Tháng Ngày Giành Ảnh Đế Với Thái Tử

Chương 43: 43: Chương 42



Lý Tùng Nhất giải nghệ, người vui nhất hẳn là Tưởng Nghiêu.
Tưởng Nghiêu không ngờ có thể ép Lý Tùng Nhất ra khỏi làng giải trí một cách êm thấm, hắn vui như mở cờ trong bụng.
Ban đầu hắn còn lo rằng ngay cả khi Lý Tùng Nhất tạo ra tai tiếng thì đoàn phim “Sơn Hải Kinh” vẫn chọn cậu.

Song đến giờ phút này, hắn chỉ cần nằm phè phỡn chờ tin vui.
Kết quả là “Sơn Hải Kinh” công bố danh sách diễn viên chính trên Weibo.
Tưởng Nghiêu sững sờ, nhìn tên diễn viên thủ vai Phỉ Kỷ.
Hà Gia?
Vì người kia là bạn cùng phòng của Lý Tùng Nhất, Tưởng Nghiêu theo dõi sát sao cậu nên mới sẵn tiện dòm ngó người còn lại; chứ không, hắn đã chẳng nhớ nổi dáng vẻ tên nhóc kia trông như thế nào.
Một sinh viên đại học non nớt thoạt nhìn văn nhã quá đà, chưa có kinh nghiệm diễn xuất chứ đừng nói đến danh tiếng.
Đạo diễn thà chọn một tên nhóc mặt còn hôi sữa đóng vai Phỉ Kỷ, chứ không buồn cân nhắc đến hắn?
Tưởng Nghiêu không tin đoàn đạo diễn chưa từng có ý định chọn mình.

Điều này đồng nghĩa từ đầu đến cuối Tưởng Nghiêu đều không nằm trong phạm vi suy xét của đạo diễn, thậm chí còn chẳng nằm ở vị trí “xét sau”.
“Không thể nào…”
Tưởng Nghiêu vốn nửa nằm trên sô pha, vừa nhàn nhã lướt Weibo vừa gác chân lên bàn cà phê.

Khi trông thấy tin này, hắn đã bàng hoàng đến mức đạp đổ mọi thứ.

Các loại trái cây, nước uống, chai lọ rơi đầy khắp sàn.
Tưởng Nghiêu mặt mày tái mét: “Sai, sai ở chỗ nào? Nếu đã không có Lý Tùng Nhất, tại sao vai này vẫn thuộc về người khác? Hả?!”
Tưởng Nghiêu thở phì phò, giật tóc đùng đùng.

Hắn đi tới đi lui, nghiền nát những quả nho đang nằm lăn lóc trên mặt đất.
“Tao cần một câu trả lời.” Tưởng Nghiêu túm lấy áo khoác, hớt ha hớt hải chạy ra ngoài.
Mãi đến tận tối muộn, hắn mới ập đến bữa cơm của đoàn đạo diễn tại khách sạn.
“Đạo diễn Vương!” Tưởng Nghiêu gọi y với đôi mắt đỏ hoe.
Vương Thủy Hoán sửng sốt, mấy giây sau mới nhận ra là Tưởng Nghiêu.

Y xua tay, bảo các trợ lý đạo diễn khác về trước.
“Đi dạo nào.” Vương Thủy Hoán tuồng như biết Tưởng Nghiêu muốn nói gì, nên chọn góc vỉa hè thưa thớt dân cư.
Tưởng Nghiêu nói, giọng gấp gáp: “Đạo diễn Vương, cho tôi hỏi rốt cuộc tại sao Hà Gia đóng Phỉ Kỷ?”
Vương Thủy Hoán thở dài: “Tôi vốn thích Lý Tùng Nhất, ai ngờ scandal lại xảy ra với cậu ấy.”
“Không phải.

Đạo diễn Vương, anh hiểu ý tôi mà.” Đôi môi Tưởng Nghiêu run run.

“Tại sao sau Lý Tùng Nhất, không phải là tôi? Mà là Hà Gia?”
Vương Thủy Hoán im lặng một thoáng, tựa hồ đang thận trọng lựa từng từ: “Trong số những diễn viên casting cho Phỉ Kỷ, ngoài Lý Tùng Nhất thì khí chất của Hà Gia gần giống với điều tôi muốn nhất.”
Tưởng Nghiêu ngớ ra, hai mắt càng đỏ hơn: “Đạo diễn Vương, anh có nhớ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau không? Chắc anh không nhớ, nhưng tôi ấn tượng lắm.

