bắt đầu có gió rít vù vù, thổi cho lớp mồ hôi khắp người khô rang, sau đó là một cơn rét run chạy dọc.
Tháng bảy đấy!
Tứ a ca thấy mặt Tam a ca ban đầu đỏ phừng vì phơi nắng, nay lại vì hứng gió mà trắng bệch cả ra. Chàng đưa tay đỡ, nhỏ giọng bảo: “Tam ca? Huynh sao rồi?”
Tam a ca không dám mở miệng, chỉ cố sức trợn mắt thật to để cho thấy mình vẫn còn rất tỉnh táo. Ban nãy y cũng sắp bị bộ giáp trụ trên người đè ngã rạp ra mất. Loại giáp trụ mà hoàng tử mặc được chế tạo từ đồng thau và vàng, khảm trên lớp da bò hồ cứng, bao phủ cả tấm áo choàng từ trước ra sau. Cộng thêm nữa là thắt lưng, hai con dao giắt ở eo, và mũ giáp của y đều làm từ vàng và đá quý… Mẹ ơi… nặng quá…
Trước đó còn nghe thấy tiểu thái giám ở hậu cung chạy tới xem khi nào họ sẽ xong, đoán chừng những phi tử có con trai cũng muốn xem liệu có được gặp mặt con một lần không. Màn đêm vừa buông, chẳng thấy tiểu thái giám sang nữa, có lẽ vì biết hôm nay không phải dịp rồi.
Hoàng thượng hãy chưa nói chuyện xong với đại thần và thái tử, Tứ a ca thấy sắp tám giờ, bên trong mới có một tiểu thái giám đi ra mời các a ca về trước, mấy ngày tới sẽ chuẩn bị vào yết kiến ngài ngự.
Nhóm Tứ a ca quỳ xuống dập đầu trước cửa Võ Anh điện, sau đó giải tán ra về.
Vừa ra khỏi cửa cung, Tam a ca đã phải vịn tường, nói: “Lão Tứ này, xem xem có xe của phủ ta không. Ông đi hết nổi rồi.”
Ngũ a ca dìu Tam a ca, Tứ a ca hỏi thăm các xe đứng đợi người ở ngoài, quả đúng có xe của phủ Tam a ca. Giờ này các đại thần vẫn chưa về nhà, số xe đón người ngoài cổng cung sắp vượt qua cả số xe chở tú nữ vào cung mất.
Phúc tấn của Tam a ca quả rất hiểu gia nhà họ, đã sắp một cỗ xe rộng rãi, hai người điều khiển xe dìu Tam a ca lên, liền có một tiểu thái giám trong xe cởi bộ giáp trên người Tam a ca xuống. Tam a ca đổ ập vào xe như người không xương, khoát tay với hai đứa em đứng ngoài: “Khi nào lại đến tìm các đệ trò chuyện, ta về trước đây.”
Xe chở Tam a ca đi khuất, xe của phủ Tứ a ca và Ngũ a ca cũng vượt ngàn trắc trở chạy đến được đây. Nhưng Tứ a ca ưa sĩ diện, không muốn vừa ra ngoài đã leo tót lên xe ngồi giống Tam a ca, Ngũ a ca thì vốn chẳng mệt, hai người bèn cưỡi ngựa, xe đi đằng sau theo về phủ.
Trên đường, hai người không ai nói câu gì.
Lần này hoàng thượng phải chịu sự nhục nhã nặng nề, tuy vẫn có giữ người ở ngoài tiếp tục truy bắt Cát Nhĩ Đan, song hoàng thượng dẫn cả đàn con trai đi cốt phô bày danh tiếng Đại Thanh, để rồi lại trắng tay trở về… Cục tức này biết xả xuống đầu ai đây? Ai chịu đứng ra tìm lại thể diện này cho hoàng thượng đây?
Tâm trạng Tứ a ca phức tạp hơn cả. Năm nay về kinh rồi chàng mới biết hoàng thượng muốn xuất chinh, mới hiểu nguyên nhân vì sao hoàng thượng sai phái chàng đi điều tra mà lại không cho chàng xử bọn tham quan ấy. Chẳng phải bởi lo sợ hậu phương chấp chới đấy sao? Chàng nuốt giận quay về, tưởng như mặt mũi của một a ca đã mất sạch, bị một đám quan nhốn nháo lường gạt. Ấy thì hoàng thượng còn phải nhẫn nhục vất vả hơn nữa, vậy mà kết quả lại thế này.
Lần trước, chàng nhận ra a ca đối với hoàng thượng chẳng đáng là gì cả. Đến uy tín của thái tử mà hoàng thượng còn thích dẹp là dẹp, thái tử dẫu đã hai mươi mấy, song vẫn không thể quang minh chính đại tham gia vào chính sự; bắt y đi theo dõi việc học của các tiểu a ca là y phải đi, và không được buông một câu trách hờn nào.
Vậy đám a ca mười bảy, mười tám như họ đây, cũng chỉ biết đi theo sau đuôi làm đứa con nít.
Nhưng nhìn ra kia mà xem, giờ con trai con đứa nhà ai mười bảy, mười tám rồi mà không phải người lớn nữa, lại để người ta chăm nuôi như là con nít?
Nhưng hoàng thượng muốn họ làm con nít, thì họ phải làm con nít, chứ không được nhảy dựng lên la lối: Hoàng a mã, chúng con lớn rồi, cho chúng con làm việc đi.
Lần này, chàng phát hiện hoàng thượng cũng có những lúc vô giá trị.
Hiện giờ hoàng thượng đang thể hiện sự cần kiệm, liêm chính của mình, có thể sẽ còn giận cá chém thớt với một vài quan viên. Nhưng thể diện đã mất thì vẫn cứ là mất rồi.
Chia tay Ngũ a ca, Tứ a ca về phủ. Chàng vào thư phòng, thay đồ rửa mặt, nghĩ nên đi thăm phúc tấn, lại mệt chẳng muốn đi đâu.
