Ngôn Băng Vân điểm số đội ngũ xong xuôi, lập tức sắp xếp sáu trăm binh lính đến các điểm tuần phòng ở bốn hướng đông tây nam bắc cùng trong doanh. Y và Thời Cảnh bị Uất Trì Dụng phái đến Lộc Huyền cách đại doanh của quân Ninh Viễn hai mươi dặm, đến quản lý lương thảo quân nhu. Lộc Huyền là một thành nhỏ không đủ ba nghìn nhân khẩu, bởi vì địa hình mà diện tích có thể canh tác ở đây cực nhỏ, cho nên phần lớn thanh niên trai tráng trong thành đều ra ngoài kiếm sống, chỉ còn lại một ít người già, phụ nữ, và trẻ em ở lại. Cũng vì dân chúng trong thành nghèo khổ, nên sau khi Ninh Viễn bại trận mới may mắn tránh thoát một kiếp, không bị quân Khương Di cướp giết. Uất Trì Dụng bố trí doanh trại tập trung quân nhu lương thảo mới ở dưới đỉnh Lộc Giác nằm phía tây Lộc Huyền, vốn dĩ đã phái hai Thủ bị, dẫn theo sáu trăm binh lính trông coi. Ngôn Băng Vân và Thời Cảnh vừa đến, đã lập tức bị gã nhét vào đây, nói nghe cho hay thì là:
“Lương thảo quân nhu chính là mạch máu nuôi sống đại quân, nếu không phải là bậc trung quân lương tướng thì không thể trông coi.”
Thời Cảnh tâm cao khí ngạo, không hề cho tên Uất Trì Dụng này chút sắc mặt hòa nhã nào:
“Trung quân lương tướng? Thế tự gã đến đây mà trấn thủ không phải là tốt hơn sao? Chưa từng nghe qua đạo lý phó tướng trông coi lương thảo còn Thủ bị lên làm Tiên phong bao giờ! Nói đi nói lại chẳng phải cũng chỉ vì sợ chúng ta xông pha tiền tuyến lập công cướp mất danh tiếng của Đại tướng quân gã hay sao!”
Ngôn Băng Vân khuyên Thời Cảnh nhường đi cho khỏi phiền, không cần thiết phải gây thêm chuyện làm gì.
“Hiện giờ quân Ninh Viễn đã là một đội ngũ hoàn toàn mới, ta và huynh mới đến, theo lý thì nên phục tùng quân lệnh vô điều kiện.”
Ngôn Băng Vân ngẩng đầu nhìn cờ hiệu của quân Ninh Viễn đang đón no gió căng phồng phấp phới trên cao, nhíu mày thật chặt, lẩm bẩm:
“Nhưng mà tích trữ lương thảo ở đây cũng không được phù hợp cho lắm…”
Thời Cảnh nhìn về nơi mà y đang hướng mắt nhìn tới, lập tức biết ngay là y đang quan sát hướng gió, nói tiếp lời:
“Mùa hạ ở đây có gió Tây Nam rất lớn, ngươi sợ quân địch dùng lửa?”
Ngôn Băng Vân gật đầu, nói:
“Lộc Huyền địa hình thấp trũng, nằm ở bên trong thung lũng, ba mặt có núi vây quanh, chỉ có một lối ra ở phía đông. Nếu như bị quân địch chặn kín, sau đó phóng lửa đốt thành, đến lúc đó lửa mượn sức gió, không chỉ không giữ được kho lương, mà dân chúng trong thành cũng rất khó chạy thoát.”
Thời Cảnh lạnh giọng nói:
“Nhưng còn cách nào được chứ? Ngay từ ngày đầu tiên đệ đã nhắc nhở Uất Trì Dụng rồi, chẳng phải gã cũng chỉ xem như gió thoảng bên tai thôi sao?”
Hắn ta căm tức mà hừ lạnh một tiếng, sau đó an ủi y:
“Chẳng qua đã nhiều năm nay, Khương Di chưa bao giờ xâm lược vào tầm tháng bảy tháng tám. Mùa hè là thời điểm tốt nhất để bọn chúng chăn thả, phần lớn binh sĩ cũng không ở lại trong quân.”
