Tối đó, Khung Dực nằm mơ. Trong mơ, hắn quay về sáu năm trước, đường hành quân từ Kinh Lạc về Đại Thương không hiểu sao chỉ có mình hắn đưa Ngọc Huyên đi. Họ đi qua núi rừng Mạc Bắc trập trùng, đi qua thảo nguyên cỏ cháy bao la của Đại Mạc, sau cùng đến Vương Đô. Suốt cả chặng đường, Ngọc Huyên không nói gì với hắn. Thế nhưng đến lúc hắn phải quay về Khúc Băng, sáng sớm phóng ngựa ra khỏi kinh thành Trích Nguyệt, Ngọc Huyên đứng trên bờ thành cao nhìn xuống rồi chạy theo suốt chiều dài của dãy tường thành. Trong khoảnh khắc quay đầu nhìn thấy bóng dáng lam y nhỏ xíu, Khung Dực cơ hồ còn nghe Ngọc Huyên gọi theo một tiếng xé lòng.
“Anh Khung Dực! Anh ơi…”
Thế mà hắn vẫn đi biền biệt ba năm.
Ba năm sau, vào đêm cuối năm gió tuyết, hắn phóng ngựa ngày đêm quay về Vương Đô. Khi đã thấy cổng thành Trích Nguyệt sừng sững hiện ra trước mặt, ánh nhìn của Khung Dực lại chạm phải một người. Người nọ vận lam y thanh tú, đứng trong màn đêm đợi hắn dường như đã rất lâu rồi. Người nọ mắt đen, tóc đen, môi đỏ, má hồng vì lạnh. Người nọ nhìn thấy hắn từ xa, liền vội vã chạy lại trên đôi chân trần. Từng bước chân của y giẫm lên nền tuyết trắng, để lại những dấu máu đỏ tươi, kiều diễm. Trong mơ, cảm giác chân thực đến nỗi tim Khung Dực thắt lại, lồng ngực đau đớn như muốn nghẹn thở. Hắn nhảy xuống ngựa rồi lao đến bên người đó.
Hai mươi bước.
Mười bước.
Năm bước.
Ba.
Hai.
Một.
Khoảnh khắc ôm được y vào lòng, Khung Dực chỉ thấy một thân hình lạnh lẽo. Hắn hoảng hốt nâng gương mặt y lên nhìn cho kỹ. Y lóng lánh mắt cười, những giọt lệ chảy xuống lại có màu đỏ tươi nhức nhối.
“Anh… Khung Dực…” Y nghẹn ngào.
“Anh Khung Dực…”
“Anh Khung Dực…”
Trong vòng tay hắn, thân thể người đó lạnh dần, lạnh dần. Hắn gào thét phẫn nộ, hắn điên cuồng ủ ấm, hắn tuyệt vọng van xin có ai đó mau đến giúp hắn cứu y. Thế nhưng tất cả âm thanh đều kẹt trong cổ họng, không cách chi thoát ra ngoài. Đến lúc Khung Dực cúi xuống nhìn người đó lần nữa, y đã cứng đờ, trắng bệch như được tạc ra từ bạch ngọc.
Rầm.
Nhị vương tử thảng thốt choàng dậy từ trong cơn ác mộng, cả người mất đà chới với rồi rơi xuống, thân mình cao lớn đập mạnh vào nền đá lạnh buốt. Cơn đau xộc đến làm Khung Dực tỉnh táo lại đôi phần. Sau vài giây định thần, hắn chậm rãi đưa mắt nhìn quanh.
Sàn đá. Giường đá. Tường đá. Không gian tối om, lạnh lẽo, ẩm mốc.
Là Hình ngục.
Hắn chống tay nâng mình ngồi dậy, lập tức nhíu mày rên khẽ một tiếng. Phía sau gáy nhức buốt ê ẩm, xem ra cú đánh đó chẳng có một chút nương tay. Sau khi ngồi vững rồi, ánh mắt quen dần với bóng tối xung quanh mình, Nhị vương tử mới lờ mờ nhận ra trong căn phòng giam đó còn một người khác.
Khung Dực sững người trong một giây, thế nhưng hắn ngay tức khắc nhận ra khí tức quen thuộc của người kia.
“Đệ phạm ba trọng tội.”
Khung Tuấn bấy giờ mới âm trầm lên tiếng, cả thân mình vẫn bất động như đã hòa vào bóng đêm, chỉ còn giọng nói là mang theo hơi thở của người sống.
“Thứ nhất, đệ kháng chỉ, từ chối dẫn binh nam tiến.”
Đáp lại chỉ có lặng thinh.
Đại vương tử cũng chẳng đoái hoài mà chỉ tiếp tục đều đều buông giọng:
“Thứ hai, đệ từ lâu đã muốn thả Ngọc Huyên đi.”
Khung Tuấn khẽ nhếch mép cười, lắc đầu như tự trách mình hồ đồ nhìn không thấu.
“Ngẫm lại, ngay từ lúc đuổi theo con báo đen đến rừng mận nơi biên giới Mạc Bắc, đệ đã có ý đồ. Nếu không, đệ đã không vì một lời nói chưa kiểm chứng của Tiểu Huyền mà vội vã thúc ngựa xông vào rừng mận.”
“Thứ ba…”
Đại vương tử từ từ đứng dậy, xoay mặt về phía Khung Dực rồi rọi xuống ánh nhìn sắc lạnh.
“Đệ đã tiết lộ bí quyết thuần ngựa của Đại Thương ta cho Ngọc Huyên.”
“Đệ vốn không chỉ đơn thuần là dạy y cưỡi ngựa. Con ngựa mà Ngọc Huyên cưỡi chính là giống chiến mã thuộc hàng thượng đẳng, chẳng hề thua kém Tiểu Hổ của đệ chút nào. Ban đầu ta không để ý, thế nhưng đêm trước khi thấy nó lao theo y rồi nhảy xuống vực, ta liền hiểu ra. Nếu Ngọc Huyên đã thuần được nó, chứng tỏ y phải nắm chắc bí quyết thuần ngựa của Đại Thương.”
Khung Tuấn dừng lại, như thể chờ Khung Dực lên tiếng đáp lời.
Khung Dực vẫn không nói gì, chỉ mệt mỏi nhắm mắt lại, lưng tựa vào thành giường đá phía sau.