Nó ảnh hưởng trực tiếp đến cả cuộc đời tôi.

Lúc đó anh nói là anh đánh giá cao tôi, còn bảo cho tôi một vai trong những dự án mới.

Tôi vẫn luôn coi lời anh là động lực.”
“Tôi nhớ lúc đó cậu còn rất trẻ.

Mới mười bảy, mười tám thôi.

Ngoại hình và diễn xuất đều bắt mắt, đặc biệt là thái độ chấp nhất của cậu cho điện ảnh, khiến tôi cảm động lắm.” Vương Thủy Hoán nhớ lại.

“Lời tôi nói đều là thật cả.

Tôi chưa bao giờ keo kiệt khi trao cơ hội cho những bạn trẻ xuất sắc.

Nhưng…”
“Vậy bây giờ, lời anh nói còn tính không?” Tưởng Nghiêu hỏi.
Vương Thủy Hoán thở ra: “Đương nhiên tính.”
“Thế tại sao không cho tôi một cơ hội?”
“Cậu vẫn ôm thái độ chấp nhất của ngày nào.” Vương Thủy Hoán khẽ lắc đầu.

“Nhưng từ trong mắt cậu, sự chấp nhất mà tôi thấy không còn thuần túy là yêu diễn xuất nữa.

Nó không còn là thái độ chấp nhất như nước hồ mùa thu trong vắt.

Có lẽ đây là giới giải trí, phức tạp lẫn đục ngầu.

Ít có người ở mãi nơi đó mà vẫn trong vắt.”
Tưởng Nghiêu nghiệm ra, đứng yên như khúc gỗ dưới ánh đèn trong cơn tuyệt vọng bủa vây.
Vương Thủy Hoán tiến lên vài bước, mới hay người nọ không đi theo.

Y nghiêm túc, “Đầu cơ trục lợi thì đi nhanh, nhưng không đi xa.

Tôi tặng cho cậu câu này, mong rằng nó cũng ảnh hưởng cậu cả đời.”
Vương Thủy Hoán vươn tay gọi taxi, và rồi nhanh chóng biến mất trong bóng đêm bao la.
Nhưng màn đêm ở đô thị này chẳng phải là bóng tối thuần túy.

Nó có đèn neon sáng chói và ánh sáng rực rỡ của xe cộ.

Đặc biệt nhất, bao phủ nó chính là bầu trời đầy sao vời vợi.

Đôi khi màn đêm ở phố thị còn sáng hơn ban ngày, song nó vĩnh viễn không phải là ban ngày của mặt trời.
Tưởng Nghiêu phát hiện mọi thứ còn lâu mới kết thúc.
Người đại diện của hắn là Thi Tiểu Sơn bất ngờ tiết lộ lịch sử trò chuyện giữa hai người, xác nhận rằng điện thoại của Lý Tùng Nhất là do Tưởng Nghiêu đánh cắp.
Tưởng Nghiêu thay thế Lý Tùng Nhất trở thành trung tâm của dư luận, vừa ra khỏi cửa đã bị các phóng viên đuổi theo chặn đường.

Vì sự hoảng loạn khi Lý Tùng Nhất và Thai Hành rời khỏi làng giải trí, nên cư dân mạng đã nhanh nhảu trút giận lên người Tưởng Nghiêu.
Tưởng Nghiêu phát rồ, gọi cho Thi Tiểu Sơn: “Anh đang làm cái mẹ gì vậy hả?”
Thi Tiểu Sơn áy náy, song vẫn nói thành lời: “Chủ tịch luôn phản cảm với tình trạng đấu đá nội bộ trong công ty.

Gây rắc rối nhỏ, tranh đoạt tài nguyên trong giới hạn thì thôi.

Nhưng lần này cậu tảng lờ lời khuyên của tôi.

Thậm chí còn không nói cho tôi biết đã đâm thủng sọt, làm lớn chuyện.

Tôi chả biết cậu dựa hơi ai, có rời Bình Xuyên không.