Ngôn Băng Vân vốn muốn nói đó là bởi vì quân Ninh Viễn cũng chưa bao giờ tích trữ lương thảo quân nhu ở chỗ có hoàn cảnh địa lý như thế này, nhưng y lại sợ một câu thành sấm, cho nên sửa miệng nói:
“Hi vọng năm nay bọn chúng cũng yên phận mà chăn thả đi…”
Thời Cảnh đứng lên, nói:
“Ta đi ra ngoài một chuyến.”
Ngôn Băng Vân hiếu kỳ nhìn nhìn hắn ta.
Thời Cảnh giải thích qua loa:
“Lúc trước ta được người khác cứu mạng ở gần chỗ này, nhà họ cũng ở ngay trên trấn thôi. Ta cũng đã quay về rồi, tóm lại vẫn nên đi bái tạ ân nhân một chút.”
Ngôn Băng Vân đã hiểu, bèn cùng hắn ta bước ra khỏi trướng lớn, có mấy binh lính đang quất đánh một tên nô lệ quần áo rách tả tơi cách đó không xa, nghe qua thì hình như là chê bai tên kia động tác chậm chạp. Trong quân thường có một vài kẻ phạm tội bị biếm làm nô lệ từ Trung nguyên sung quân đến làm lao dịch, giúp binh lính giặt quần áo nấu cơm đã xem như là được đối xử tốt rồi, phần lớn những kẻ này phải chịu trách nhiệm xây dựng công sự hoặc đào móc chiến hào, thậm chí còn có kẻ sẽ bị các tướng lĩnh xem như mồi nhử mà mang lên chiến trường, dùng để thu hút lôi kéo quân địch tiến vào sâu hơn. Thời Cảnh đối với việc này dù thấy cũng không thể trách, không thèm liếc lấy một cái mà bước ra khỏi cổng lớn của doanh địa. Ngôn Băng Vân nghe được tên nô lệ kia dù đã kìm nén lắm rồi nhưng vẫn phát ra những tiếng kêu thảm thiết, cảm thấy không đành lòng, đi qua ngăn đám binh lính kia lại.
“Ngừng đánh trước đã.”
Sau đó mới hỏi tiếp:
“Có chuyện gì vậy?”
Nhìn cách ăn mặc của tên cầm đầu có vẻ giống một tiểu đội trưởng, hành lễ với y đâu vào đó rồi mới đáp:
“Ngôn tướng quân, tên này lười biếng quen thói, hôm qua sai gã đi cho ngựa ăn, thế mà gã lại dùng cỏ đã bị mưa xối ướt, làm hại tất cả ngựa trong chuồng đều bị tiêu chảy. Hôm nay bảo gã giặt quần áo đánh giày, lăn lộn nửa ngày mới giặt xong một nửa, nhưng vừa rồi tiểu nhân đến kiểm tra, quần áo giặt xong rồi mà vẫn còn dính bùn. Cũng không biết là đến đây lao động hay đến làm phiền thêm nữa.”
Tên nô lệ kia đầu bù tóc rối, mặt mày lấm lem, trên lưng còn bị roi quất tạo thành hơn mười vết máu, không ngừng dập đầu xuống đất xin tha:
“Tiểu nhân biết sai… Tiểu nhân sẽ giặt lại một lần nữa! Xin tướng quân tha mạng!”
Ngôn Băng Vân cẩn thận nhìn gã, loáng thoáng cảm thấy hình như đã gặp ở đâu rồi, nghe thấy giọng gã còn mang theo khẩu âm của người phương nam, bèn hỏi:
“Ngươi từ đâu đến đây?”
Chẳng biết vì sao giọng nói của tên kia bỗng dưng trở nên nghẹn ngào:
“Tiểu nhân… Đến từ kinh thành…”
Vẻ khinh bỉ lập tức lan rộng trên mặt đám lính:
“Đến từ kinh thành thì có gì giỏi giang hơn người chứ, cho dù ngươi có từ trong cung đến thì cũng chỉ là một tên tội nô!”
Ngôn Băng Vân nhớ đến Từ gia vừa rơi đài cách đây không lâu, tất cả nam đinh đều bị sung quân đến biên giới phía bắc, trong lòng lập tức hiểu rõ, buột miệng nói:
“Ngươi là… Từ Tam công tử?!”
Cả người tên kia run lên, hơi ngẩng đầu lên nhìn thẳng về phía y, bỗng dưng hoảng sợ vừa dập đầu vừa nói:
“Ngôn tướng quân tha mạng! Trước kia tiểu nhân có mắt như mù đắc tội với tướng quân, tướng quân đại nhân đại lượng, tha cho tiểu nhân đi!”