“Đệ có nhận không?” Khung Tuấn cao giọng hỏi.
“Nhận.”
Khung Dực khàn khàn nói, toàn thân rã rời.
“Có oan không?” Đại vương tử gật đầu, rồi lại hỏi.
“Không oan.” Nhị vương tử lắc đầu, chậm rãi nhưng dứt khoát.
Một lần nữa, Đại vương tử lại gật đầu, không rõ là hài lòng hay tỏ ý đã hiểu.
Hai huynh đệ kẻ đứng người ngồi trong gian phòng giam tối bưng, lạnh lẽo. Cả hai không nói gì với nhau thêm nữa.
Tâm đã như tro tàn, máu nóng trong thân thể cũng đông lại thành băng.
Đúng lúc này, hành lang bên ngoài vang lên những tiếng bước chân từ tốn, kèm theo đó là ánh lửa bập bùng từ một ngọn đèn dầu. Khung Tuấn vẫn bình thản đứng quay lưng về phía cửa, có vẻ hắn biết rõ người đến là ai. Khung Dực thì xoay nghiêng nửa người rồi đưa tay che đi nguồn sáng, giấu gương mặt vào bóng tối.
Người đến thấy vậy nên dừng lại bên ngoài, sau một giây suy nghĩ bèn khom mình đặt ngọn đèn dầu xuống sát mép tường chứ không mang vào gian ngục. Ngọn đèn lay lắt, ánh lửa không vươn nổi ra xa mà chỉ rọi thành một vầng sáng nhỏ dưới đất.
Gian ngục lần nữa chìm vào bóng tối.
Khung Vũ chậm rãi bước vào trong, đi đến bên Khung Dực rồi ngồi xuống chiếc giường đá lạnh toát kia.
Ánh lửa phía xa chỉ đủ để Hoàng đế nhìn thấy đường nét thân hình mờ mờ và những chiếc bóng dài của hai người con trai chứ không thể nhìn rõ mặt. Khung Vũ đưa mắt nhìn người trưởng tử đang đứng nghiêm trang, sau đó lại nhìn xuống người thứ tử đang gục đầu dưới chân mình.
Sau cùng, vị vua phương bắc thở dài.
Phụ tử ba người cứ im lặng như thế một lúc rất lâu, mãi cho đến khi Khung Tuấn bắt đầu mất kiên nhẫn.
Tại sao phụ hoàng vẫn bình tĩnh như vậy chứ không hề nổi giận như hắn nghĩ?
Thậm chí, người còn không hề giận.
Người chỉ có vẻ buồn, và rất nặng lòng.
Đúng lúc này, Khung Vũ mới cất lời, giọng trầm trầm ưu tư:
“Hai con biết không, mấy ngày nay ta cứ có linh tính rằng thời gian của mình không còn nhiều nữa.”
Đại vương tử vừa nghe đã giật mình, trong khi Nhị vương tử nãy giờ chỉ đang gục đầu mệt mỏi cũng từ từ ngẩng dậy rồi quay lại nhìn Hoàng đế, gương mặt mờ mịt như đang không hiểu ngài vừa nói cái gì.
Khung Vũ lại không hề đoái hoài gì đến phản ứng của hai người con.
“Thật ra ta rất băn khoăn, vì ta vốn còn rất nhiều chuyện phải dạy cho hai con. Thế nhưng từ sau biến cố của Ngọc Huyên xảy ra vào đêm mồng một Tết, ta đã nghiệm ra.”
Hoàng đế từ từ đứng dậy đi đến dãy song sắt của nhà gian, đưa tay ra chạm nhẹ vào những thanh sắt đen ngòm, lạnh lẽo.
“Suy cho cùng, bài học ý nghĩa nhất ta có thể dạy cho hai con chính là để hai con tự đi trên con đường mà mình đã chọn. Giang sơn này trước sau gì cũng để lại cho hai con gánh vác.”
“Nhưng mà có điều này hai con phải nhớ kỹ.”
Hoàng đế xoay người, nghiêm mặt nhìn Khung Tuấn và Khung Dực.
“Đã có gan tự mình đưa ra quyết định thì cũng phải có gan tự mình đối mặt với hậu quả và hệ lụy đi kèm.”
“Khung Dực.” Ngài quay mặt sang nhìn Nhị vương tử. “Con quyết định chọn tình riêng, đặt lên trên nghĩa vụ quốc gia. Hậu quả là ngoài hình phạt theo vương pháp, con còn phải đối mặt với việc tự mình đánh mất lòng vua. Nên nhớ, vua ở đây không phải ta, mà là Tân đế.”
“Ngoài ra, con còn phải chịu sự giày vò, tự trách của chính bản thân mình. Con đối mặt ra sao với những người đã tin tưởng con, đi theo con, vì con mà hy sinh mạng sống? Con đã nghĩ đến chưa?”
Trong bóng đêm, Nhị vương tử dường như run rẩy.
Hoàng đế không chờ Khung Dực nói gì đã quay sang người trưởng tử.
“Khung Tuấn.”
Ngài thở ra một hơi dài nặng nhọc.
“Con quyết định chọn chiến tranh. Con chọn đốn ngã nhị đệ. Vậy thì con phải chuẩn bị tâm lý đối mặt với việc tự đi trên con đường này một mình, không ai giúp sức.”
“Chiến Thần là thanh gươm kề cổ hay là tấm khiên bảo vệ, điều đó tùy thuộc rất nhiều vào cách đối nhân xử thế của bậc quân vương. Con cũng vậy, việc này con đã từng nghĩ đến hay chưa?”
Khung Tuấn hạ mắt nhìn xuống nền nhà, lẳng lặng cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng.
Thì ra Hoàng đế đã nhìn thấu mọi sự.
Đêm đó sau khi đánh ngất Khung Dực, hắn đã hạ lệnh giam nhị đệ vào Hình ngục, còn bản thân mình thì đi tấu rõ mọi chuyện với Hoàng đế và khép Khung Dực vào ba trọng tội kia.
Đó chính là phản quốc.
Dĩ nhiên Đại vương tử không nhắc nửa lời về việc Khung Dực đã diệt được Hỏa Xà.
Khung Tuấn khẳng định sẽ cho Hoàng đế chính tai nghe thấy Khung Dực nhận tội. Hắn vốn hiểu rõ nhị đệ mình. Tuy ngang tàng ương bướng từ nhỏ, Khung Dực vẫn là một chính nhân quân tử dám làm dám nhận.
