Một thời gian sau, khoảng chừng một tuần, tối nọ Herbert bị làm phiền khi đương dang dở ván cờ với Alfred – bạn đời của cậu ta. Alfred từng là thợ săn ma cà rồng, hay đúng hơn là một người học việc ở tuổi mười chín, lần đầu đến lâu đài nơi gia đình Herbert sinh sống cách đây vài năm để “bắt quỷ’ – theo như lời của vị giáo sư hướng dẫn cậu ngày xưa. Nhưng hiển nhiên, rõ ràng công việc của một thợ săn ma cà rồng chẳng hề phù hợp với một người hiền lành và nhút nhát như Alfred, mà bằng chứng là việc cậu ấy cuối cùng cũng bị biến đổi, kế hoạch ban đầu thất bại, giáo sư bị mất dấu, và bây giờ Alfred cũng đang dần chấp nhận cuộc đời bất tử của mình.
Nhưng thôi, đấy đã là chuyện quá khứ.
Lúc này, ba giờ vừa điểm trên chiếc đồng hồ quả lắc bên tường. Tiếng người nói chuyện ở cổng chính cho thấy gia đình họ có khách, nhưng chỉ trong ít giây nó đã biến thành tiếng cãi nhau khó chịu quá sức, rõ mồn một những âm thanh làu bàu không ra chữ của bác quản gia già Koukol và một người đàn ông, tất cả khiến Herbert phải bận tâm và bỏ ngang bàn cờ để ra ngoài, trong khi Ludwig vừa nghiến răng vừa kêu ư ử trong cổ họng khi gã đứng nhìn ra cửa sổ.
“Là gã đàn ông anh thấy ở buổi tiệc.” Ludwig vừa đứng tỳ tay vào mặt kính vừa nói, khuôn mặt gã chun lại và hàng mày rậm cũng nhíu theo. Alfred đứng song song với gã, cậu nheo mắt lại để nhìn rõ hơn, thầm thán phục thị lực của Ludwig vì sao lại quá tốt – kể cả khi đem so sánh với một ma cà rồng khỏe mạnh; và cậu cắn cắn môi – một tật xấu khó bỏ mỗi khi lo lắng – khi trông thấy bóng dáng Herbert đã xuất hiện ở sân trước và nghe thấy tiếng Ludwig lại gầm gừ, “Herbert nên đuổi cổ ông ta sớm đi thì hơn.”
“Anh có vẻ căm ghét ông ta quá.” Alfred bình phẩm, ngước nhìn lên Ludwig. Gã vẫn không rời mắt khỏi vị khách ngoài kia. “Đã có chuyện gì sao?” Alfred hỏi.
“Không biết.” Ludwig chép miệng. “Chỉ là cảm thấy không an toàn thôi.”
“Lý do kỳ lạ vậy?”
“Ông ta liên tục tiếp cận cha ở mấy buổi họp mặt, nhưng cha thì quá hiền lành và lịch sự để làm gì khác ngoài tiếp chuyện.” Ludwig kể. “Việc đó khiến anh không an tâm. Chúng ta còn chưa biết ông ta là ai, còn ông ta thì cứ cười một cách giả lả. Anh không thích.”
“Vậy à…” là tất cả những gì Alfred thốt ra. Cậu ấy chưa bao giờ là kẻ nói nhiều, và Ludwig thầm cảm ơn vì việc ấy, bởi nếu nói với Herbert, có lẽ gã đã bị trêu đến đỏ mặt tía tai. Cả hai cùng đứng bên cửa sổ quan sát Herbert đứng tiếp chuyện vị khách nọ, ở khoảng cách này không thể nghe được gì từ cuộc đối thoại giữa họ ngoài những tiếng rì rầm rất nhỏ, nhưng Ludwig chắc mẩm người đàn ông kia đến chỉ để tìm cha gã mà thôi. Đồng tử gã giãn to khi gã bỗng nghe được thêm âm thanh của vó ngựa, và tai gã lập tức vểnh lên.
“Cha về rồi.” Ludwig nói, hướng mắt ra nhìn bóng người cưỡi ngựa ô đang tiến vào cổng. “Cha đang nói chuyện với ông ta. Herbert vẫn đứng đấy… Anh ta làm cái quái gì từ nãy đến giờ ấy nhỉ?” Gã thuật lại – dù cho Alfred chẳng hề cần đến; tự mình lèm bèm, rồi nói tiếp với một thái độ mong chờ háo hức như thể Johannes sẽ nghe được tiếng gã, “Đuổi ông ta đi đi! Con không muốn mời ông ta vào nhà đâu!”