Nhưng tôi phải tự tìm cho mình con đường mới, Tưởng Nghiêu à.”
Tưởng Nghiêu cả giận: “Tôi đã nói dẫn anh theo cơ mà! Anh vẫn là người đại diện của tôi!”
“Ôi.” Thi Tiểu Sơn thở dài.

“Nhưng tôi không muốn rời khỏi Bình Xuyên.”
Tưởng Nghiêu không hiểu: “Bình Xuyên có gì tốt chứ?”
“Tôi làm người đại diện hơn hai chục năm, cũng từng nhảy việc chừng năm công ty.” Thi Tiểu Sơn nói.

“Mai mốt rồi cậu biết, không một công ty giải trí nào có tình người hơn Bình Xuyên.

Ít nhất khi ở đây, cậu được đối xử như một con người, chứ không phải là một công cụ để kiếm tiền hay giải trí.”
Công cụ là gì? Là một thứ có thể bị loại bỏ khi nó chẳng còn giá trị.
Và rồi Tưởng Nghiêu ắt phải nhận thức sâu sắc về khái niệm này trong nay mai.
Lý Tùng Nhất mỉm cười xem sóng to gió lớn trên mạng, dầu gì cũng không liên quan đến cậu.

Tháng đầu tiên sau khi giải nghệ thật là nhàn nhã.
Nhưng cậu không có khả năng nhàn rỗi suốt ba năm.

Khi xương cốt đã mềm nhũn và thời gian gần chín muồi, cậu bèn gửi cho Thai Hành một tin nhắn WeChat: Tới chơi với cô Xuân Lan không?
Thai Hành: Đi!
Tào Xuân Lan là trưởng đoàn kịch nói nhà hát Giai Hưng.
Khi Tào Xuân Lan đóng vai bà ngoại trong “Chuỗi thức ăn” đã rất quý mến hai hậu bối Lý Tùng Nhất và Thai Hành, còn dặn họ có thể đến đoàn kịch chơi với bà bất cứ lúc nào.
Về sau Lý Tùng Nhất và Thai Hành dính líu đến việc bán hủ, bà cụ Tào Xuân Lan cũng lên Weibo ủng hộ hai người.
Nội dung Weibo khiến Lý Tùng Nhất khá xúc động: Khi nhìn thấy hai viên minh châu đang vật lộn để trồi ra khỏi vũng lầy, điều đầu tiên bạn cần làm không phải là nghi ngờ họ sử dụng thủ đoạn gì, mà là ai đã giữ chân họ trong bóng tối suốt ngần ấy thời gian.
Chỉ là Weibo của Tào Xuân Lan không phổ biến như các hot blogger bình thường, thành ra có ít người đọc được lời chân thành của bà.
Bà cụ Tào Xuân Lan cũng chẳng quan tâm có bao nhiêu người sẵn lòng nghe, bà gửi thẳng một tin nhắn cho Lý Tùng Nhất và Thai Hành: Nếu ở làng giải trí không vui thì cứ đến đoàn kịch cô chơi.
Khi hai người đến nhà hát Giai Hưng, Tào Xuân Lan đang diễn tập vở kịch mới cùng các thành viên trong đoàn.
Lý Tùng Nhất và Thai Hành không phá rối mọi người, vừa ngồi dưới sân khấu quan sát vừa sẵn tiện chờ bà.
Vở kịch mới có tên là “Như khói”, nội dung cũng nói về cái chết.
Lý Tùng Nhất thấy thú vị lắm.

Đương lúc cậu tự hỏi chết là gì, thì mọi ngõ ngách trong cuộc sống cũng đang trả lời cậu.
Toàn vở kịch chỉ vỏn vẹn một cảnh trong phòng bệnh với năm diễn viên: Một bà lão đã qua đời, bạn già của bà, con trai con dâu và cháu trai của hai người.
Tào Xuân Lan đóng vai bà lão đã chết nằm trên giường.

Vâng, nhân vật của bà đã chết ở đầu vở kịch.
Hóa ra, đây là một vở kịch theo chủ nghĩa hiện thực huyền ảo*.
[1] Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (Magical Realism): là một trào lưu nghệ thuật nổi lên ở các quốc gia Mỹ Latin sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.

Những người theo chủ nghĩa này quan niệm rằng thực tại còn có cả đời sống tâm linh, niềm tin tôn giáo, các huyền thoại và truyền thuyết.