Quả nhiên, mọi việc đều diễn ra như những gì Khung Tuấn nghĩ.
Trừ việc Hoàng đế phản ứng khác. Cả những lời rút ruột rút gan của ngài lúc này, những lời được nói ra nhẹ nhàng nhưng lại mang sức nặng của cả giang sơn.
Chiếc đèn bên ngoài dần dần cạn dầu, ánh sáng ngày một hạ xuống, khi mờ khi tỏ.
Khung Vũ vẫn chưa rời đi. Ngài ngần ngừ một lúc, sau đó quyết định kể ra việc đã giấu trong lòng từ lâu, việc mà chính ngài có đôi khi cũng cố tình quên mất.
“Rất nhiều năm trước, khi ta còn là Thái tử, đã có lần ta tự ý xông vào rừng mận, sau đó lạc đường. Lần đó ta đã gặp Chu An.”
“Cơ duyên run rủi thế nào, ta và hắn đã trú lại một thôn nhỏ nằm sâu trong lòng núi non Mạc Bắc. Cũng trong thời gian lưu lại nơi ấy, ta và Chu An đã tình cờ gặp được một lão đạo sĩ kỳ quặc. Hắn ta thoạt trông qua vừa lôi thôi vừa say xỉn, thế nhưng chính hắn lại kéo hai người bọn ta lại rồi đề nghị xem cho một quẻ bói.”
Khung Tuấn nghe đến đây bèn quay sang khẽ liếc Khung Dực.
Quẻ bói về Hỏa Xà và lời tiên tri Đại Thương sẽ diệt vong.
Như để chứng thực cho suy nghĩ của Khung Tuấn, Khung Vũ gật đầu nói:
“Hắn bói một quẻ rồi quay sang nhìn ta, bảo rằng Hỏa Xà sẽ diệt Đại Thương. Tuyết Nhạn giấu Hỏa Xà. Hỏa Xà xuất sơn, tộc Hồ sẽ vong, Đại Thương cũng diệt. Ta vốn bán tín bán nghi, nhưng điều kỳ lạ là hắn không thể nào biết thân phận của ta và Chu An do bọn ta đều cải trang thành thôn dân trong núi, vậy mà hắn lại nói với ta việc này.”
“Sau đó, hắn lại xem cho ta một quẻ khác. Quẻ này nói về số phận của những đứa con sau này ta có.”
Giọng Hoàng đế đều đều, ánh mắt xa xăm nhìn vào khoảng không trước mắt như đang cố hình dung lại những gì đã diễn ra trong quá khứ.
“Hắn nói ta sẽ có ba người con trai.”
“Hai người con trai đầu, số phận gắn liền với bảy chữ: được rồi mất, mất rồi lại được. Thế nhưng đối với một người thì đó là thiên hạ. Đối với người còn lại thì là giai nhân.”
“Còn người con trai thứ ba thì sẽ sinh ra sau một chút.”
Nói đến đây, Hoàng đế chợt cười cay đắng.
“Hắn nói, người con trai thứ ba của ta cả đời vô lo, mặc người cười khóc.”
“Hai con nói xem, lão đạo sĩ đó bói có đúng không?”
Khung Tuấn khẽ cúi đầu không đáp, mắt cũng rủ xuống che lại ánh nhìn. Khung Dực thì vẫn thẫn thờ ngồi trên sàn đá, ánh mắt vô hồn chẳng rõ có nghe được chữ nào hay không.
Hoàng đế Đại Thương cũng im lặng. Rõ ràng ngài chẳng hề mong đợi một câu trả lời nào từ nhị vị Vương tử.
Lát sau, Khung Vũ quay lưng lại rồi tiến về phía Khung Dực. Ngài hơi khom lưng, đưa tay ra đặt lên đầu Nhị vương tử, sau đó khẽ vuốt tóc hắn. Trong bóng đêm, không ai nhìn rõ rốt cuộc là nước mắt của ai, nhưng rõ ràng sàn đá lạnh lẽo của Hình ngục khi ấy đã đón được những giọt nước mắt âm ấm từ đâu rơi xuống.
Sau đó, Khung Vũ chậm rãi bước sang Khung Tuấn. Đứng trước mặt người trưởng tử của mình, ngài ngần ngừ một chốc rồi vươn tay ra đặt lên vai Đại vương tử. Hoàng đế thở ra một hơi dài, đong đầy xót xa.
Khung Tuấn vẫn đứng thẳng tắp, rõ ràng là kiên quyết đi con đường này đến cùng.
Khung Vũ thấy vậy cũng chẳng hề ngạc nhiên. Chính ngài năm xưa cũng đã từng quyết tuyệt như thế. Ngài vốn chỉ hy vọng Khung Tuấn không lặp lại lựa chọn của mình, đỡ phải đi con đường đế vương cô độc đến già mà thôi.
“Được rồi.”
Hoàng đế Đại Thương khẽ gật đầu, sau đó giọng nói đã lại nhuộm màu nghiêm trang như mọi lần.
“Khung Dực phạm trọng tội, xử theo vương pháp. Khung Tuấn, con chuẩn bị thông báo với triều thần và ra chiếu cáo toàn quốc đi.”
Khung Tuấn đã dự đoán được nên chỉ bình tĩnh cúi đầu: “Nhi thần tuân lệnh.”
Nhị vương tử vẫn ngồi im trên sàn, một ngón tay cũng không nhúc nhích.
Hoàng đế đứng yên một lúc trong căn phòng lạnh lẽo, đưa mắt nhìn hai người con trai lần nữa. Sau cùng, ngài quyết định phất áo bước ra ngoài. Đúng lúc này, Khung Dực chợt như bừng tỉnh. Hắn nhoài người lao đến nắm lấy vạt áo Khung Vũ, vừa dập đầu vừa khàn khàn kêu:
“Phụ hoàng! Xin người… ban cho con một ân huệ!”
Chất giọng của Khung Dực lúc bấy giờ khản đặc. Khoảnh khắc Ngọc Huyên nhảy xuống vực sâu, hắn đã hét đến rách cổ họng rồi phun ra một ngụm máu tươi.
Hoàng đế dừng bước, cúi đầu nhìn xuống người thứ tử. Đại vương tử thì đứng một bên khẽ cau mày.