Nhưng trái với mong đợi của Ludwig, gã lại trông thấy Koukol được lệnh lo cho lũ ngựa, trong khi cả ba người kia cùng bước vào trong lâu đài. Áp mặt vào cửa sổ, gã vừa đập tay lên mặt kính vừa kêu, “Này! Mời vào thật đấy à? Nào nào, đừng như thế chứ! Đừng có mời ông ta vào! Đừng đừng đừng đừng đừng!”
Đoạn, Ludwig đập đầu vào mặt cửa sổ kính, và Alfred không khỏi giật mình khi gã bật ra tiếng chửi thề đầu tiên trong ngày.
Herbert cầm đèn rảo bước ra sân trước, lịch sự cúi đầu chào vị khách của mình khi cậu nhận ra đó là ai. Là Anze, hầu tước nhà Afanas. Ánh mắt ông ta sáng lên khi ông ta đáp lại lời chào của cậu, và ông ta nói, giọng điệu tỏ vẻ mừng rỡ vô cùng mà tất nhiên cũng chỉ là hành động của thói quen thích cường điệu hóa:
“Thật may khi cuối cùng cũng có thể nói chuyện thoải mái.” Ông ta nở một nụ cười xuề xòa. “Bởi vì quản gia nhà cậu, thú nhận, ta không hiểu bác ta nói gì cả.”
Lời bình phẩm của Anze lập tức khiến cho Koukol phật ý và bác ta khịt mũi làu bàu, nhưng rồi sớm nguôi ngoai khi Herbert suỵt một tiếng và gãi đầu an ủi. Nhìn thì có vẻ kỳ cục, nhưng được vuốt tóc luôn khiến tâm trạng của Koukol khá lên, và gia chủ của bác ta đủ rộng lượng để đáp ứng nhu cầu đó mỗi khi có thể. Herbert chậc lưỡi, nở một nụ cười cảm thông khi cậu ta nhìn Koukol một cái trước khi lại đối mặt Anze:
“Tôi rất tiếc, thưa Đức Ngài, và cũng xin lỗi vì sự bất tiện của chúng tôi. Ngài thấy đấy, Koukol sinh ra đã không may mắn không có một cơ thể bình thường, vì vậy bác ta luôn gặp bất lợi trong việc giao tiếp. Tội nghiệp. Nhưng không thể phủ nhận rằng bác ta là một quản gia tốt.”
“Phải, ta có thể đồng ý với điều đó.” Anze gật đầu. “Bác ta đã làm rất tốt công việc của mình khi không cho người lạ vào lâu đài, nhưng ta phải xin lỗi rất nhiều vì không thể nghe được một lý do nào từ bác ta cả, và cũng bởi chuyện ấy mà chúng ta đã chẳng may cãi nhau. Chẳng lẽ địa vị của ta không đủ đáng tin hay sao?”
“Đức Ngài thứ lỗi, chúng tôi nào dám nói rằng ngài không đáng tin bao giờ.” Herbert thành khẩn cúi đầu, nhưng Anze vội vàng can ngăn. Cậu ta tiếp, “Nhưng mong ngài thông cảm, Koukol là một quản gia trung thành hết mực, nên bác ta sẽ không để ai vào trong tư gia khi chưa được lệnh cho phép.”
“Ta hiểu rồi. Vậy thì ta xin nhắc lại, ta muốn được vào gặp cha cậu, tử tước von Krolock thân mến, bởi chúng ta có việc quan trọng cần bàn.”
“Tôi rất tiếc rằng bá tước cha tôi đã ra ngoài từ sớm và đến giờ vẫn chưa trở về. Tuy nhiên, tôi mời ngài vào nhà chờ, ấy là nếu như ngài không phiền với việc chờ đợi.”
“Không thành vấn đề.” Anze phủi tay, gật đầu đồng ý. “Làm phiền tử tước rồi.”