Nổi lên là nhà văn người Colombia Gabriel García Márquez với tác phẩm nổi tiếng Trăm năm cô đơn.

Các nhà làm phim Mỹ Latin đã kết hợp chặt chẽ phương thức này vào phim ảnh, một trong những nhân vật đáng chú ý nhất là biên kịch kiêm đạo diễn Guillermo del Toro.

Và gần đây nhất Guillermo del Toro tục đào sâu vào thế giới của hiện thực huyền ảo lần nữa với bộ phim đoạt giải năm 2017 – The Shape of Water.
Mặc dù bà lão đã mất, song linh hồn của bà vẫn tồn tại trên sân khấu này.
Khi bà lão xuất hiện dưới dạng linh hồn, tức là lúc Tào Xuân Lan lên sân khấu và bốn diễn viên còn lại tạm thời rơi vào trạng thái bất động.

Khi đến lượt bốn người kia biểu diễn, Tào Xuân Lan sẽ nằm lại giường bệnh đóng vai một thi thể.
Họ không thể nhìn thấy nhau, không thể nghe thấy nhau.

Nhưng họ đang ở trong một cuộc trò chuyện mà không hề giao tiếp.

Đây là hai thế giới đối lập của người chết và người sống, ranh giới rõ ràng chẳng cách nào vượt qua.
Lời kịch đối đáp, rất mực tinh tế.
Sau khi nhân vật do Tào Xuân Lan thủ vai qua đời, điều đầu tiên bà hồi tưởng là tuổi xuân thì ngắn ngủi mà êm đềm.

Đó là quá trình gặp gỡ và yêu nhau với bạn già của bà.
Đoạn tiếp theo là linh hồn tạm nghỉ ngơi, đến lượt bạn già lên sân khấu kể lại câu chuyện tình với người đã khuất dưới góc nhìn của ông.
Hai phân đoạn với nhiều lời kịch giàu cảm xúc.

Những câu chuyện khác nhau về cùng một sự kiện trong quá khứ, đôi khi là những hiểu lầm trớ trêu dở cười dở mếu; đôi khi là hành động dịu dàng thắm thiết của hai bên; và đôi khi là những mảng xám kỳ diệu trong bản chất con người.

Họ chẳng phải lúc nào cũng yêu nhau, thậm chí còn tổn thương lẫn nhau.

Nhưng sau tất cả, họ vẫn tay trong tay đi đến phút giây cuối cùng của đời người.
Sau đó, Tào Xuân Lan hồi tưởng về khoảng thời gian nuôi dạy con trai; về ký ức tất bật chuẩn bị khi con trai cưới vợ; về mối quan hệ có vui có buồn của mẹ chồng – nàng dâu.

Đây là những sự kiện xuyên suốt của một đời phụ nữ riêng bà.

Và bà “sau khi chết” đang cố gắng tìm hiểu những nỗ lực của mình dành cho họ có xứng đáng hay không.
Để rồi con trai và con dâu cũng liên tiếp “đáp lời”.
Giữa họ có hằng hà câu chuyện vụn vặt, có vô số những bước ngoặt quan trọng trong đời.

Song khi đối mặt với cái chết, chúng nó dần mất đi sắc thái cảm xúc và chỉ còn là những thước phim đen trắng.

Nếu nhất định phải định tính chúng, vậy đại khái là sự tiếp nối và truyền thừa của sinh mệnh.
Sau cùng là phân đoạn Tào Xuân Lan kể về những lúc ở chung với cháu trai.

Đây là tuổi xế chiều của bà, cũng là phần hồn nhiên còn sót lại do bà “vay mượn” từ cậu bé.
Sinh mệnh, thực ra là một vòng tròn.
Hình thức có phần lấy cảm hứng từ tác phẩm “Công dân Kane*”, từ các nhóm dân cư khác nhau để tạo thành hình tượng của một người.
Và linh hồn tự thuật khiến hình tượng này trở nên vững chắc ở phương diện nào đó, nhưng lại lung lay sắp đổ ở một phương diện khác.
Đến cuối cùng, khán giả chợt nhận ra rằng cuộc đời của một người đôi khi phi logic, phức tạp và khó hiểu.