Thú thực, chàng đang lo cho thái tử. Ngoài thái tử, đám người chịu trách nhiệm khoản hậu cần, lương thảo và quân giới sẽ bị kéo ra chịu trận. Quan viên đầy ra đấy, có giết bao nhiêu cũng vẫn có người lên thay, nhưng còn thái tử…
Tứ a ca nằm trên sạp trong thư phòng trằn trọc mãi không ngủ được.
Hoàng thượng thực sự sẽ lại thêm một lần đẩy thái tử vào cảnh đi3m nhục ư?
Càng nghĩ càng phiền lòng, Tứ a ca trở mình ngồi bật dậy. Tô Bồi Thịnh hầu ở gian ngoài không dám ngủ, vội nói: “Gia, người muốn dùng trà à?” Nghe tiếng Tứ a ca xuống giường, hắn vào hầu ngay.
Tứ a ca mặc áo, nói: “Sang chỗ Lý chủ tử của ngươi xem.”
Đi thăm Lý thị và Nhị cách cách đổi gió vậy.
Đoàn người lẳng lặng xách lồ ng đèn đi trước mở đường, đi qua cửa nhỏ sẽ là tiểu viện của Lý cách cách.
Ở góc mái hiên tiểu viện có treo một chiếc đèn lồ ng giấy*, tỏa những ánh lập lòe chớp nháy trong đêm.
*Gốc là 气死风灯 (灯 – đèn, 气死风 – gió tức chớt), một loại đèn lồ ng giấy mà gió cũng không dập tắt nổi, làm gió tức chớt.
Trong viện, Triệu Toàn Bảo theo vào cùng, không mật báo kịp; đám Ngọc Bình khoác áo chạy ra mở cửa. Tứ a ca đi thẳng sang chái Tây, vì chàng nhớ lần trước Lý thị nói giờ nàng ở lại chái Tây. Vào rồi, lại phát hiện chái Tây chẳng một bóng người?
Bấy giờ, Lý Vi choàng áo chui từ phòng ngủ ra, mặt mũi nom đỏ phơn phớt.
Tứ a ca tưởng Nhị cách cách đã được chuyển ra ngoài, bèn ôm vai nàng quay gót, đoạn nói: “Sao ngủ sớm thế? Chẳng đợi gia sang thăm nàng.”
Lý Vi thầm kêu hỏng bét, toét miệng cười ha ha.
Vào trong phòng, vừa vén màn lên, Tứ a ca đã trông thấy Nhị cách cách nằm trên giường, tay chân dang rộng ngủ say sưa tít mít. Thế cũng chưa là gì, nhìn xuống cuối giường, lại thấy Bách Phúc đương quẫy đuôi với chàng.
Từ nãy Tứ a ca đã nhận ra nét mặt ngập ngừng của Lý thị, bụng biết ngay có gì mờ ám, mà đâu ngờ rằng nàng lại để Bách Phúc và Nhị cách cách ngủ chung trên một chiếc giường.
Bách Phúc là giống chó cái tính nết hiền dịu, nhưng vậy cũng không được!
Chàng quay sang nhìn chằm chằm Lý thị, lần đầu tiên nói chuyện với nàng bằng một giọng đanh trầm: “Nàng to gan.”
Lý Vi quỳ sụp xuống.
Đúng thực là thời gian qua nàng sống thư thái quá. Tính ra, cũng gần hai năm Tứ a ca không về nhà, thật tình nàng đã dần quen với việc gạt phắt chàng ra khỏi tâm trí cho nhẹ đầu. Hôm nay tám giờ hơn Tứ a ca mới về, nghe nói hết phải đón hoàng thượng, rồi thì lại vật vã trong cung cả ngày trời. Nàng tưởng chàng sẽ về thẳng thư phòng mà ngủ, ai ngờ tự dưng chàng chạy luôn sang đây.
Chẳng phải phúc tấn có con rồi à? Anh sang chỗ chị ấy mới đúng chứ?
Tứ a ca ngồi ở mép giường, đăm đăm nhìn Lý thị quỳ dưới. Chàng đương nghĩ không biết phải răn dạy nàng thế nào. Ẵm Nhị cách cách đi à? Phúc tấn vừa mang thai, làm vậy không ổn. Ôm Bách Phúc đi à? Về sau chàng sẽ càng lúc càng bận bịu, ôm sang thư phòng cũng chưa chắc có thì giờ dành cho nó. Đưa sang chỗ phúc tấn à? Hình như phúc tấn không thích chó.
Phạt nàng à? Phạt kiểu gì? Phạt bạc à? Lý thị vốn không bận tâm gì mấy đồng bạc, thời mới vào A Ca Sở, hễ thưởng cho ai là nàng toàn thưởng bạc. Lúc biết chuyện ấy, chàng cứ ngỡ kẻ nào ăn hiếp nàng, có ngờ đâu là tại nàng chơi sang quá. Vả chăng, ở chỗ chàng còn nguyên cả rương bạc của nàng, cũng làm gì thấy nàng than nghèo với ai khi nào.
Phạt roi à? Đánh bằng roi đánh hạ nhân thì ắt hẳn không được, hay là, sai người chế ra một tấm ván tre mỏng một tí? Nhưng để ai đánh đây?
Tứ a ca tưởng tượng ra cảnh c ởi quần Lý thị, bắt nàng nằm một chỗ mà đánh, cổ họng bỗng khô khốc.
Chàng đánh. Khỏi cần ván tre gì hết.
Vừa thò tay kéo Lý thị lại, thình lình chỗ eo bị cái chân nhỏ đạp mạnh một cú, chàng ngoái nhìn, thấy Nhị cách cách lúc này đã xoay ngang người, hai cái chân ngắn tũn đương ra sức đạp lên eo chàng.