Dứt lời, ông ta vỗ nhẹ vào má con ngựa của mình thay cho lời chào, nhưng Koukol chưa kịp dắt nó đi, thì từ đằng xa đã âm vang lên tiếng vó ngựa mỗi lúc một lớn dần. Johannes trở về vừa đúng lúc, nét mặt lấy làm ngạc nhiên sửng sốt bởi ông không ngờ Anze lại đến tìm mình ở đây. Xuống ngựa, ông ấy đưa cho Herbert một cái nhìn hiểu ý, trước khi quay qua chào hỏi Anze một cách đường hoàng:
“Anze.” Ông ấy nói, lấy lại được sự bình thản trên gương mặt trong khi người kia híp mắt lại mỉm cười như một bản năng. “Được ngài ghé thăm hôm nay quả là một vinh dự. Ta có thể giúp gì được cho ngài?”
Ngay lập tức, Anze thôi không cười nữa và ông ta rút từ túi áo khoác ngoài một bức thư. Johannes cầm lấy bức thư và nheo mắt lại nhìn, dưới ánh đèn mà ông nhờ Herbert soi giúp liền nhận ra con dấu niêm phong màu đỏ máu. “Thư của Hội đồng Đen à?” Ông ấy hỏi, ngoái nhìn lại Anze. Anze nghiêm mặt đáp:
“Phải. Chúng ta cần nói chuyện. Ta vào nhà được chứ?”
“Vâng.” Johannes gật đầu, cẩn thận cất bức thư vào túi áo. “Mời ngài.”
Herbert đã dẫn họ vào thư phòng nơi Johannes vẫn thường dùng để tiếp khách, rồi sau đó cậu lui ra, dặn dò Koukol chuẩn bị một ít thức uống rồi cứ thế ngồi đợi trên chiếc ghế dài bên ngoài, phòng khi cha có việc gì cần nhờ đến cậu. Dù muốn hay không, cuộc hội thoại giữa hai người đàn ông ít nhiều lọt vào tai Herbert.
“Vết bỏng của em sao rồi?” là câu hỏi đầu tiên Anze thốt ra ngay khi không gian chỉ còn hai người. Johannes đang bước đi liền khựng lại, ông ấy đáp:
“Ổn rồi. Cảm ơn ngài rất nhiều.” Đoạn, ông ấy ngoái nhìn Anze một cái, cho thấy rằng ông ấy thật sự thật lòng và toàn bộ gương mặt đã hoàn toàn lành lặn. “Và cũng xin lỗi ngài…” Một tiếng thở dài rất khẽ. “Vì đã từ chối lời mời ngày hôm đó. Do lúc ấy ta cảm thấy không khỏe, và ta muốn ở một mình.”
“Ta không để bụng đâu.” Anze trả lời, ngồi xuống đối diện Johannes bên bàn tiếp khách. Ánh mắt Anze đảo quanh khắp phòng để quan sát, rồi cuối cùng dừng lại ở Johannes trong khi ông ấy mở bức thư ra. Ánh nhìn mà Anze dành cho Johannes chưa bao giờ thôi chăm chú, dù vậy, ông ta vẫn cất tiếng để người kia không phải cảm thấy khó xử – ấy là nếu như Johannes nhận ra bản thân đang bị nhìn chằm chằm, “Có chuyện xảy ra. Hội đồng cần gặp chúng ta trong ít ngày nữa.”
“Phải.” Johannes ngâm dài, mắt vẫn đang nheo lại để đọc kỹ những dòng chữ trong bức thư. “Nhưng thư của ta không khác một văn bản triệu tập ngắn gọn là mấy. Rốt cuộc đã có chuyện gì?”
“Người chủ trì buổi họp mặt lần trước vừa bị ám sát.” Anze đáp gọn, lúc này mới lấy ra một tập hồ sơ rất mỏng đặt lên bàn. Ông ta đẩy nó về phía Johannes. “Không rõ nguyên do, không rõ thời điểm, với một lưỡi dao bạc ghim vào tim.”
“Bi kịch.” Johannes vừa đọc giấy tờ vừa lắc đầu, và bằng một giọng đủ lạnh lùng, ông ấy nói, “Ông ta đã là một đối tác làm ăn quá tốt.”
“Có quá ít manh mối về vụ này, theo như ta được biết.” Anze đáp. “Họ không loại trừ khả năng đây là một vụ tự sát, nhưng đến giờ vẫn không thể chắc chắn được gì.” Ông ta nở một nụ cười gượng gạo. “Đằng nào ông ta cũng là người có đóng góp trong Hội đồng. Cá là đám con cháu của ông ta đang xâu xé gia tài như lũ linh cẩu đói.”