Gã biết Ngôn Băng Vân từng vì có khúc mắc với gã mà bị tiền Thái tử phạt trượng, âm thầm than thở bản thân mạng khổ, vòng đi vòng lại thế mà rơi thẳng xuống tay kẻ thù, không thể không khóc lóc xin tha:
“Tướng quân tha mạng… Cái gì tiểu nhân cũng có thể làm được, cái gì cũng sẵn lòng làm, cầu xin tướng quân tha cho cái mạng hèn này của tiểu nhân…”
Đám lính khinh thường nói:
“Đến giặt quần áo cũng không sạch thì còn có thể làm gì nữa? Nhìn kiểu da mỏng thịt non thế này cũng đủ biết là một kẻ chưa từng đụng tay làm gì cả!”
Ngôn Băng Vân im lặng một lát, thản nhiên nói:
“Cho gã ít thuốc trị thương, lấy thêm một cái áo ngoài sạch sẽ nữa đến.”
Y quay sang phía Từ Tam, nói:
“Sau khi bôi thuốc thay quần áo xong, giặt lại tất cả số quần áo kia một lần nữa, nhớ rõ là phải giặt cho sạch.”
Từ Tam như được đại xá, dập đầu hai cái thật vang, thút tha thút thít mà đáp:
“Tạ ân điển của Tướng quân…”
Chiều muộn sau khi ăn cơm xong, Ngôn Băng Vân bớt lại một cái màn thầu bằng gạo lứt, Thời Cảnh vươn tay muốn lấy luôn:
“Đệ không ăn à? Không ăn thì cho ta.”
Ngôn Băng Vân nhanh chóng cầm cái màn thầu kia đi, cười nói:
“Sư huynh, ta để phần lại lát nữa ăn, có được không?”
Thời Cảnh nửa tin nửa ngờ, Ngôn Băng Vân mượn cớ tuần tra, nhanh chóng đi ra khỏi doanh trướng.
Trời vẫn còn chưa tối hẳn, nhưng trong doanh đã châm lửa trại rồi, tiếng củi cháy tí tách cùng âm thanh khi đám lính nói chuyện phiếm hòa lẫn trong gió đêm, tưởng chừng xa xôi nhưng lại vô cùng rõ ràng. Đây là khung cảnh mà Ngôn Băng Vân quen thuộc, toàn bộ thời niên thiếu của y đều trải qua trong quân doanh, đã sớm xem nơi biên cương phía bắc này là cố hương, hiện giờ quay về, đáng lẽ nên cảm thấy vui vẻ cùng mãn nguyện mới đúng. Nhưng trong lòng y lại khó mà như vậy được, ban đầu là lo lắng thân thể Tạ Doãn có thể thuận lợi khôi phục khỏe mạnh hay không, mấy ngày sau nhận được thư do Mi Nương gửi, biết được Tạ Doãn đã ngừng thuốc, kịch độc trong cơ thể cũng đã được giải, y mới tạm yên lòng. Lo lắng dần dần tan biến, nhớ nhung lại càng nồng đậm, y không có cách nào khống chế bản thân không nghĩ đến không nhớ đến Tạ Doãn, không nhớ lại từng chuyện từng chuyện khi đang còn ở bên Tạ Doãn. Mỗi đêm khi y lẳng lặng ngắm vầng trăng trên cao kia, sẽ nghĩ đến câu thơ của người xưa.
“Thoáng bồi hồi, cùng nhìn nhưng bặt tiếng.
Nguyện theo trăng, soi tỏ quân phương xa.”
Y đang nghĩ, lúc này đây liệu Tạ Doãn có đang ngắm trăng giống mình không. Nhưng nếu là có, vậy thì chẳng biết y có thể gửi sự nhớ nhung này vào vầng trăng sáng kia, nhờ nó mang đến thành Kiến An cách đây mấy ngàn dặm, đưa tới bên cạnh Tạ Doãn được hay không?
***
Từ Tam vẫn còn ngồi ở bãi đất trống ngoài doanh trại gắng sức giặt quần áo, gã cong lưng cúi người, xương sống lồi rõ lên dưới tấm áo mỏng manh. Ngôn Băng Vân nghĩ, thảo nào lần đầu nhìn thấy gã thì y không nhận ra, đúng thật là so với lần đầu gặp mặt, Từ Tam đã gầy đi một vòng lớn.