Người ngoài không thể lý giải, mà chính bản thân họ cũng nói không rõ.
Đúng như tiêu đề vở kịch “Như khói”, cả cuộc đời như mây mù sương khói.

Gió vừa thổi khói đã tan, chẳng còn vết tích gì cả.

Dẫu người chết hay người sống cũng không cách nào giữ lại làn khói trắng mỏng manh.
Và ta không cần thêm chút gia vị ý nghĩa nào khác vào sinh mệnh, bởi dẫu sao một khi mây khói tan biến thì chẳng mang theo được gì.
Chủ đề thật bi quan.
Nhiệm vụ của Tào Xuân Lan trong kịch rất nặng, lời thoại có hơn hai mươi ngàn chữ.
Các diễn viên khác tuy có nhiều lời thoại nhưng ít nhất vẫn tương tác và hỗ trợ lẫn nhau, chỉ có Tào Xuân Lan là phải diễn từ đầu đến cuối một mình.

Chính xác mà nói, một mình bà cần khuấy động toàn bộ sân khấu.
Điều này đã khiến Lý Tùng Nhất và Thai Hành có định nghĩa mới về kỹ năng diễn xuất trên cả tuyệt vời là như thế nào.

Tào Xuân Lan vừa cất tiếng đã vào vai, toàn bộ mạch cảm xúc của diễn viên trên sân khấu và khán giả bên dưới đều vô thức đi theo bà, không chút sơ sẩy.
So với câu chuyện, Lý Tùng Nhất cảm thấy cách diễn dịch của Tào Xuân Lan càng khiến cậu mở rộng tầm mắt.
Khi Tào Xuân Lan kết thúc buổi tập, Lý Tùng Nhất và Thai Hành bèn bước tới.

Hai người trông thấy từng giọt mồ hôi chảy xuôi bên thái dương của bà, diễn kịch cũng là một công việc đòi hỏi thể lực ư?
Tào Xuân Lan trước tiên uống hớp nước làm ẩm cổ họng, sau đó hỏi: “Ngủ chán chê rồi ha?”
Lý Tùng Nhất và Thai Hành nở nụ cười ngượng ngùng.
“Chán rồi thì chơi với cô.

Diễn kịch còn mệt hơn làm thần tượng, chuẩn bị tinh thần đi.” Tào Xuân Lan cười bảo.

“Trong vở kịch hồi nãy, cháu trai cô còn một vai B.

Lát nữa A Hành cầm kịch bản của cô, luyện thử bên vai B ha.”
Vai B còn gọi là vai thay thế.

Thông thường kịch nói thường chia thành A-B: vai A là đội hình một, còn vai B là đội hình hai.

Nếu A bệnh hoạn ốm đau hoặc không thể biểu diễn vì nguyên nhân khác thì B lên thay thế.

Trong một vài dịp lớn, thường là A lên sân khấu; ở những nơi có quy mô nhỏ về cơ bản là giao hẳn cho B.
Lý Tùng Nhất và Thai Hành đều là “ma mới” của kịch nói, chưa quen với hình thức biểu diễn trọng lời thoại.

Nếu Tào Xuân Lan kéo họ vào vai A, ngược lại còn dục tốc bất đạt.

Chi bằng để hai người tôi luyện ở đội hình hai.
Tào Xuân Lan sực nhớ ra gì đó, bèn cảm khái: “Trước thì Tùng Nhất đóng cháu trai cô, giờ thì tới phiên con.

Duyên phận thật đấy.”
Lý Tùng Nhất cười: “Bà ơi, còn con?”
Tào Xuân Lan giả vờ xụ mặt: “Hồi đó hay gọi cô là chị Xuân Lan mà, sao giờ đổi rồi?”
Lý Tùng Nhất nghe lời thưa: “Chị Xuân Lan, em làm gì đây?”
“Sắp xếp cho hai đứa hết rồi.” Tào Xuân Lan lấy một xấp giấy A4 dày cộp từ trong túi xách, nhét vào lòng Lý Tùng Nhất.

“Mạch cảm xúc của “Như khói” thiên về tinh tế, nội tâm.

Cô thấy con diễn rất khá bên mảng này, bây giờ cái con cần là giải phóng cảm xúc và thoại lời theo cách trực tiếp nhất.