“Xin phụ hoàng… phái người đi tìm Ngọc Huyên.” Khung Dực thều thào van xin.
“Phụ hoàng… Sống phải thấy người, chết phải thấy xác. Ngày nào chưa tìm thấy Ngọc Huyên, ngày đó con vẫn tin em ấy còn sống.”
Khung Vũ nghe vậy, thở hắt ra một hơi dài.
“Khung Dực. Dòng sông Vạn Kiếp đang mùa nước xiết. Nó lại chảy về phía tây rồi ra khỏi ranh giới nước ta. Lỡ như… Ngọc Huyên bị nó cuốn trôi đi mất… Chúng ta cũng không thể tìm xác về được. Con… nên chuẩn bị tâm lý sẵn đi.”
“Phụ hoàng…” Khung Dực siết chặt vạt áo của Khung Vũ trong tay, cắn răng ngăn tiếng nấc.
“Thôi được rồi, ta ân chuẩn.” Khung Vũ nhỏ giọng đáp, giọng nói mềm lại. “Ta cũng không nỡ để thằng bé nằm lạnh lẽo dưới dòng Vạn Kiếp… Chúng ta sẽ cố gắng đem thằng bé về, an táng đàng hoàng.”
“Đa tạ phụ hoàng…” Khung Dực thả vạt áo của Khung Vũ ra, dập đầu hai cái.
Đứng bên cạnh, Khung Tuấn lặng lẽ nhếch môi, trong bóng đêm không ai nhìn rõ. Hắn từ lâu đã biết rõ tính tình nhị đệ. Nếu chưa tìm được xác Ngọc Huyên, Chiến Thần vẫn sẽ chưa quỵ ngã.
Khi Khung Vũ và Khung Tuấn đi rồi, gian ngục lại chìm vào bóng tối. Nhị vương tử lúc này mới mệt mỏi ngả lưng ra sàn đá cứng như băng, hai tay ôm đầu, mắt nhắm nghiền.
Hóa ra, đại ca chưa hề có ý định kết làm đồng minh với Kinh Lạc. Mọi chuyện khi ấy chỉ là để lừa gạt hắn.
Chắc chắn việc Ngọc Huyên không sớm không muộn phát hiện chiến tranh ngay thời điểm then chốt này cũng là do huynh ấy sắp đặt. Nếu Ngọc Huyên đã biết, sau đó lại kéo theo việc y bỏ trốn, ra Tết Đại Thương cũng không có người để trao trả Kinh Lạc. Cho dù Khung Dực hắn đã diệt được Hỏa Xà thì sao? Phía Kinh Lạc chắc chắn sẽ không đời nào chấp nhận sự thật rằng Hoàng tử duy nhất của bọn họ đã trầm mình dưới sông, chưa rõ sống chết.
Chiến tranh bắt buộc phải nổ ra.
Đại ca chỉ cần nói mấy câu, dỗ dành mình một chốc là đã hoàn toàn vô hiệu hóa việc Hỏa Xà đã bị diệt, mối họa vong quốc của Đại Thương đã tan. Với cái chết của Ngọc Huyên, phía Kinh Lạc sẽ là bên khai chiến trước. Khi đó Đại Thương sẽ đường hoàng đáp trả.
Đằng nào cũng vậy.
Mọi chuyện hắn làm đều vô nghĩa.
Chín mươi mấy huynh đệ bỏ mạng trên Tuyết Nhạn đều vô nghĩa. Lý Tao Niên, Lê Quảng Mục chết thảm… đều vô nghĩa.
Khung Dực bất chợt siết hai tay rồi vùng lên, đấm mạnh vào bức tường đá lạnh lẽo kia, đấm đến khi hai tay gần như nát bươm, máu me be bét.
“Đại ca nói đúng! Hahahaha… Đại ca luôn luôn nói đúng…”
Khung Dực cười gằn, cười khùng khục thành những tràng đứt quãng, sau cùng sụp xuống rồi nằm vật ra nền nhà.
“Tại đệ ngu.”
Nước mắt tràn ra từ hốc mắt, bò xuống hai bên thái dương, chảy vào tai, sau đó nhỏ xuống sàn nhà lạnh lẽo. Khung Dực đưa tay lên chùi, lại chỉ thấy chất lỏng đầy mặt, không rõ là nước mắt hay là máu. Hắn lại càng chùi, vầng trán đau nhức bưng bưng, hai tay cũng bỏng rát. Chùi rồi lại chùi, cả gương mặt càng lấm lem, nhoe nhoét.
Sau cùng, Khung Dực buông xuôi.
Hắn chợt thấy rất lạnh. Cái lạnh như thấm vào từng tấc da tấc thịt, len vào tận trong xương tủy. Khung Dực co người lại, hai tay vòng qua tự ôm lấy mình, đôi mắt vẫn mở nhưng tuyệt nhiên không nhìn thấy được gì.
Lạnh và tối đen.
Nhị vương tử nằm trên sàn rất, rất lâu, đến mức mất đi khái niệm về thời gian. Giờ là hôm nào, ngày nào? Thỉnh thoảng sẽ có binh sĩ đến đưa cơm nước cho hắn, hắn cũng không rõ là họ đến một lần một ngày, hai lần một ngày hay ba lần một ngày.
Khung Dực hoàn toàn mất đi ý thức đó.
Trong bóng tối của Hình ngục, Khung Dực còn bị một câu hỏi khác đau đáu xoáy thẳng vào tâm can.
Tại sao em lại quyết tuyệt như vậy? Ngay cả một câu cũng không chịu nghe hắn nói.
Chẳng phải đêm trước vừa mới kết tóc thành phu thê đó ư, sao chỉ trong một ngày mà vật đổi sao dời? Tại sao em không chịu dừng lại dù chỉ trong một giây một khắc, để hắn kịp giải thích với em?
Hay là… vốn dĩ em không hề tin hắn?
Em không tin hắn thật lòng thật dạ với em sao?
Ngọc Huyên… Ngọc Huyên… Ngọc Huyên…
Khung Dực cứ thế mơ mơ màng màng, liên tục chìm vào những giấc ngủ mê khi ngắn khi dài.
Trong thời gian đó, hắn liên tục nằm mộng. Dù đó chỉ là những hình ảnh thoáng qua, những ký ức đứt quãng, thế nhưng hắn vẫn thấy rất rõ ràng, chân thực.