Thấy vậy, Lý Vi giải thích: “Chắc con đang mơ thấy mình đi đường đấy.” Nàng cũng bị nhóc con này đạp mấy cú đau điếng, trên đùi trên lưng toàn vết bầm đen.
Tứ a ca nhìn con gái, đến khi sực hoàn hồn, mọi cơn giận đã bay biến đi hết. Chàng lại sầm mặt, kéo Lý thị vào lòng, nhỏ giọng răn nàng: “Sao nàng để Bách Phúc ngủ chung với cách cách?” Sợ đánh thức con gái, chàng hạ giọng cực thấp, hai người chụm vào nhau sát sạt.
Xem chàng không còn hùng hùng hổ hổ nữa, Lý Vi hết sợ, cũng thầm thà thầm thì: “Bách Phúc không bẩn đâu, trước khi lên giường sẽ được rửa sạch móng và mông.”
“Thế cũng không được!” Tứ a ca vỗ mạnh vào mông nàng, làm eo nàng ưỡn hẳn về trước: “Bách Phúc có ngoan mấy cũng là chó thôi, cách cách bé như thế, chưa biết kiểm soát tay chân, lỡ chó nổi điên cắn cách cách thì sao?”
Lý Vi nói: “Thiếp cũng ngủ chung mà.”
Tứ a ca: “Thế càng không được! Phải để Bách Phúc ngủ ở phòng của nó, không có nàng ôm, sao Bách Phúc trèo lên giường được.”
Cái này thì đúng, lúc đầu ôm lên, Bách Phúc luôn bất an nhảy xuống. Giờ nó quen giường luôn rồi.
“Hôm nay thiếp quên mất.” Lý Vi nói. Thực ra sau khi nàng ngủ, Bách Phúc sẽ tự nhảy khỏi giường. “Nó chỉ đang bảo vệ thiếp thôi.” Nàng thực sự có cảm giác đó. Từ khi có Nhị cách cách, Bách Phúc chưa bao giờ rời Nhị cách cách nửa bước, dù có là nhũ mẫu, cũng bị con mắt trợn trừng của nó nhìn chòng chọc. Buổi tối Bách Phúc nhảy xuống giường rồi cũng ngủ ngay cạnh cửa.
“Nó hiểu tính người lắm, thiếp xem nó như người nhà luôn đấy.” Lý Vi vuốt v e Bách Phúc.
Có lẽ Bách Phúc biết chủ đang nói mình, nó thôi quẫy đuôi, ngồi trước mặt Tứ a ca, làm vẻ như thể xin chấp nhận mọi hình phạt.
Tứ a ca biết Bách Phúc trung thành, cũng không nỡ lòng phạt nó. Vậy nên lỗi vẫn ở Lý thị! Chó tốt đấy, nhưng nàng là chủ mà không ra dáng chủ, dạy hư thân chó.
Chàng bèn kéo nàng chui ra sau bình phong, Bách Phúc khôn lắm, không đi theo cùng, mà nằm nhoài ra bên giường nhìn Nhị cách cách.
Sau bình phong, Tứ a ca: “Đụng vào đâu đây?” Sao đùi toàn vết bầm thế này?
“Nhị cách cách đá đấy, chân con khỏe đáo để!” Bàn tay to lành lạnh của chàng chạm vào Lý Vi, làm nàng hít hà một hơi.
Bốp!
Tứ a ca phát nàng một cú.
“Á!” Lý Vi toan trốn, liền bị chàng đè lại tét cho mười mấy cái liền.
“Lần sau còn để ta thấy nàng vô phép tắc như thế nữa thì không đơn giản vậy đâu.” Tứ a ca nói.
Một lúc sau, sau bình phong vang lên tiếng th ở dốc.
“Sao lại ở chỗ này…”
“Lát nữa sẽ qua chái Tây.” Tứ a ca quẳng một câu, rồi chuyên tâm hành sự.
Sau đó hai người vòng ra khỏi bình phong, nhẹ tay nhẹ chân mặc quần áo đi sang chái Tây. Lý Vi không quên dặn nhũ mẫu trông chừng Nhị cách cách.
Tứ a ca vào chái Tây lại vui vẻ thêm một nháy nữa, xong xuôi nằm ôm Lý Vi trên sạp, thấy mình mẩy sảng khoái dễ chịu, mạch não cũng thông suốt hơn. Nay hoàng thượng chịu phen muối mặt, ắt phải có người nhận gánh tội. Ngài trút giận lên đầu đại thần thì không sao, nhưng nếu làm vậy với thái tử, chàng sẽ đứng lên nói đỡ cho thái tử.
Dẫu sao, ngay đến hoàng thượng cũng hiểu rõ rằng mình chỉ đang giận chó đánh mèo với thái tử thôi. Lúc này chàng bước ra, chẳng những thái tử sẽ mang ơn chàng, mà hoàng thượng cũng sẽ có ấn tượng tốt về chàng.
Chàng vuốt bờ vai nuột nà của Lý thị, nhớ tới chuyện phúc tấn có thai.
“Phúc tấn dạo này sao rồi?” Chàng hỏi.
“Thiếp không hay gặp phúc tấn, chỉ nghe người ta bảo vẫn khỏe lắm.” Lý Vi đáp.
Tứ a ca nghe nàng nói lấp lửng mơ hồ, nhưng giọng điệu không có vẻ gì là ghen tuông, thoạt trông khí sắc khá hơn, thanh thản hơn hồi tết nhiều. Lý thị quả nhiên vẫn tốt, thấu hiểu mọi chuyện, không phải hạng người hẹp hòi chi li. Phúc tấn có thai là chuyện tốt cho tất cả, đặc biệt là với nàng. Nàng hiểu được điều này đã là quý lắm rồi.
Tứ a ca có ý dỗ nàng, cũng muốn thưởng cho nàng, bèn nói: “Ta nhớ con gái mười lăm là đặt tên tự được rồi nhỉ?”