Đoàn kịch chuẩn bị ra mắt “Cách mạng Tân Hợi*”, con đóng vị tướng cách mạng trẻ tuổi đi.”
Lý Tùng Nhất cúi nhìn những trang giấy, không phải kịch bản mà là những bức thư.

Tất cả đều là ghi chép tay của các nhân vật có thật trong lịch sử.
Tấm gương vĩ đại của ông Trung Sơn*: Trước đây tôi có gửi một lá thư, không biết đã nhận được chưa? Tình hình đất nước hiện nay đang lung lay.

Chính quyền chia rẽ.

Dân chúng hoang mang.

Đồng chí chiến sĩ bấp bênh không biết đi đâu về đâu.

Tương lai của đất nước đang…
Lý Tùng Nhất đọc một lúc, đoạn nhìn Tào Xuân Lan với ánh mắt bối rối.
Tào Xuân Lan giải thích: “Hơn một trăm lá thư tay của những người có lý tưởng cách mạng cao cả thời bấy giờ.

Cảm xúc dạt dào, còn chân thực hơn nhiều so với kịch bản.

Mỗi ngày con đọc đi đọc lại nó nhiều lần, luyện cách giải phóng cảm xúc một cách trọn vẹn nhé.”
Lý Tùng Nhất bất ngờ: “Hồi trước cũng có người nói con thoại lời chưa “đã”, dặn con tập mấy câu thoại dõng dạc hùng hồn.”
Tào Xuân Lan khen: “Ai thế? Từng diễn với con à? Nếu chưa từng phối diễn với con mà vẫn có thể nhìn ra chút thiếu sót đó, người kia siêu lắm đấy.”
Lý Tùng Nhất cười khẽ: “Vâng, siêu lắm ạ.”
Kế hoạch của Lý Tùng Nhất và Thai Hành là theo Tào Xuân Lan diễn kịch nói trong ba năm giải nghệ, đồng thời trau dồi kỹ năng diễn xuất ngày càng tinh vi hơn.

Suy cho cùng sau khi trở thành ngôi sao, tranh chấp về quyền lợi và các hợp đồng quảng cáo là điều không thể tránh khỏi.

Họ chẳng đào đâu ra cơ hội để mặc kệ mọi thứ, cống hiến hết mình cho sự nghiệp diễn xuất như hôm nay.
Lý Tùng Nhất nghĩ, giải nghệ và hoàn toàn từ giã thế giới bên ngoài trong ba năm chẳng có gì gọi là tổn thất.
Lý Tùng Nhất bắt đầu một cuộc sống giản dị: Thoại những câu văn đầy tính hào hùng, biểu diễn những màn kịch sống động, hoạt động tay chân trên sân khấu rạp hát.

Mỗi khi kết thúc một phân cảnh, cổ họng cậu như bốc khói, còn toàn thân thì mồ hôi mồ kê nhễ nhại.
Không cần suy nghĩ về vấn đề sinh tử, không phải lo lắng về tâm lý tình cảm, chỉ cần có dũng khí tiến về phía trước.

Tựa như một thanh củi, đốt cháy chính mình vì nghệ thuật sân khấu.
Cảm giác này, quả tình thống khoái.
Lý Tùng Nhất gần như đã quên mất thị phi trong làng giải trí, mãi đến khi Trần Đại Xuyên bất ngờ liên lạc với cậu vào một ngày đẹp trời.
“Tôi có thay đổi một phần kịch bản trong “Con tin”.

Cậu muốn xem thử không? Nếu có ý kiến gì khác thì cứ chỉ tôi.”
“Vâng.”
*
Tác giả có điều muốn nói:
Vở kịch “Như khói” được lấy cảm hứng từ bài hát “Như khói” của Mayday.
Hết chương 42
Chú thích.
[2] Công dân Kane (tiếng Anh: Citizen Kane) là một bộ phim Mỹ của đạo diễn Orson Welles công chiếu năm 1941.

Nội dung sơ lược: Bộ phim kể về cuộc đời của nhân vật giả tưởng Charles Foster Kane, ông trùm báo chí của Hoa Kỳ và là một trong những người giàu nhất thế giới.

Được sinh ra trong một gia đình nghèo khó, cuộc đời Kane thay đổi khi người ta phát hiện được một mỏ vàng lớn trong phần đất do mẹ của Kane thừa kế.