Khung Dực cùng lứa dân binh trẻ đi tuần trên Tuyết Nhạn vào mùa thu, sau đó còn nhảy ùm xuống ôn tuyền mà tắm. Lũ trẻ cười giỡn náo loạn cả một góc rừng. Lá vàng ươm, trời cao xanh nhẹ.
Khung Dực ngồi bên đống lửa trại cùng dàn tướng soái, uống rượu, hát hò, lại còn vật tay cá cược. Lý Tao Niên thua Kỷ Phong ba lượt, nổi giận phừng phừng đè hắn ra bắt hắn uống hết một vò nếp mật Kỉ Di. Lâm Sách và Lê Quảng Mục ngồi bên cười rũ rượi, chẳng thèm giúp, chỉ có mỗi Đinh Đại Đồng xua xua tay, bảo hây dà để ta uống cho.
Khung Dực luyện thương với Lăng Kỳ Anh trên thao trường của dải Chinh Sa. Thương đi loang loáng dưới nắng, mồ hôi nhỏ ra như tắm. Thiếu niên cột tóc cao, thân mình để trần phơi ra làn da màu nâu mật, miệng lúc nào cũng tươi cười gọi Thống lĩnh ơi nương tay cho thuộc hạ đi. Thế nhưng cũng chính hắn nằng nặc đòi luyện tiếp dù mặt trời đã xuống thấp, nói sao cũng không chịu đi về.
Còn rất nhiều, rất nhiều ký ức nữa.
Bọn họ phi ngựa chạy băng băng trên Đại Mạc, cỏ vàng ngả rạp dưới chân. Bọn họ dẫn binh trấn Hồ, hành quân trong tuyết trắng như mây. Bọn họ làm thuyền, thử thuyền trong làn nước xanh ngăn ngắt của vịnh Lam Thủy. Bọn họ lẻn vào chợ phiên sơn tộc, ánh lửa lập lòe, sắc màu vần vũ hoa cả mắt. Bọn họ cùng ăn cùng ngủ trong Nhạn Quân, cùng sống cùng chết trên sa trường…
Bên tai Khung Dực lúc nào cũng vang lên hai tiếng Thống lĩnh, Thống lĩnh, Thống lĩnh… đầy thân thuộc, giọng nói tràn ngập ý cười.
Thế rồi một đạo sấm sét nổ ngang trời, phút chốc cả khung cảnh chỉ còn một màu trắng xóa. Mọi thanh âm đều im bặt, bốn bể lặng câm như nấm mồ.
Sau đó Khung Dực lại thấy, máu nhuộm đỏ đỉnh Tuyết Nhạn. Hỏa Xà lặng lẽ trườn xuống. Nó bò đến đâu, xác người ngã rạp đến đấy. Trong đống xác thịt bầy nhầy là gương mặt méo mó, vặn vẹo của Lý Tao Niên, của Lê Quảng Mục, của những huynh đệ khác đã bỏ mình.
Khung Dực còn thấy Lăng Kỳ Anh chết khô trên đầm lầy, thân thể mục nát phơi ra dưới nắng gió, phơi ra giữa rừng thiêng nước độc. Toàn bộ binh sĩ trong đoàn quân chinh tây đều táng thân nơi đất khách, thực sự có đi không có về.
Khung Dực thấy biển cao sóng cả nhấn chìm đoàn thuyền vừa ra khơi từ vịnh Lam Thủy. Trong cuồng phong, Bàn Minh Sơn chỉ kịp chấp chới kêu cứu giữa làn nước sâu, chẳng mấy chốc liền mất dạng.
Khung Dực thấy đại ca mình mỉm cười, một tay cầm kiếm đâm xuyên tim hắn, thế nhưng người ngã xuống đất rồi gục chết trên vũng máu tươi lại vận lam y, có mái tóc đen dài như nhung như lụa.
Trong bóng tối trập trùng trôi nổi, Nhị vương tử chới với không biết bấu víu vào ai.
Két.
Cửa phòng giam nhẹ nhàng mở ra. Âm thanh kẽo kẹt rất nhỏ đó vậy mà lại vừa hay kéo Nhị vương tử Đại Thương ra khỏi mộng. Hắn ngồi bật dậy theo phản xạ, đưa mắt nhìn người đang khom mình bước vào, hai mắt vằn lên tơ máu, thế nhưng nhìn kỹ lại thì ánh mắt lại đờ đẫn mất hồn.
Người đến là một binh sĩ trung niên lạ mặt.
Nhìn thấy Khung Dực đã tỉnh, hắn vội vàng quỳ xuống dập đầu:
“Nhị vương tử. Thuộc hạ không có ý xấu, thuộc hạ đến đây giúp ngài.”
Khung Dực vẫn trừng trừng nhìn người kia, đầu óc lùng bùng chưa nghe rõ những gì hắn nói. Binh sĩ thấy vậy bèn bạo dạn ngẩng lên nhìn sắc mặt Khung Dực, sau đó cả gan bò lại gần.
Nương theo ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn mà người binh sĩ cầm theo, gương mặt Khung Dực hiện lên.
“Trời ơi! Nhị vương tử, ngài… sao lại ra nông nỗi này!”
Binh sĩ cuống quýt đưa tay lên sờ trán Khung Dực, thấy hắn sốt đến kinh hồn. Gương mặt Nhị vương tử đọng đầy máu khô từ đôi tay nát bươm, hốc mắt trũng sâu, gò má hóp vào tiều tụy. Cặp mắt hắn cũng đỏ ngầu, hoàn toàn mất đi tiêu cự.
Những chuyện sau đó, Khung Dực chỉ lờ mờ cảm nhận chứ không nhớ rõ.
Dường như người binh sĩ đó đỡ hắn nằm xuống rồi lau mặt, dấp khăn lên trán, đoạn bôi thuốc băng bó cho hai tay bị thương của hắn. Lát sau hắn còn chạy ra ngoài, lúc quay vào đã mang thêm chén thuốc và ít cháo lỏng. Khung Dực được hắn đỡ dậy, từ từ bón thuốc và bón cháo. Lần đầu tiên sau nhiều ngày, mồ hôi túa ra từ cơ thể Nhị vương tử, xua đi nửa phần giá lạnh trong Hình ngục.
Khung Dực ăn cháo uống thuốc xong thì lại nằm vật ra rồi chìm vào một giấc ngủ dài, chỉ khác là lần này hắn ngủ yên, không mộng mị.