Lý Vi: “Lấy chồng là đặt được rồi.” Không thì sao gọi là “đãi tự khuê trung”* được? Tiếc rằng đời này của nàng coi như đã được gả phắt cho chàng, còn chàng thì lại chẳng phải là cưới nàng.
*Đãi tự khuê trung: “Khuê trung” nghĩa là ở trong khuê các, “đãi tự” nghĩa là đợi lấy chồng. Mà “tự” ở đây ý chỉ con gái khi đến tuổi làm lễ cài trâm thì sẽ đặt tên tự (lễ cài trâm được cử hành sau khi đính hôn, trước lúc xuất giá). Sau lễ cài trâm là thành niên rồi, chỉ còn đợi gả chồng nữa thôi, lúc này con gái sẽ được đặt tên tự luôn.
“Ta đặt cho nàng một tự, gọi là Tố Hinh.” Tứ a ca vuốt suối tóc nàng. Trên đường xuất chinh, thường hay bắt gặp những khóm hoa năm cánh nhỏ, mang màu trắng hồng đáng yêu, mùi thơm ngào ngạt, ngửi vào chợt thấy quên hết mọi phiền ưu. Nhóm quân y đi cùng sai những đứa cu li đi hái hoa làm thuốc, sắc ra cho các binh sĩ bị đau dạ dày và lở loét miệng uống vì ăn món thịt nướng lạ.
Chàng cũng từng hái một túi đặt trong lều, làn hương nồng nàn mãi chẳng phai.
Tố Hinh… nghe thấy như thể già đi chục tuổi… như tên a đầu vậy…
Một cách sâu sắc, Lý Vi cho rằng tên mình vẫn lọt tai hơn, hoa tường vi đẹp biết mấy, nở kín bức tường mỹ lệ xiết bao. Nhưng Tứ a ca đương mê say, nàng cũng chỉ đành thuyết phục mình rằng Tố Hinh cũng được lắm rồi.
Hôm sau, Tứ a ca đi khỏi, Lý Vi mới tra ra Tố Hinh là tên hoa, bèn sai Triệu Toàn Bảo tìm hỏi thợ chăm hoa ngoài vườn xem có thể nào chuyển một gốc hoa tố hinh sang cho nàng được không.
Hai hôm sau, thợ hoa đưa hoa tới, hoa được nuôi trong chiếc chậu sứ nhỏ cỡ hai bàn tay, hoa đương độ nở, năm cánh be bé tuyết trắng hứng gió “say hi” với nàng.
Tiểu – bạch – hoa.
Mặt Lý Vi xanh mét.
*Hoa tố hinh là hoa nhài, hoa nhài màu trắng nên Lý Vi mới gọi là “tiểu bạch hoa”. Mà “tiểu bạch hoa” còn có một ẩn ý đó là chỉ mấy cô gái mưu mô, bề ngoài yếu đuối đáng thương, bề trong thâm hiểm nham độc, thường lợi dụng bề ngoài của mình để lấy được cảm tình từ người khác.
(còn tiếp)
Dạo gần đây Tứ a ca mải quẩn quanh một việc lo phủ đệ cho Thất a ca và Bát a ca. Công việc này quả như dính cứng vào tay chàng, gỡ ra làm sao được! Nếu một năm trước khi tiếp nhận nhiệm vụ này, trong suy nghĩ của chàng chỉ có đền đáp hoàng ân, tình nghĩa huynh đệ linh tinh, thì hiện bây giờ đã thấy phiền lắm rồi!
Chàng có phải kẻ chuyên trông việc xây nhà đâu cơ chứ.
Song theo tình hình hiện nay, hằng ngày bất kể có chuyện gì, chàng đều phải đến Nội vụ phủ trình diện. Hết lượt người này tới lượt người khác chạy vào báo cáo với chàng: “Tứ a ca, gạch xanh chỉ còn bốn trăm miếng”, “Tứ a ca, hơn sáu trăm mầm cây nhựa ruồi héo mất rồi”. “Tứ a ca, cái ao ở vườn hoa đằng Đông hết lấp được nữa rồi, hôm nay có người khiêng ngói lợp trần nhà đi ngang đó, sẩy chân ngã vào ao, vỡ hai gánh ngói.”
Đi chết hết đi! Đây không phải việc của gia!
Ức thì ức thế, Tứ a ca vẫn chậm chạp bỏ chén trà xuống, nói với người đang đứng trước mặt đợi chàng lên tiếng: “Ồ, người gánh ngói sao rồi?”
“Một người rơi vào bùn, khó lắm mới vớt lên được thì đã tắt thở, người còn lại bị gãy một chân.” Cái đám lấp ao đúng là chẳng được tích sự gì! Đổ tí đất vào trong, ở ngoài dựng trơ trơ vài ba tấm ván gỗ vậy, thế là xong, kệ ở đấy. Hai kẻ gánh ngói lại ham tiết kiệm bước chân, bèn chọn con đường tắt này để đi, mới thành ra hậu quả thế ấy.
Hay thật, vốn đang định phạt roi, giờ thì… Tứ a ca lắc đầu, thở dài: “Gửi cho người nhà họ ít bạc, đưa tang tử tế. Giục người xử lý phần ngói nhanh nhanh, cứ bảo sắp đến ngày rồi, cứ mà trù trừ nữa thì cả bọn cùng lôi đầu nhau đi gặp hoàng thượng đi.”
Trông bộ mặt vẻ ” đang rất là bực mình vì không tìm được ai để phạt roi” của Tứ a ca, người kia nhanh nhảu xéo ngay.
Tứ a ca thở dài một hơi, phiền quá đi mất.