Để đảm bảo cho con trai có một tương lai vững chắc, mẹ của Kane bắt cậu rời gia đình để tới sống với người bảo hộ là Walter Parks Thatcher, một người kinh doanh ngân hàng.

Khi tới tuổi trưởng thành, Kane dùng số tiền thừa kế khổng lồ để xây dựng nên một đế chế báo chí hùng mạnh với sự giúp đỡ của hai người cộng sự là ông Bernstein và Leland.

Tuy thành công trong sự nghiệp nhưng Kane lại thất bại trong cuộc sống gia đình khi ông phải ly dị vợ hai lần và cuối cùng sống tuổi già trong tư dinh Xanadu mà không có người thân thích chăm sóc.

Charles Foster Kane qua đời trong cảnh cô đơn tại Xanadu, từ cuối cùng ông thốt lên trước khi chết là “Rosebud”.

[3] Cách mạng Tân Hợi: còn được gọi là Cách mạng Trung Quốc hay Cách mạng năm 1911 là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Trung Quốc do những người trí thức cấp tiến ở trong giai cấp tư sản và tiểu tư sản Trung Quốc lãnh đạo với tuyệt đại đa số là người Hán nhằm lật đổ triều đại Mãn Thanh.
[4] Tôn Trung Sơn: là một trí thức có tư tưởng cách mạng theo khuynh hướng dân chủ tư sản.

Ông cũng là người tập hợp giai cấp tư sản Trung Quốc thành lập Trung Quốc Đồng minh hội – chính Đảng của giai cấp tư sản Trung Quốc (Cách mạng Tân Hợi)..


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.
Tháng Ngày Giành Ảnh Đế Với Thái Tử

Chương 43



Trần Đại Xuyên hẹn Lý Tùng Nhất ra ngoài gặp mặt.

Điểm hẹn là một quán cà phê cao cấp mang tính chất riêng tư, phải có thẻ VIP mới được phép vào cửa.

Trần Đại Xuyên đang chờ cậu ở phòng riêng.

Lý Tùng Nhất vừa theo nhân viên phục vụ vào phòng đã trông thấy Trần Đại Xuyên đang ngồi bên cửa sổ nhấm nháp tách cà phê, anh hướng ánh nhìn xuống quang cảnh đường phố bên ngoài khung cửa.

Ánh nắng trong vắt lặng lẽ bao trùm lấy anh, phác họa đường nét mông lung mà dịu dàng.

Khi Trần Đại Xuyên quay đầu nhìn về phía này, vẻ mặt ôn hòa của anh lại càng rõ ràng hơn.

Lý Tùng Nhất ngồi xuống đối diện anh, nhìn thoáng qua kịch bản “Con tin” trên bàn.

Lý Tùng Nhất có phần thổn thức, hơn một năm trước cậu dùng kịch bản này đổi lấy vai nam chính. Lúc đó cậu chưa bao giờ nghĩ rằng, chỉ trong một năm ngắn ngủi lại trải qua nhiều thăng trầm đến thế.

Cuộc đời còn táo bạo hơn phim ảnh nữa.

“Xem thử đi.” Trần Đại Xuyên bảo nhân viên phục vụ ra ngoài pha tách cà phê cho Lý Tùng Nhất, đoạn nói. “Tôi đã đánh dấu những phần sửa đổi. Ít lắm, xem vài phút là xong.”

Thói quen này lại khá giống với Lý Tùng Nhất.

Lý Tùng Nhất mở kịch bản, những thay đổi về cơ bản đều liên quan đến cốt truyện của Thái tử Tuyên Từ. Trần Đại Xuyên đã thêm đất diễn cho Thái tử và sửa đổi một ít những gì hắn đã làm, ngoài ra còn thay hắn bày tỏ lòng thưởng thức trước tài hoa của Lý Tùng. Tỷ dụ như trong cảnh cuối khi Thái tử ban rượu, thực ra là đầy tớ trung thành kiêm nhất phẩm đới đao thị vệ Cao Chương tự tiện hạ độc y.

Lý Tùng Nhất khẽ gật đầu. Dẫu sao nếu Trần Đại Xuyên muốn trở thành khách mời trong vai Thái tử, thiết lập tính cách hẳn là không nên quá tiêu cực.