Hôm sau khi tỉnh dậy, người binh sĩ trung niên kia vẫn đang ở bên cạnh chờ Khung Dực tỉnh.
Khung Dực gượng người ngồi thẳng dậy rồi nhíu mày quan sát người quỳ. Hắn mặc quần áo của binh sĩ gác Hình ngục, có đem theo một ngọn đèn, một hộp thuốc và ít thức ăn. Gương mặt hắn bình thường, tuy nhiên nhìn kỹ lại hơi quen mắt.
Binh sĩ thấy Khung Dực đã có phần tỉnh táo thì liền quỳ xuống dập đầu thi lễ.
“Thuộc hạ Triệu Bách, tham kiến Nhị vương tử.”
Khung Dực chưa vội lên tiếng, ra hiệu cho hắn nói tiếp.
“Đệ đệ của thuộc hạ ở trong Nhạn Quân, tên là Triệu Tùng. Lần đó hắn cùng Nhị vương tử xuất quân diệt Hồ, chẳng may bị trúng tên độc. Chính Nhị vương tử đã giúp hắn chặt tay giữ mạng.”
Lúc này thì Khung Dực đã nhớ ra.
“Triệu Tùng, có phải Triệu Tùng thuộc quân thám báo của Lý Tao Niên, sau đó vì mất một tay mà được chuyển sang quân hậu cần của Lê Quảng Mục?”
“Đúng vậy, Nhị vương tử.”
Khung Dực lúc này mới thả lỏng người, tựa lưng vào tường rồi vẫy tay ra hiệu cho người binh sĩ tới gần.
“Ngươi nói ngươi là ca ca của hắn?”
Người binh sĩ thấy vậy, mừng rỡ cầm hộp thuốc và mâm nhỏ đựng thức ăn rồi đến gần Khung Dực. Hắn đặt thức ăn xuống, làm động tác mời Khung Dực ăn sau đó mở hộp thuốc ra, lôi ra vài lọ thuốc trị thương căn bản, ra hiệu mình sẽ thay băng cho bàn tay Khung Dực. Khung Dực liếc mắt nhìn. Tuy đều là thuốc loại thường, không phải thảo dược quý giá gì nhưng dùng cũng tạm ổn.
“Bẩm Nhị vương tử, đúng thế. Thuộc hạ làm binh sĩ gác Hình ngục đã mười năm rồi. Sau khi Nhị vương tử bị nhốt vào đây, thuộc hạ luôn tìm cơ hội để giúp ngài. Đại ân đại đức ngài đã cứu mạng tiểu đệ, thuộc hạ cũng chỉ có thể đền đáp bằng những việc lặt vặt thế này thôi.”
Triệu Bách vừa nói vừa thuần thục thay băng, lau rửa, bôi thuốc rồi băng bó bằng vải mềm sạch cho vết thương trên tay Khung Dực.
Sau khi húp hết chén cháo và ăn xong cái bánh ngô, Khung Dực uống một ngụm nước rồi hỏi:
“Bây giờ đã là ngày nào?”
“Bẩm Nhị vương tử, bây giờ đã là chiều ngày mồng năm.”
Khung Dực khẽ cứng người.
Mồng năm là ngày triều thần họp lại, cũng đồng nghĩa với việc đại ca sẽ công bố tội trạng của mình.
“Sáng nay…” Khung Dực hơi ngập ngừng.
Triệu Bách cụp mắt, sau đó cúi đầu nói nhỏ:
“Sáng nay trên triều như có động đất. Đại vương tử… Đại vương tử công bố ba tội lớn của ngài. Hoàng đế đã hạ lệnh xử theo vương pháp.”
Vương pháp của Đại Thương dành cho tội danh phản quốc chính là xử tử. Thảm khốc ở chỗ, người phạm tội sẽ bị trói tay chân rồi để nằm ra mặt đất, cho đàn ngựa chiến chạy qua giày xéo đến khi thịt nát xương tan.
Khung Dực cúi đầu một hồi, sau khi ngẩng lên thì nhìn thẳng vào Triệu Bách rồi thấp giọng nói:
“Triệu Bách, nhờ ngươi nghe ngóng tin tức một người giúp ta.”
“Nhị vương tử, xin ngài cứ nói, thuộc hạ nhất định sẽ dốc hết sức mình.”
Mấy ngày nay Hoàng đế không ăn được, cũng không ngủ được. Chỉ trong vài ngày xuân, tóc của ngài đã bạc hơn phân nửa. Lão nô hầu bên cạnh ngài dù xót xa sốt ruột cách mấy cũng không thể nào khuyên can được gì, chỉ đành cố van nài Khung Vũ húp vài ngụm canh ngụm cháo.
Cũng khó trách ngài.
Sáng nay trên triều, Đại vương tử công bố ba tội lớn của Nhị vương tử sau đó khép vào tội danh phản quốc. Nhị vương tử đã chính miệng thừa nhận, không một lời oán than. Hoàng đế hạ lệnh xử theo vương pháp, tức là tội chết. Triều thần dậy sóng.
Trên đại điện, bá quan văn võ chia làm hai phe, đối đầu gay gắt. Một bên nhỉnh hơn về số lượng, nhất quyết cho rằng tội của Nhị vương tử không thể dung tha, nhất định phải xử theo vương pháp. Bên còn lại tuy ít người hơn một chút nhưng đều là những lão thần kỳ cựu và phe võ tướng hợp thành. Bọn họ đều quỳ xuống xin Khung Vũ niệm tình Khung Dực trước giờ luôn nhất mực trung thành, một tay trấn giữ sơn tộc bảo vệ Đại Thương bao năm nay mà miễn cho tội chết.
Người phạm tội là thứ tử của mình nên Hoàng đế không thể lên tiếng hay có động thái nào thể hiện tư tình. Cuộc tranh luận vì thế mà trở thành sàn đấu của bá quan văn võ.
Hai bên giằng co mãi chưa đi đến hồi kết thì một vài người theo phe trung lập bèn lên tiếng hỏi, theo ý của Đại vương tử, cũng là Tân đế của Đại Thương, thì nên xử sự ra sao.
Vào giây phút đó, Khung Vũ biết số phận của người thứ tử mình đã định.