Tôn chỉ hiện giờ là thà lặng tiếng còn hơn rầm rộ. Được ngồi ở Nội vụ phủ lo nhà lo cửa đã may mắn lắm rồi, nghe đâu hôm qua hoàng thượng vừa răn thái tử một trận, buổi trưa lại ban thiện cho. Tam a ca lại bảo bị cảm nắng, vẫn đang dưỡng bệnh trong phủ. Bát a ca dạo này thường xuyên theo chân hoàng thượng, hình như có hiềm khích với Đại a ca.
Ai cũng nói Đại a ca không thể giương mắt nhìn Bát a ca được hoàng thượng tin sủng.
Tứ a ca chỉ biết cười ha ha.
Bát a ca trở thành gương mặt rất nổi trội trong khoảng thời gian trở lại đây. Nào là y được hoàng thượng tin cậy, vụ phúc tấn của Nạp Lan Minh Châu bị đâm chết, hoàng thượng cũng chỉ cử y đi hỏi han. Rồi là khen y được một phúc tấn tốt. Phúc tấn của y là con gái Hòa Thạc cách cách, cháu ngoại An Thân vương Nhạc Lạc. Cha là Quách Lạc La Minh Thượng bị chết oan, có điều cũng tại bài bạc cá cược hai ngàn lượng bạc. Đặt ở hiện tại thì đã chẳng nên nỗi ấy, chỉ có thể nói rằng người này không bắt kịp thời đẹp.
Tuy nhiên, Tứ a ca nghĩ nếu nhìn từ góc độ khác, có lẽ ban đầu hoàng thượng chỉ muốn cho An Thân vương một cái tát thôi. Quách Lạc La Minh Thượng xui xẻo bị ngài chọn làm bè, vốn dĩ nếu cách cách của An Thân vương không chết, qua thêm vài năm nữa hoàng thượng sẽ chỉ hôn lần hai cho bà. Ngờ đâu ngạch phò* vừa đi, cách cách của An Thân vương cũng đi theo nốt. Thù oán chất chồng, hoàng thượng chỉ đành cố hết sức bù đắp lại.
*Cách gọi phò mã theo tiếng Mãn.
Chuyện Bát a ca cưới cô phúc tấn này về nhà là phúc hay là họa thì còn khó nói lắm.
So với Bát a ca, Thất a ca dựng phủ cùng năm, cưới phúc tấn cùng năm với y lại thành kẻ đáng thương. Hễ nhắc Thất a ca là người ngoài sẽ luôn kèm theo cụm “cùng dựng phủ chung với Bát a ca” ở sau cái tên, phận làm anh mà phải chịu nỗi ấy thì thực là mất mặt. Mẫu phi Đới Giai thị của y tuy là Tần, song vào cung mười mấy năm trời lại không thấy nhích lên thêm bậc nào. Bà vào cung đúng dịp thuận lợi, sơ phong* cũng cao, có một con trai, ấy mà qua hơn chục năm, vẫn chưa được tiến phong, từ đó bị gán cho luôn cái danh không được sủng. Có một mẫu phi như thế, Thất a ca lại không vượt trội hơn ai, tới tận giờ này vẫn chưa thấy nói năng gì để mà người khác biết đường tu sửa phủ đệ. Chả nhẽ định giao đứt cho Nội vụ phủ tùy ý giải quyết, chắp vá qua loa thật?
*Phong tước lần đầu.
Tứ a ca ngẫm nghĩ, bèn sao lại bức phong thủy của phủ Thất a ca, rồi đi sang A Ca Sở.
Tuy mới dọn ra ngoài hai, ba năm, song khi quay về nơi này bỗng lại sinh ra cảm giác như thể đã trải qua một đời. Tứ a ca thả chậm bước dọc bức tường cung quen thuộc, thốt nhiên dấy lên nỗi lòng hoài niệm.
Chàng vừa đi vừa ngắm cảnh, lúc đến A Ca Sở, vừa khéo Thất a ca cũng đang ở đây.
“Đúng lúc quá, lão Thất qua đây xem xem, đệ định sửa phủ theo kiểu nào?” Vào phòng, Tứ a ca nói thẳng. Chàng nhét bức phong thủy trong tay mình vào tay Thất a ca, nói: “Dâng trà, khát chết mất.”
Thất a ca kẹp bức vẽ dưới nách, tự tay bưng trà cho chàng: “Mời Tứ ca dùng.”
Cùng uống với nhau chén trà, hai người mới di chuyển sang thư phòng của Thất a ca, trải bức phong thủy ra cái bàn học trước cửa sổ. Tứ a ca chỉ vào chỗ cửa trước rồi giới thiệu lần lượt từng nơi cho y, chàng vốn tính làm việc gì là cũng phải làm bằng tốt nhất, ngay cả cây cối trong phủ Thất a ca và Bát a ca đều do chính tay chàng lựa chọn. Chàng giảng giải đầu đuôi rõ ràng, Thất a ca chỉ mải gật đầu.
Tứ a ca bất mãn: “Lão Thất, đệ cũng phải cổ vũ cho Tứ ca đi chứ, nói câu để biết chắc, cứ gật đầu hoài mà làm chi? Có ưng cảnh trí nào, nhân dịp này vẫn sửa được, Tứ ca làm cho đệ hết.”
Năm xưa ở A Ca Sở, Thất a ca có tiếng là người trầm tính kiệm lời. Dẫu rằng đều có những mẫu phi mờ nhạt như nhau, đặt lên bàn cân so thì mẫu tộc của Bát a ca còn lép vế hơn đôi chút, song tinh thần cầu tiến ở Bát a ca có phần nhỉnh hơn hẳn, Thất a ca lại không lấy làm mặn mà gì.
Lúc này, Thất a ca nói: “Vừa nãy Tứ ca nói vậy, là đệ biết nhất định không sai sót được. Khi nào đệ đệ chuyển vào ở, chắc chắn chỗ nào cũng thích. Tứ ca muốn tốt cho đệ đệ, đệ đệ biết cả.”