“Vậy ta đoán họ phát lệnh triệu tập này chứng tỏ chúng ta đều đã bị xếp vào diện tình nghi nhỉ?”
“Hẳn là vậy.” Anze thở dài. “Dù trên giấy tờ họ viết rằng đây là một chuyến công du, nhưng cá là trong mắt họ chúng ta chẳng khác gì tội phạm. Ít ra họ đủ rộng lượng để cho chúng ta một tuần chuẩn bị trước phiên họp ở Cluj – nơi xảy ra vụ án.”
“Ta hiểu rồi.” Johannes gật đầu, cẩn thận sắp xếp lại mớ tài liệu. Bất chợt ông ấy hỏi, “Nhưng tại sao họ không gửi thư trực tiếp cho ta mà phải thông qua ngài?”
“À…” Anze gãi cằm rồi ê a. “Chuyện là ta đã bị gọi đến Hội đồng vào hôm trước, bởi đằng nào ta cũng là người trò chuyện cuối cùng với ông bạn xấu số kia. Tất nhiên là chẳng tra khảo được gì. Sau đó họ ra lệnh truyền lại lời cho các quý tộc dưới quyền trong vùng, nhưng địa hạt lân cận với ta chỉ có nơi này thôi.”
“Ra thế.” Johannes trả lời, quyết định không chất vấn gì thêm. Nhấp thêm một ngụm nước, ông ấy nheo mắt nhìn đồng hồ bấy giờ đã điểm hơn hai giờ sáng mà tiếp lời, “Thật vất vả cho ngài rồi, hẳn ngài cũng đã mệt vì lặn lội đến đây. Trời cũng đã muộn. Vì vậy, hãy tá túc lại đây đến hết ngày hôm sau, được chứ?”
Anze lập tức giật mình trước lời mời và ông ta gãi tai, ấp úng, “Như thế thì có phiền em quá không?”
“Ngài nghi ngờ lòng hiếu khách của ta à?” Lần đầu tiên, Johannes cười mỉm, khiến cho Anze lại càng lúng túng hơn. Vội vàng xua tay, ông ta đáp:
“Không, không có! Ta có nghi ngờ em bao giờ!” Rồi ông ta nở một nụ cười rộng để chữa thẹn. “Chỉ là do ta hay lo lắng, còn lời đề nghị của em lại quá tốt đối với ta – em biết đấy, cũng bởi chính ta mới là người khiến em mệt mỏi đến tận giờ này. Nhưng được rồi, nếu em đã có lòng như thế, ta cũng không dám từ chối thêm, cảm ơn em rất nhiều vì có thành ý muốn ta nán lại nơi này.”
Giữa hành lang được bao phủ bởi bóng tối êm dịu, Herbert cúi đầu chào Anze một lần cuối, trước khi ông ta rảo bước theo Koukol – và theo những gì cậu nghe lỏm được – để đến khu buồng ngủ dành cho khách. Chỉ còn một mình, Herbert nhẹ nhàng mở cửa thư phòng rồi bước vào, chẳng nói chẳng rằng bước đến trước bàn làm việc của cha cậu. Johannes đương cất giấy tờ vào ngăn kéo sau bàn liền ngước lên, hỏi:
“Có chuyện gì vậy, Herbert?”
“Cha không đi cùng ngài ấy sao?”
“Chúng ta không đói, nên ngài ấy được đưa về phòng nghỉ ngơi rồi.” Johannes vẫn bình thản như thường lệ, đôi mắt tập trung vào những sổ sách ông ấy đang sắp xếp thay vì con trai mình. Herbert vờ như phụng phịu, và cậu ta bĩu môi, lè nhè nghịch ngợm mà nói:
“Tiếc nhỉ.”
“Tiếc gì?”
“Không có gì ạ.”
Johannes lập tức khựng lại và liếc nhìn lên. “Con đang suy tính cái gì nữa đấy?”
“Có suy tính gì đâu ạ?” Herbert chối, phồng má như thể cậu ta oan ức vô cùng. Nhưng Johannes chỉ chậc lưỡi:
“Ta biết vẻ mặt đó của con, Herbert. Ông già này đã sống đủ lâu để nhận ra thói giả đò dở tệ của con rồi.”