Từ Tam quay đầu lại nhìn thấy y, vội vàng xoay người lại quỳ xuống:
“Ngôn tướng quân.”
“Đứng lên đi.” Y đi qua, tiện tay nhấc một bộ quân phục đã giặt lên, cẩn thận đánh giá trước sau một phen, tán thưởng:
“Xem ra ngươi cũng biết giặt quần áo đấy chứ.”
Từ Tam túm lấy góc áo, vẻ mặt ngượng ngùng câu nệ:
“Tiểu nhân… đương nhiên là chăm chỉ làm việc…”
Ngôn Băng Vân đưa cái màn thầu trong tay cho gã, nói:
“Ăn xong đi rồi làm tiếp.”
Từ Tam nhìn chằm chằm cái màn thầu kia, nuốt nuốt nước bọt, nhưng cuối cùng vẫn không dám nhận. Ngôn Băng Vân biết quy định trong quân, mỗi ngày nô lệ chỉ được ăn một bữa cơm trưa, chẳng qua cũng chỉ là chút cháo rau gạo nát. Nếu như trong thời chiến, lương thực eo hẹp, thì ngay cả chút ít như vậy cũng không được đảm bảo, rất nhiều nô lệ đang sống sờ sờ sẽ bị đói chết. Y nhét cái màn thầu vào tay Từ Tam, thái độ ôn hòa:
“Ăn đi, ăn nó mới có sức mà làm việc chứ.”
Từ Tam rưng rưng nước mắt tạ ơn y, cũng không dám ăn ngấu ăn nghiến, chỉ kề sát màn thầu bên miệng rồi ăn từng miếng nhỏ. Ngôn Băng Vân tìm một cái đôn gỗ đến rồi ngồi xuống, nói với gã:
“Ngươi cũng ngồi đi.”
Từ Tam nghe theo, ngồi xổm trên mặt đất, Ngôn Băng Vân hỏi:
“Những người khác trong nhà ngươi đâu? Cũng ở trong doanh sao?”
Từ Tam nghe hỏi vậy, nước mắt lập tức lã chã rơi, khàn giọng nói:
“Phụ thân của tiểu nhân trên đường đi không chống đỡ được, đã qua đời rồi. Hai ca ca được phân tới đại doanh của Uất Trì tướng quân. Còn những huynh đệ họ hàng trong nhà thì bị đưa đến những chỗ xa hơn như Liêu Đông, tiểu nhân cũng không rõ lắm…”
Ngôn Băng Vân cũng biết là chẳng có ích lợi gì, nhưng vẫn an ủi khuyên giải:
“Cố gắng mà sống cho tốt, tương lai sẽ có ngày gặp lại.”
Từ Tam cười khổ gật gật đầu, nghẹn ngào đáp”
“Tạ ơn tướng quân an ủi…”
Ngôn Băng Vân im lặng trong chốc lát, cuối cùng mới quyết định mở miệng hỏi:
“Trước đây ngươi… có thân quen với Ngũ điện hạ lắm không?”
Từ Tam ngơ ngác, nhưng vẫn nói thật:
“Tiểu nhân… không dám trèo cao nhận thân quen với Ngũ điện hạ. Chẳng qua là tình cờ gặp ở bên ngoài, nhờ phúc Ngũ điện hạ không ghét bỏ, mới nói chuyện cùng tiểu nhân một hai lần…”
Ngôn Băng Vân dùng giọng điệu khích lệ, tiếp tục hỏi:
“Bình thường hai người hay gặp nhau ở đâu?”
Từ Tam nghẹn đỏ cả mặt, một lúc lâu sau mới nói:
“Tiểu nhân hổ thẹn, ngày trước vẫn luôn trầm mê nữ sắc, chỗ hay đi nhất chính là Di Phương lâu, đương nhiên là cũng gặp Ngũ điện hạ ở chỗ đó…”
Gã bỗng nhiên ý thức được những lời mình nói có thể hiểu nhầm sang nghĩa khác, vội vàng giải thích:
“Nhưng Ngũ điện hạ sao có thể háo sắc giống như tiểu nhân được chứ? Mỗi lần Điện hạ đến đó, chỉ là để nghe một cô nương tên là Nguyệt Hồ gảy đàn tỳ bà. Tiểu nhân còn suy bụng ta ra bụng người, vốn tưởng rằng đó là người Ngũ điện hạ vừa lòng, bèn cố ý đi tìm Nguyệt Hồ chứng thực. Nhưng Nguyệt Hồ nói, Điện hạ chỉ ngồi xa xa nghe nàng gảy đàn, ngay cả tay nàng cũng chưa từng chạm qua.”