Phút chốc Tứ a ca cảm thấy con người Thất a ca sao này mà khá quá. Ngày trước còn cho rằng y không có chí hướng gì, khiến người ta trông vào mà chướng mắt. Nay nhìn nhận lại thì cũng có vẻ là một người biết nghĩ.
Chàng bật cười, nói: “Vậy là tốt.” Nói đoạn, lia mắt một vòng quanh thư phòng của Thất a ca, thấy các bức họa treo rặt những đối tượng hoa chim sâu cá, đậm ý an nhàn phiêu dật. Xem ra Thất a ca quả nhiên không mảy may lòng tranh giành cướp đoạt, chỉ ước mong được ngày nào hay ngày ấy.
Quay về, Tứ a ca bắt tay sửa sang lại đôi ba chỗ trong bức vẽ phong thủy phủ Thất a ca, thêm vào ít quái thạch, trúc gầy các loại. Thả thêm mấy con cá vào ao nước ở hoa viên; và còn dặn riêng thợ chăm hoa trồng ít rêu xanh ở chỗ góc tường, bậc thềm. Làm hết những điều trên, những nét kiêu kỳ, thanh cao tức khắc phát tiết ra ngoài.
Cho đi có phúc hơn cả nhận lại. Dù giúp đỡ em út chỉ là việc nhỏ thôi, nhưng làm xong rồi, lòng Tứ a ca vẫn tràn ngập niềm kiêu hãnh của một người anh.
Về phủ, bỗng nhớ sáng nay có bảo sẽ dẫn Nhị cách cách và Tố Tố đi du xuân, chàng bèn sai Tô Bồi Thịnh đi gọi thợ thêu trong phủ tới, ngoài ra còn mở nhà kho lấy mấy xấp vải đẹp mới về năm nay. Kế đó chàng tự trải giấy, chỉ đi vài đường bút đã phác họa ra ngay dáng hình yểu điệu một người con gái. Nàng ấy đứng ở giữa, mặt tròn, mắt hạnh, nhoẻn cười trong veo, suối tóc nhánh đen vén lại bên tai, gài nghiêng một chiếc trâm ngọc mắt mèo.
Chàng đổi bút, pha thuốc màu, đồ nét trước, lại lên màu, xong mới trau chuốt gọn gàng. Người trong tranh mặc áo màu hồng phấn; kỳ bào hồng đào xen viền sắc bạc; khoác tấm áo choàng có cổ lông thỏ trắng, mặt áo vàng lá liễu, tím nhạt lót mặt trong; chân đi cặp ủng thẫm đỏ, điểm xuyết thêm lông thỏ trắng phau.
Lúc thợ thêu đến, Tô Bồi Thịnh nháy mắt làm hiệu cho họ đứng sang bên hầu. Vẽ tranh xong, Tứ a ca gọi lại căn dặn: “Chiếu theo kiểu trong tranh, làm hai bộ một lớn một nhỏ. Cho các ngươi nửa tháng, có làm được không?”
Thợ thêu đồng thanh đáp không vấn đề gì.
Tứ a ca dặn kỹ: “Trên xiêm y màu hồng chỉ dùng chỉ bạc để thêu hoa, không được dùng sợi tơ mang màu khác.” Lại luôn miệng bảo chỗ này phải làm thắt eo, chỗ kia thêu bằng chất liệu gì, vân vân.
Hành người khác như là một thú tiêu khiển của Tứ a ca. Thợ thêu lui ra, đi sang tiểu viện. Chàng nhớ mình từng nói sẽ nung cho Tố Tố một bộ đồ sứ, bèn hỏi Tô Bồi Thịnh: “Bộ sứ trắng kia đã nung xong chưa?”
Tô Bồi Thịnh đáp: “Hôm qua đã đưa tới đây, nô tài dẫn người đi tự kiểm. Tổng cộng có hai trăm ba mươi sáu món.”
Trong đó còn có mấy món làm theo mẫu tự tay chàng vẽ. Tứ a ca nổi hứng, nói: “Đem vào đây xem.”
Tô Bồi Thịnh đi kêu người khiêng hai rương vào, mở rương lấy từng món ra đặt lên bàn.
Bộ đồ sứ trắng này được làm toàn bộ từ sứ Điềm Bạch thân mỏng*, thoạt trông ánh lên sắc trắng tựa làn da sáng trong mềm mại của nàng mỹ nhân. Để nung ra được màu sứ này, người thợ nung phải bỏ biết bao là công sức.
*Sứ Điềm Bạch: có từ thời Vĩnh Lạc đế của nhà Minh. Sở dĩ gọi là “Điềm” vì màu men gốm trắng tinh mang lại cho người nhìn cảm giác đẹp đẽ ngọt ngào.
Lý Vi thích đồ sứ có hình tròn, bất kể là cốc, đĩa, chén, ly, ấm, lọ, các vật dụng bằng sứ trong phòng nàng dù chỉ là bồn hoa thôi cũng được thiết kế theo hình quả bí đỏ. Nhưng thế vẫn chưa vừa ý nàng, nếu tròn ủng như quả dưa hấu có khi nàng còn vui hơn.
Những món khác dễ tìm rồi, duy chỉ mỗi tách uống trà có nắp là chưa tròn. Không dưới một lần Tứ a ca bắt gặp nàng uống trà trong cái thố đậy mà thiện phòng dùng, làm chàng nhìn kiểu gì cũng thấy kỳ quặc, cứ ngỡ nàng đang ăn canh.
Lần này dứt khoát nung luôn cả bộ cho nàng.
Trên chiếc bàn dài ở phòng chính bày đầy là những món đồ sứ trắng muốt đủ các kích cỡ, ánh dương chiếu vào là cả phòng long lanh. Tô Bồi Thịnh kịp bắt lấy một nét cười vừa lòng từ Tứ a ca, bụng thầm cảm tạ ông trời thay nhóm thợ nung.