“Dạ vâng…” Chịu thua, Herbert ê a, rồi cậu ta nhoẻn miệng cười rộng. Việc đó khiến Johannes chau mày, và cậu ta lại được thể càng thích chí hơn. “Cha biết con nghĩ gì mà.” Cậu ta nháy mắt.
“Ta rất tiếc, Herbert, vì ta thật sự không hiểu ý con là gì cả.” Johannes xong việc liền ngồi dựa vào lưng ghế, nghiêng đầu thật sự thắc mắc với cậu con trai. “Ta không muốn đọc suy nghĩ của con một chút nào đâu, nên có chuyện gì cần nói thì hãy vào thẳng vấn đề đi. Hay là con lại bày ra trò gì rồi?”
“Nào cha, cha cứ làm như con thích phá phách lắm!” Herbert vung tay tỏ vẻ phật ý. Johannes bật cười:
“Thì đúng là như vậy mà.”
“Cha xấu tính thật đấy. Chẳng trách Ludwig nó cũng y hệt.” Herbert trề môi. Johannes nhắc:
“Con lại lạc đề nữa rồi kìa.”
“Được rồi, để con nói.” Herbert duỗi hai vai bất lực rồi thốt lên. “Con thấy hai người đẹp đôi lắm.”
“Ai cơ?”
“Ngài ấy và cha, tất nhiên rồi!”
Johannes sa sầm mặt lại. “Đùa như thế không hay đâu, Herbert.”
“Nào cha, trông con có giống như đang đùa đâu chứ!” Vừa nói, Herbert vừa tự cho phép mình chống tay lên mặt bàn, tay còn lại cứ vung lên phụ họa. “Ánh mắt ngài ấy mỗi lần nhìn cha cho thấy tất cả rồi, rõ ràng là ngài ấy thích cha. Vả lại, không phải là con không nghe được ban nãy ngài ấy quan tâm cha như thế nào.”
“Con theo dõi chúng ta đấy à?”
“Cửa đâu có cách âm.”
“Đừng có trả treo với ta, Herbert.” Johannes nghiêm giọng. “Và cẩn thận lời nói của mình, con cũng biết thừa địa vị của ngài ấy, để ngài ấy nghe được thì không hay đâu, ta nhắc lại.”
“Cha cũng thích ngài ấy mà, phải không?” Herbert ngoan cố. Johannes lạnh lùng trả lời:
“Không phải việc của con.”. Ngôn Tình Hay
“Vậy là có rồi.”
“Đừng có nhét chữ vào miệng ta.”
“Nhưng mà suy luận một chút là thấy ngay mà! Cha đừng cứ cố chấp như thế chứ!”
“Còn con sao lại nhiệt tình với mối quan hệ không có thật này vậy?” Johannes lên giọng. Việc này khiến Herbert giật mình trong ít giây, nhưng cậu ta vẫn tiếp tục nói, cũng cất giọng cao hơn cho thấy rằng cậu ta không hề chịu thua:
“Vì nó rõ ràng là có căn cứ và con muốn cha có ai đó ở bên cạnh!” Lần này Johannes là người không đáp trả được. “Lần cuối cùng cha yêu ai đó là khi nào? Năm 1830? Cách đây hơn nửa thế kỷ rồi! Trước đó nữa thì sao? 1732? Quá lâu, mà cũng chẳng thành! Con cũng đâu muốn cha suốt ngày cứ lủi thủi một mình như thế chứ!”
“Việc ta quen ai không cần con phải bận tâm.”
“Nhưng con là con cha, tất nhiên con có quyền được phép…”
“Đủ rồi.” Johannes cắt ngang bằng một tiếng thở dài và nặng nề. “Để khi khác đi, Herbert.”
“Dạ…?” Herbert bất chợt lí nhí, và cậu ta nhận ra mình vừa có hơi vô lễ khi lên giọng. Nhưng Johannes chỉ tiếp tục thở dài, chống tay lên mặt bàn và ôm lấy đầu mình, giọng trầm khàn một cách khổ sở:
“Ta hiểu ý tốt của con, nhưng bây giờ đã muộn lắm và ta đang rất mệt. Nếu con một mực đòi nói về chuyện này, ta và con sẽ bàn luận vào lúc khác. Còn bây giờ thì lui ra đi.”