Ngôn Băng Vân cười cười:
“Ngoại trừ lần đó ra thì sao? Hai người có tán gẫu đến chuyện gì nữa không? Hoặc là, có từng xảy ra việc gì đó thú vị không?”
Từ Tam xấu hổ nói:
“Tiểu nhân từng thấy Điện hạ làm thơ viết chữ, có rất nhiều câu đọc cũng không hiểu, tiểu nhân không học không nghề, làm sao xứng bắt chuyện với Ngũ điện hạ… Nếu nói chuyện thú vị, thì tính cách Ngũ điện hạ cởi mở, lại không bày ra cái giá Thân vương, đi đến chỗ nào, thì bầu không khí chỗ đó sẽ sôi nổi hẳn lên. Có một vài vị công tử thế gia nào đó không biết thức thời, đến Di Phương lâu cũng muốn làm mưa làm gió, bắt nạt mấy cô nương nhà người ta, bị Điện hạ ra tay dạy dỗ một phen. Cuối cùng Điện hạ một cước giẫm lên mông người nọ, khí định thần nhàn mà hỏi “Ngươi có phục không?”, người nọ vừa khóc vừa kêu “Phục, ta phục.”, từ đó về sau, các vị cô nương ở Di Phương lâu đều thật lòng yêu mến Ngũ điện hạ. Chẳng qua bỗng nhiên Điện hạ lại không tới nữa, Ngân Diêu mụ mụ còn hỏi qua tiểu nhân, tiểu nhân nói Ngũ điện hạ được phong làm Đoan vương, tiếp nhận trách nhiệm, đương nhiên sẽ không đến đây nữa. Nhưng Nguyệt Hồ nói, Điện hạ không đến nữa, là bởi vì trái tim Điện hạ đã hướng về một người rồi.”
Từ Tam miêu tả cực kỳ sinh động, vốn dĩ Ngôn Băng Vân đang hào hứng lắng nghe, nhưng đến khi nghe thấy câu cuối cùng kia, y chợt ngẩn người. Một luồng cảm xúc ấm áp bất chợt lấp đầy trái tim y, nhưng rất nhanh đã bị chua xót khổ sở cùng đau đớn bóp nghẹt thay thế.
Trái tim đã hướng về một người… Người hắn trao trọn trái tim đã từng hứa hẹn, tuyệt đối sẽ không rời bỏ hắn. Nhưng cuối cùng người đó vẫn nuốt lời.
Tạ Doãn đối xử với y chân thành đến nhường nào, nhưng bản thân y ngay cả gặp mặt nói một câu từ biệt cũng không làm được. Sau khi Tạ Doãn tỉnh lại, phát hiện ra y đã rời đi, nhất định sẽ thất vọng cực độ… Cho dù trong thư viết đường đường chính chính như thế nào, hờ hững bình thản ra sao, thì cuối cùng y vẫn phụ lòng Tạ Doãn, xát muối lên tấm chân tình của hắn…
Màn đêm đã hoàn toàn phủ kín thinh không, sao trời lác đác lấp lánh trên đỉnh đầu, so với Kiến An thì sáng hơn nhiều. Ngôn Băng Vân đứng lên, nói với Từ Tam:
“Ngươi cứ ăn từ từ, nếu sau này nhớ được chuyện gì về Điện hạ, thì lại kể cho ta nghe.”
Mặc dù Từ Tam cảm thấy kỳ quái, nhưng vẫn vội vàng cuống quýt mà đáp ứng:
“Tướng quân yên tâm, tiểu nhân nhất định biết gì nói nấy.”