Từ khi nhớ lại chuyện quẻ bói vong quốc của Đại Thương, Khung Vũ luôn tự hỏi lão đạo sĩ say xỉn năm xưa liệu có đoán đúng hay không. Hoàng đế tin rằng Đại Thương hùng mạnh sẽ không sụp đổ dễ dàng. Thế nhưng giờ đây giữa hai người con của ngài đã thành ra thế cục như vậy, quân thần không thuận, huynh đệ bất hòa, xem ra… điềm báo kia rất có thể…
“A chaaaaaaaaaaaaa! A chaaaaaaaaaaaaaaaaaa!”
Hoàng đế cau mày ngẩng đầu lên, còn chưa kịp nói tiếng nào thì Tiểu Huyền đã từ đâu xông tới rồi nhào vào lòng ngài.
“A cha! Chơi với con đi! Bế con cao cao đi, con muốn chơi với người!”
Khung Vũ dịu lại nét mặt nhưng cũng không thể nở nổi một nụ cười cho em.
“Tiểu Huyền, con tự chơi đi. Phụ hoàng bận việc.”
Tiểu Huyền nghe xong, không những không đi mà còn nghiêng đầu tới lui nhìn Khung Vũ, sau đó đưa hai tay lên bẹo má của ngài.
“Sao a cha có vẻ buồn vậy? Có ai bắt nạt cha hả?”
Lão nô theo hầu thấy Hoàng đế đã sa sầm nét mặt bèn vội chạy tới can.
“Tam… Tam vương tử! Ngài qua đây, lão nô chơi với ngài nha, chịu không?”
Tiểu Huyền nhăn mặt, hai tay vòng qua ôm cứng lấy Khung Vũ:
“Ta không muốn chơi với lão đâu! Ta chơi với a cha!”
Đến lúc này thì Khung Vũ đã chịu hết nổi. Ngài gỡ tay Tiểu Huyền rồi đẩy bé ra xa, đoạn không thèm nói câu nào đã đứng dậy xoay lưng đi thẳng.
Tiểu Huyền bị đẩy ra nên hơi mất đà loạng choạng, cũng may sau cùng bé không ngã. Bé cứ thế đứng nhìn theo bóng dáng Khung Vũ đang xa dần, đôi mắt long lanh từ từ phẳng lặng.
Khung Dực ở trong ngục, đợi đến tối ngày mồng tám Tết mới loáng thoáng nghe thấy tiếng bước chân quen thuộc.
Kỷ Phong đang mặc trên người y phục của binh sĩ Hình ngục, được Triệu Bách dẫn vào trước cửa phòng giam của Khung Dực. Triệu Bách mở cửa phòng rồi cúi đầu rời đi, trước khi đi không quên căn dặn cả hai chỉ có thời gian một nén nhang.
Lúc Kỷ Phong bước vào phòng giam, Khung Dực cũng đứng dậy rồi bước hai bước về phía trước.
“Kỷ Phong…”
“Sáng mồng mười sẽ hành hình.”
Khung Dực chưa kịp nói hết câu, Kỷ Phong đã khàn giọng cắt ngang.
Khung Dực không tỏ ra ngạc nhiên. Nhị vương tử bình tĩnh đưa mắt quan sát người thân vệ, thấy hắn đã gầy xọp đi, hai mắt thì đang đỏ ngầu.
Khung Dực lại hỏi: “Kể từ đêm mồng một Tết, ngươi thế nào?”
Kỷ Phong mệt mỏi đi lại bên chiếc giường rách trong phòng giam rồi ngồi phịch xuống, đưa hai tay lên ôm đầu. Mãi sau, hắn mới hít vào một hơi thật sâu rồi ngước lên nhìn Khung Dực:
“Lặn sâu trốn kỹ. Quanh quẩn gần Hình ngục để tìm cách vào gặp ngài, mãi tới khi hai hôm trước gặp được Triệu Bách. Mà ngài còn hỏi việc này làm gì? Đến lúc nào rồi? Ngài định làm sao đây?”
Khung Dực cũng đi lại giường, ngồi xuống cạnh hắn rồi đá đá chân:
“Bực dọc cái gì? Ta còn chút cháo, ăn không?”
“Đừng có giỡn nữa, Nhị vương tử!” Người thân vệ gào lên, tay đập vào tường đá lạnh.
Khung Dực thấy vậy chỉ bật cười. Hắn cúi người xuống cầm chén cháo nãy giờ vẫn để trên sàn, lúc này chỉ còn vương hơi ấm.
“Bức tường này ta cũng từng đấm đến nát tay, vẫn còn đang băng bó đây này. Nó cũng chẳng có tội tình gì, ngươi đừng làm tổn thương nó nữa.”
Khung Dực đưa chén cháo cho Kỷ Phong, nhẹ giọng nói:
“Ăn cùng ta đi.”
Kỷ Phong nín lặng.
Lát sau, người thân vệ đỡ lấy chén cháo từ tay Khung Dực, sau đó đưa lên miệng húp ba hơi.
“Nhạt nhẽo quá, chả có mùi vị gì.”
Hắn đưa lại chén cháo còn một nửa cho Khung Dực rồi đứng dậy tìm quanh phòng giam.
“Có rượu không nhỉ?”
Khung Dực ngồi dựa tường húp nốt chén cháo, khẽ nhếch mép:
“Ngươi nghĩ đây là đâu mà có rượu?”
Nuốt xuống ngụm cháo, Nhị vương tử liền nhăn mặt:
“Hừm, cháo nhạt thật, chẳng bằng một góc cháo Ngọc Huyên nấu.”
Nghe đến hai chữ Ngọc Huyên, Kỷ Phong khựng lại trong vài giây. Lát sau, hắn quay lại ngồi cạnh Khung Dực, ngần ngừ một chút rồi nói:
“Vẫn chưa tìm thấy xác Hoàng tử.”
Khung Dực im lặng húp hết cháo xong thì đưa tay ném cái bát không sang một bên, đoạn khẽ gật đầu tỏ ý đã biết.
Hai người im lặng một hồi, Khung Dực là người lên tiếng trước.
“Ngươi… ngày mai về Khúc Băng đi, đừng ở đây đến mồng mười làm gì. Về gặp Lâm Sách, nói hắn đã đủ sức gánh vác Nhạn Quân từ lâu rồi, đừng lo. Chỉ có điều hắn hay nghe theo lý trí quá. Đôi khi người làm tướng còn phải biết tin vào trực giác của mình.”