Tứ a ca cầm cái cốc được làm phỏng theo tranh Lý Vi vẽ lên trước, thực chất đây là kiểu cốc quai cầm có nắp. Lúc đó trong thư phòng hai người nói chuyện nung sứ, nàng chấp bút vẽ một bức, trỏ vào cái cốc ấy, bảo làm kiểu này cho dễ cầm. Chàng bèn thử, và quả thực là khá dễ cầm. Phải nghĩ cách biến hóa từ thố đậy ra cái này, đúng là làm khó nàng quá mà.
Nguyên văn câu nói của Lý Vi như sau: “Hai quai hai tay cầm, một quai một tay cầm mà, tiện hơn bao nhiêu.”
Vì phong cách, vì an toàn, nàng thực là hao hết tâm huyết.
Tứ a ca chọn mấy món trông khi cầm tinh tế, nhã nhặn, nói: “Giữ lại một ít cất ở đây, còn lại đưa sang cho nàng ấy.”
Có vài thứ hay ho, chàng cũng vui lòng dùng thử xem sao.
Lúc Trương Đức Thắng gọi người khiêng rương gỗ sang tiểu viện, thợ thêu hãy chưa đi, hai bên lướt ngang qua nhau. Nhóm thợ thêu liếc thấy lại có người khiêng những mấy rương đồ đi sang tiểu viện. Trước mặt không dám nói năng gì, khi trở về phòng hạ nhân mới bàn tán xôn xao: “Ai cũng bảo Lý cách cách thế này thế kia, không chính mắt thấy thì thật là không dám tin.”
Một người bảo: “Mới thế mà đã nhộn lên? Hiếu Hiến hoàng hậu* ngày xưa…”
*Hiếu Hiến Đoan Kính hoàng hậu (Đổng Ngạc thị) là một phi tần rất được sủng ái thời Thuận Trị đế.
“Suỵt! Chị chán sống rồi à! Im miệng ngay!”
Bấy giờ cả đám người mới không dám hó hé gì nữa, lặng lẽ đi đo cỡ cắt vải.
Trong tiểu viện, nhìn thấy cả một rương với đủ mọi loại cốc bát, Lý Vi sướng muốn điên! Hồi ở hiện đại nàng đã đam mê sưu tầm các kiểu cốc và bát, lướt Taobao thấy là phải mua ngay liền tay, vào siêu thị đi ngang khu bán đồ bếp núc là chân như đóng đinh ngay ở đấy. Vì tình yêu với đồ sứ, đi vào chợ hoa hễ thấy có bồn hoa nhỏ nhỏ xinh xinh nào là cứ muốn tậu về, mua về nhà bèn nghĩ: “Lần sau trồng hoa là dùng được rồi”. Nhưng “lần sau” này lại chẳng biết đến mùa quýt nào…
Thấy Lý cách cách chỉ huy mọi người thay hết những món đồ hiện đang sử dụng, bồn hoa trong phòng cũng phải đổi hết thành bồn mới, Trương Đức Thắng sợ họ lu bu quá, bèn giữ người mình ở lại giúp đỡ một tay. Đồ mới phải lấy ra lau chùi sạch rồi trưng bày lên, cái cũ cũng được chùi lau sạch và cất vào trong rương. Triệu Toàn Bảo gọi thợ hoa tới, đem tất cả bồn hoa đi đổi thành cái mới.
Bồn tố hinh mà Lý Vi đặt trong phòng ngủ được chính miệng nàng dặn phải thay bồn to, và dựng thêm hai cây cột, “Để xem nó có leo lên không”. Nàng nói.
Thợ hoa chưa chăm loài hoa dại như này bao giờ, trông không giống mấy loại hoa mọc leo lên cột. Nhưng nếu chủ tử muốn thấy nó leo, nó ắt phải leo được. Người thợ quyết định đi về tìm cột để quấn dây leo lên cố định xem nó có sống nổi không, xem liệu sang năm nó có ghép cành được như những loại cây leo không.
Tô Bồi Thịnh thấy Trương Đức Thắng đi mãi chưa về, đang định tìm người đi hỏi, Tứ a ca coi sắp đến giờ ăn trưa, bèn thẳng tiến sang tiểu viện. Vừa vào chàng đã thấy hàng đống rương gỗ bày la liệt trong sân, Triệu Toàn Bảo và Trương Đức Thắng đang bắt tay với bọn người hầu, vừa ghi chép vào sổ sách, vừa cất đồ vào trong.
“Chuyện gì đây? Tiểu Đức Thắng! Vác cái mặt mi lại đây ngay!” Tô Bồi Thịnh bước tới quát.
Thấy Tứ a ca, mọi người trong sân quỳ xuống ngay.
Lý Vi dẫn Nhị cách cách từ trong phòng đi ra, tay mỗi người cầm một chiếc cốc có quai vừa được đưa tới.
“A mã, ngạch nương dạy con uống sữa bằng cái này!” Nhị cách cách giơ cốc, giọng hồ hởi.
Nhìn cái cốc, Lý Vi bất chợt nhớ về món trà sữa của hiện đại, ở đây uống bằng chén trà nắp đậy cứ thấy lạ kỳ. Nàng bảo Ngọc Bình đi đun một ấm, bày cho Nhị cách cách chơi trò gia đình, còn dặn riêng thiện phòng làm bánh xốp trứng và mấy loại bánh ngọt vỏ giòn mang sang.
Được dùng nhiều kiểu cốc khác nhau, Nhị cách cách vô cùng thích thú, vừa gặp a mã đã nóng lòng muốn chia sẻ.
Ở ngoài đồ đạc lộn xộn, ba người dời bước qua chái Tây. Ngọc Bình dẫn người bưng trà sữa, bánh ngọt lên. Tứ a ca cũng cực kỳ hăng hái nhận một vai trong trò chơi gia đình với Nhị cách cách, dùng thử chiếc cốc mới với vẻ rất là nghiêm túc. Lý Vi trố mắt nhìn Nhị cách cách hướng dẫn Tứ a ca cách cầm cốc, chẳng biết trong cái đầu bé xíu ấy của nó lấy đâu ra mà lắm “quy tắc dùng cốc kiểu mới” đến vậy, mà Tứ a ca nghe lời nó thật. Hai cha con chơi đùa tíu ta tíu tít.