Trong lòng Ngôn Băng Vân vẫn biết rõ đối với Trung nguyên, Khương Di vẫn như hổ rình mồi, bởi vậy không dám quá mức tin tưởng vào thói quen chưa bắt đầu mùa đông thì không xuất binh của bọn chúng. Y không khuyên được Uất Trì Dụng đổi chỗ, chỉ đành tự mình nghĩ cách. Vì đề phòng bị quân địch vây ở trong cốc không có đường rút lui, Ngôn Băng Vân sai người men từ dưới lên trên sườn núi hình thế tương đối bằng phẳng ở mặt phía bắc, mở ra một con đường, dùng để rút lui trong thời điểm nguy cấp, vượt qua đỉnh Lộc Giác thì chính là đại doanh của Tây tuyến trực thuộc quân Ninh Viễn. Mặc dù không cứu được lương thực cùng quân nhu, nhưng ít nhất cũng có thể yểm trợ được dân chúng trong thành chạy thoát.
Sau khi con đường nhỏ bí mật này được khai thông hoàn toàn, thì cũng đã là tháng sáu rồi. Cứ cách mười ngày Ngôn Băng Vân và Thời Cảnh sẽ chiếu theo quân lệnh mà đưa lương thực cùng quân nhu đến các đại doanh, khoảng thời gian còn lại, bọn họ đều ở trong doanh luyện binh. Lính vận chuyển quân lương bình thường chỉ cần đợi lệnh ở phía sau, trừ khi Chủ doanh hi sinh quá mức nặng nề, nếu không thì sẽ không cần tham gia chiến đấu, bởi vậy chủ yếu là người lớn tuổi, phần lớn số người ở đây thậm chí còn chưa từng lên chiến trường. Ngôn Băng Vân và Thời Cảnh xem bọn bọ như lính mới, dạy bọn họ dùng giáo dài, khiên chắn cùng cung tên. Phần đông bọn họ đã mất đi người thân trong trận Ninh Viễn lần trước, cực kỳ thống hận Khương Di, bởi vậy rất có động lực, khí thế huấn luyện sôi sục ngất trời. Tiếp đó, ngay cả Từ Tam cùng mấy chục tên quân nô nữa cũng tham gia đội ngũ huấn luyện, bởi vì Ngôn Băng Vân nói với bọn họ rằng, nếu tương lai không muốn bị Khương Di hành hạ đến chết, thì chỉ có thể tự dựa vào bản thân mình thôi.
Doanh trại trữ lương sẽ không được phân phối riêng một quân y, chỉ có đại phu đi theo quân ở Chủ doanh mỗi tháng đến bắt mạch chẩn bệnh cho quân lính một lần, nhưng luôn luôn không tránh khỏi tình huống cần cấp cứu, Thời Cảnh bèn đi mời con gái của gia đình nông dân đã từng cứu giúp hắn ta đến. Cô nương kia nhìn qua thì cũng chỉ mười tám mười chín tuổi, khuôn mặt thanh tú, không tô son điểm phấn, ăn mặc cũng cực kỳ trang nhã giản dị. Ngôn Băng Vân cảm thấy y thuật của nàng không hề thua kém với đại phu mà Thái y viện phái tới trong quân, chẳng qua là nàng có chút e thẹn, gần như không thích nói chuyện. Ngôn Băng Vân nghe Thời Cảnh gọi nàng là “Lục cô nương”, mãi đến khi nàng đến đây lần thứ tư hay lần thứ năm, Ngôn Băng Vân mới biết tên đầy đủ của nàng là “Lục Song”.
“Kỳ nhân như ngọc, thành song thành đối*. Tên cũng hay quá nhỉ.”
Y nhìn nhìn Thời Cảnh rồi nói. Chữ “Cảnh” có ý là “Ánh ngọc sáng rọi”, Thời Cảnh nghe y trêu chọc như vậy thì bèn cười mắng y một câu “Rắm chó không kêu”.
(*Giải nghĩa: “Người cũng như ngọc, thành cặp thành đôi”, chữ Cảnh 璟 trong tên Thời Cảnh thuộc bộ Ngọc, tức 玉的光彩 Ngọc đích quang thải, còn chữ Song có trong tên của Lục Song.)
Y vẫn đều đặn nhận được thư mà Mi Nương gửi như trước, đây là chuyện mà Mi Nương đã đồng ý với y trước khi y rời kinh. Trong thư nhắc đến thân thể của Tạ Doãn đã hoàn toàn khôi phục, mỗi ngày đều chăm chỉ thao luyện ở giáo trường, chỉ mong Hoàng thượng nhanh chóng phái hắn vào trong quân. Nhưng Mi Nương cũng nói, nghe giọng điệu của Hoàng thượng, thì có lẽ sẽ đưa Tạ Doãn đến vùng Tây Nam tương đối an ổn.