“Bảo với Đinh Đại Đồng, nhớ canh chừng đám cây ăn quả của Ngọc Huyên, nhất là cây chà là đó. Nếu sau này ra quả, quả đó có thể đem bán cho những vùng khác. Ngọc Huyên luôn tin rằng vườn chà là sẽ ra hoa kết quả, dải Chinh Sa khô cằn cũng sẽ phất lên nhờ nó.”
“Nếu có về vịnh Lam Thủy thì nhắn với Bàn Minh Sơn, phải giữ vững tình cảm anh em với nhóm du mục như Kháp Tư và những bộ tộc nhỏ khác biết làm mộc. Không được lơ là việc trồng rừng lấy gỗ. Sau này cảng quân sự xây dựng thành công, hắn sẽ có công đầu, chắc chắn vinh quang vô hạn. Cũng nói hắn thành gia lập thất đi, đừng ôm cái cảng biển đó hoài mà bỏ phí hạnh phúc cả đời.”
Kỷ Phong im lặng nghe hết, đến cuối cùng lại hỏi:
“Còn gì nữa không?”
Khung Dực nghĩ nghĩ một hồi, lát sau mới thở hắt ra một hơi rồi thú nhận:
“Trước trận chiến diệt xà, ta đã bảo Đinh Đại Đồng phái người đi tìm Kỳ Anh. Dù hắn chỉ còn là một nắm xương tàn cũng phải đem về.”
“Nhưng mà Kỷ Phong, ta tin rằng tên tiểu tử ranh ma đó sẽ không chết như vậy. Ngươi…”
“Được rồi.” Kỷ Phong phất tay ra hiệu cho Khung Dực đừng nói nữa.
“Thuộc hạ không muốn nghe đến cái tên chết giẫm đó nữa! Hắn chết quách đi cũng được, chết cho triệt để vào, làm âm hồn bất tán luôn đi!”
Khung Dực há mồm trợn mắt, mãi sau mới phun ra được hai chữ:
“Độc phụ!”
“Hừ!” Kỷ Phong đứng dậy phủi tay rồi bước ra khỏi cửa. “Hết một nén nhang rồi. Ta đi đây.”
Đến khi cửa nhà giam khép lại và Kỷ Phong đã đi được một đoạn chừng mươi bước, Khung Dực mới đứng dậy nói với theo:
“Kiếp sau… ta làm thân vệ cho ngươi!”
Người làm thân vệ kiếp này dừng bước, đứng im lặng tại chỗ một hồi lâu, đầu vẫn không ngoảnh lại. Sau cùng, người đó kiên quyết bỏ đi. Còn người làm chủ nhân kiếp này thì bật cười, quay về giường nằm vật ra, gác tay lên trán, miệng ngâm nga khe khẽ giai điệu hành quân mà bọn họ cùng hát vang năm nào.
Mãi đến khi cánh cửa nặng nề kia khép lại và Hình ngục lần nữa chìm vào bóng tối, Khung Dực mới ngưng giọng. Nhị vương tử ngồi dậy rồi lặng lẽ tựa người vào bức tường đá lạnh lẽo. Rất lâu sau đó, hắn mới đưa hai tay lên ôm mặt, giọng run run khàn khàn mà thốt ra một câu xin lỗi không rõ dành cho ai.
Ra khỏi Hình ngục rồi, Kỷ Phong lập tức thay y phục dạ hành, sau đó đi thẳng đến cổng thành phía sau hoàng cung, đoạn nhân lúc binh lính đổi ca sơ suất mà lẻn ra ngoài. Để tránh tai mắt, Kỷ Phong không cưỡi ngựa mà vừa tự dùng khinh công vừa chạy. Hướng mà hắn nhắm tới là trại ngựa của doanh trại Thủ Vệ Quân Vương Đô ở ngoại thành.
Kỷ Phong biết cơ hội là cực kỳ mong manh, bởi vì từ lúc triều đình định tội rồi tuyên bố xử Khung Dực theo vương pháp, bầy ngựa chiến ở doanh trại này chắc chắn đã được canh phòng cẩn mật. Chưa kể lần này Đại vương tử đã quyết không tha cho Nhị vương tử, ở trên triều không hề nói giúp mà còn khẳng định hoàng tộc phạm pháp thì càng phải xử nghiêm làm gương, thế nên người của Đại vương tử chắc chắn cũng sẽ nhúng tay để đảm bảo bầy ngựa này được an toàn.
Quả nhiên, lúc Kỷ Phong tìm đến thì doanh trại có vẻ đã được tăng cường canh gác. Binh sĩ trước doanh trại đông hơn mọi lần, trong số đó còn có cả binh sĩ mặc áo Thủ Vệ Quân của hoàng cung Trích Nguyệt.
Nhờ hay lui tới uống rượu với Thủ Vệ Quân Vương Đô nên Kỷ Phong tìm được một lối khác ít người dùng rồi lẻn vào doanh trại. Vừa hay, lối đi bí mật này lại nằm ngay khu chuồng ngựa.
Điều kỳ lạ là, chuồng ngựa lại vắng tanh, không một bóng người.
Từ góc nhìn của mình, Kỷ Phong chỉ thấy được phía sau chuồng ngựa chứ không thấy được phía trước. Hắn suy nghĩ nhanh chóng rồi quyết định lẻn vào luôn, không cần vòng ra phía trước kiểm tra. Quan trọng là phải hành động nhanh trong đêm rồi rút lui êm thấm.
Kỷ Phong gần như nín thở khi tiến lại gần chuồng ngựa. Trong màn đêm, hắn nhẹ nhàng đu mình lên xà nhà rồi trườn vào từ khe hở giữa mái nhà, tránh để lại dấu vết dưới mặt đất.
Khi hai chân Kỷ Phong nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất ẩm trong chuồng ngựa, hắn mới dám thở phào một hơi tin rằng mình đã thật sự đi được tới bước này.
Không phí phạm một giây một khắc nào, Kỷ Phong lập tức bắt tay vào việc. Giây phút bàn tay hắn vừa chạm vào thanh gỗ chắn chuồng ở ô đất đầu tiên, phía sau lưng chợt vang lên một giọng nói cực kỳ quen thuộc khiến cho Kỷ Phong lập tức cứng người.
“Là ngươi?”