Lý Vi thấy như mình bị ngó lơ hẳn. Tới lúc Nhị cách cách dạy chán chê, ngoái đầu bỗng thấy bánh ngọt sắp bị ngạch nương ăn hết ráo, miệng nó dẩu ra, tấm tức nhìn bà mẹ ruột của mình.
Làm Lý Vi không tài nào nuốt trôi được miếng bánh đậu đỏ cuối cùng, ngay Tứ a ca cũng giả cách xụ mặt rầy nàng: “Sao nàng có thể ăn nhiều thế được nhỉ?”
“Đúng thế! Đúng thế!” Nhị cách cách gật đầu luôn.
“Sắp đến giờ cơm rồi.” Tứ a ca nói.
“Chính xác! Chính xác!” Nhị cách cách tí tởn nhìn ngạch nương mình bị khiển trách.
“Cất hết đi.” Tứ a ca nói với Ngọc Bình.
Ngọc Bình bước lại đem hết các đĩa bánh ngọt đi.
“… QAQ.” Nhị cách cách rưng rưng dõi nhìn mấy đĩa bánh bị Ngọc Bình đem đi.
Lúc ăn trưa, Nhị cách cách cứ bí xị hoài, sau cùng Lý Vi đành an ủi nó, bảo ngủ trưa dậy sẽ có bánh ngọt ăn, mới dỗ nó vui lên được.
Tứ a ca vốn còn đang phân vân giữa việc nên chiều theo ý Nhị cách cách hay là nhân cơ hội này dạy nàng cách kiềm chế bản thân, mà chưa gì Lý Vi đã dỗ dành con gái đâu vào đấy. Nhìn hai mẹ con nhoáng cái đã vui vẻ ăn cơm, chàng vẫn thấy hơi khó lòng tiếp thu.
Hai con người vô tâm này!
Lại nhìn Nhị cách cách, bụng bảo: “Ngạch nương con còn chẳng buồn lấy bánh ngọt ra cho con xem, cũng không hề hứa hẹn rằng ngủ trưa dậy sẽ được ăn mấy miếng, được ăn bao nhiêu, có phải là món hồi sáng không, mà con cứ đồng ý khơi khơi thế thôi đấy hả?”. Năm xưa lúc bị mấy bà ma ma dạy mình dụ khị, chàng còn biết nói thầm trong đầu: “Đừng có khinh gia, biết thừa là các bà lừa gia đấy”, song Nhị cách cách giờ phút này thì đã tin sái cổ luôn rồi.
Tứ a ca tự nhủ: Tố Tố không phải chàng sinh, tính nết kiểu ấy còn dễ hiểu, nhưng Nhị cách cách lại mang trong mình dòng máu của chàng, có ra sao chăng nữa cũng không thể để nó giống y như ngạch nương nó được.
Vừa dịp, chàng vốn thấy chỗ cho a ca ở bên tiền viện hãy trống quá, nhân lúc Đại cách cách và Nhị cách cách còn bé, không phải kiêng dè nam nữ khác biệt, nên sẽ cho chuyển qua một thể luôn, làm thế cũng dễ bề mở lời với phúc tấn.
Chàng hạ quyết tâm, ăn xong bữa trưa không đi luôn mà ở lại nghỉ. Hai người nằm trên sạp ở chái Tây, lúc nằm cạnh nhau trò chuyện, Tứ a ca thử nói với Lý Vi: “Về sau, buổi sáng sẽ cho Nhị cách cách theo ta đi học.”
Lý Vi chỉ nghĩ đến một vấn đề, bèn cất giọng dè chừng: “Thế là từ nay Nhị cách cách phải dậy lúc ba giờ ư?”
“Đương nhiên không phải. Ăn sáng xong cho nó qua là được, bữa trưa sẽ về chỗ nàng. Chiều thì không cần đi.” Tứ a ca tự thấy như vậy khá tốt, bèn nằm chờ Lý Vi phản bác, hai người sẽ bàn bạc điều kiện.
“Được ạ.” Thế chẳng ra là đi mẫu giáo sớm à? Tứ a ca cũng được tính vào cấp bậc tiến sĩ quốc học chứ nhỉ? Từ văn đến võ chàng đều dạy được, lại còn không phải lo chàng ngược đãi con trẻ.
“…” Gật đầu nhanh quá, làm Tứ a ca không kịp phản ứng. Với cả, sao chẳng lo lắng một tí gì thế nhỉ? Thế nào cũng phải bày tỏ chút chút nỗi lòng mẹ hiền chứ?
“Thiếp phải làm cho nó một cái cặp nhỏ mới được.” Sau khi xuyên không về đây, thành tựu lớn nhất mà Lý Vi gặt hái được đó chính là kỹ thuật may vá đã đạt max điểm, mỗi khi ngứa tay lại muốn làm chút gì đấy. Nàng dự định sẽ làm cho Nhị cách cách chiếc ba lô nhỏ kẻ ca rô, một hộp bút, một túi nhỏ, thật là dễ thương.
Vốn đã sẵn tâm lý sẽ phải làm một bài thuyết phục mỏi mồm tốn nước miếng, song thấy nàng đã nghĩ đến tận chuyện này, Tứ a ca thực sự dở khóc dở cười. Bụng nghĩ: Có lẽ chàng lầm rồi, với chị em phụ nữ mà nói, tương lai của con cái luôn luôn là điều được các chị đặt lên hàng đầu. Nhìn Tố Tố như thế, chắc bên phúc tấn cũng sẽ không gặp trắc trở gì đâu.
(còn tiếp)