Ngôn Băng Vân đọc xong thư thì ngược lại yên tâm không ít. Trước đây khi còn ở trong cung thì Định Nam vương là thư đồng của Hoàng thượng, là thuộc hạ mà Hoàng thượng tin tưởng nhất, nếu Tạ Doãn đi đến chỗ ông, ít nhất là có thể đảm bảo được an toàn. Hơn nữa từ mười năm trước Định Nam vương đã nắm được các bộ lạc dị tộc quanh vùng trong tay, tình hình phía nam tương đối ổn định, không quá có khả năng bùng nổ xung đột với quy mô lớn. Vốn dĩ y cũng định viết thư miêu tả tình hình của bản thân gần đây, để Tạ Doãn có thể yên tâm, nhưng lại sợ mang đến hậu quả hoàn toàn trái ngược, bỗng dưng vô duyên vô cớ gợi lên kỷ niệm đau lòng của Tạ Doãn, nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng vẫn không thể viết ra.
Cuộc sống yên ổn bình thản cứ như vậy trôi qua, đến tận một buổi tối nóng như thiêu như đốt giữa tháng tám mới bị phá vỡ. Ngôn Băng Vân ướt đẫm mồ hôi đang ngủ mê mệt thì bị binh sĩ trong phiên trực đánh thức. Khi y ngủ ở trong quân, cho dù là nóng cỡ nào thì cũng sẽ mặc áo ngoài, giờ phút này nhanh chóng xoay người ngồi dậy, hỏi:
“Ngoài trướng ồn ào chuyện gì?”
“Tướng quân, có năm đài Phong hỏa* ở phía đông bắc đã đốt lửa rồi!”
Ngôn Băng Vân thoáng cái đã nhảy xuống khỏi giường, nhanh chóng bước ra khỏi trướng lớn. Thời Cảnh đã đứng sẵn ở đó, nâng tay lên chỉ về hướng bầu trời đằng sau lưng y. Ngôn Băng Vân xoay người, chỉ thấy có năm ngọn lửa xếp hàng chỉnh tề ở phía chân trời, đang hừng hực thiêu đốt màn đêm đen kịt.
(*Đài Phong hỏa: là một công trình quan trọng trong hệ thống phòng thủ, dùng lửa để truyền báo thông tin quân địch, được dùng để đề phòng sự xâm lược của kẻ thù. Đài thường được xây dựng ở những nơi như biên giới hoặc xung quanh Hoàng thành. Đài Phong hỏa chứa đầy củi, cỏ hoặc các loại phân động vật dễ cháy bốc khói, có binh sĩ đóng ở đó suốt ngày, nếu có địch xâm phạm thì binh sĩ sẽ đốt lửa ngay để cảnh báo, tin báo chiến sự được nhanh chóng truyền đi hàng trăm dặm, để các nơi khác gấp rút đưa quân đến tiếp viện hoặc chuẩn bị phòng ngự. Ban đêm đốt lửa gọi là phong, ban ngày đốt khói gọi là toại. Việc đốt khói lửa cũng có quy định nghiêm khắc. Nếu quân địch chưa đến 1000 quân thì đốt một ngọn, mỗi lần địch quân tăng lên 1000 thì sẽ đốt thêm một ngọn nữa. Có một điển tích rất nổi tiếng liên quan đến Đài Phong hỏa, đó là Chu U Vương đốt tất cả các Đài Phong hỏa ở xung quanh kinh đô lên để đổi lấy một nụ cười của mỹ nhân Bao Tự, gián tiếp dẫn đến sự diệt vong của nhà Chu.)
______________________
*Lời tác giả: Vì để tránh hiểu lầm, Khương quân trong truyện này đã được mình đổi thành Khương Di, nhưng vẫn muốn nhấn mạnh lại lần nữa, cái này không có một chút quan hệ nào đến tộc Khương là một dân tộc thiểu số của Trung Quốc, chỉ là một nhà nước hư cấu. Thiết lập trong truyện là có ý đồ thâu tóm Trung nguyên, là một dân tộc hung ác tàn bạo lại hiếu chiến.
Bai bai Ngôn công tử, xin chào Ngôn tướng quân. Xin giới thịu với các bạn, đây nà Ngôn tướng quân của Đoan vương điện hạ