“Được rồi. Tôi không có ý kiến, hay lắm.” Lý Tùng Nhất nói. Thậm chí cậu còn cảm thấy cốt truyện sau thay đổi phù hợp với quy luật nhân quả hơn, hệt như Thái tử đã thực sự từng làm những việc đó.

Xét cho cùng Lý Tùng Nhất chỉ viết dưới góc độ nhìn nhận của bản thân, không hề biết thế giới vận hành như thế nào theo góc nhìn của Thái tử, có khả năng một số tình tiết thoáng mơ hồ. Vì thế kịch bản chỉ thể hiện hành vi và kết quả, không có nhiều phân tích tâm lý và động cơ hành vi.

“Thật không?” Trần Đại Xuyên xác nhận lại.

Lý Tùng Nhất gật đầu thật mạnh.

Nhân viên phục vụ bưng cà phê lên. Lý Tùng Nhất nhấp một ngụm, hương vị ngọt đắng vừa phải.

Trần Đại Xuyên nói: “Vậy chọn bản này nhé.”

Lý Tùng Nhất gật đầu, đoạn tò mò: “Anh chuẩn bị quay à?”

“Chưa gấp.” Một nét do dự hiếm thấy thoảng qua đôi mắt Trần Đại Xuyên. Anh gõ ngón trỏ xuống kịch bản, chẳng biết đang trầm ngâm điều gì.

Lý Tùng Nhất quan sát vẻ mặt anh, ướm hỏi: “Anh vẫn chưa hài lòng với kịch bản?”

“Cũng không hẳn.” Trần Đại Xuyên khẽ nhíu mày. Anh nghĩ đến tờ giấy nhăn nhúm mà mình trông thấy ở căn gác gỗ sau khi Lý Tùng chết. Dòng chữ trên tờ giấy rõ là di ngôn lúc lâm chung của Lý Tùng, song lại bị y vò nát rồi vứt đi.

Trần Đại Xuyên không chắc liệu Lý Tùng có muốn lưu lại những lời đó không, và vì thế anh vẫn chưa quyết định có nên thêm dòng tuyệt mệnh của Lý Tùng vào cuối kịch bản. Dẫu sao đó là thứ duy nhất Lý Tùng để lại cho đời, và Trần Đại Xuyên anh đây là người duy nhất từng nhìn thấy nó.

Nếu có thể, anh chẳng muốn để nó biến mất không dấu vết.

Dẫu đã nhiều năm trôi qua, Trần Đại Xuyên không nhớ rõ trên giấy viết gì. Có chăng là vài câu than thở vụn vặt, song ấn tượng sâu sắc nhất vẫn là lời trách móc kia —— “Không có lỗi với người đời, nhưng có hận với trời cao.”

Trần Đại Xuyên nghĩ đến việc hỏi ý kiến Lý Tùng Nhất. Đôi khi với thân phận là tác giả của “Con tin”, Lý Tùng Nhất có cách hiểu khác về Lý Tùng và có thể cho anh một vài ý tưởng.

“Theo cậu, Lý Tùng có nên lưu lại vài lời mang tính nghi thức trong cảnh cuối không? Lý Tùng sống một đời vẻ vang, nhưng khi chết lại âm thầm lặng lẽ. Tôi luôn thấy tiếc nuối cho người.”

Lý Tùng Nhất ngỡ ngàng, những lời nói tưởng chừng như vô tình kia đã chạm vào ký ức sâu thẳm trong linh hồn cậu.

Cậu từng hạ bút mạnh tay đến nỗi thấm ướt trang giấy, rồi vò nát chúng với trái tim nguội lạnh như tro tàn. Cậu từng bất lực với chính cái chết của mình.

Khi viết kịch bản, Lý Tùng Nhất không thêm đoạn đó bởi lẽ nỗi bất lực do tự sa ngã vẫn còn đeo đẵng lấy cậu. Tuy nhiên giờ đây, tâm lý cậu đã phần nào thay đổi. Vì Trần Đại Xuyên đã nói hai chữ, “nghi thức”.

Cậu bỗng nhớ về tang lễ đã thấy trong buổi thử vai cho “Sơn Hải Kinh”, và cũng nhớ về vở kịch “Như khói” mới đây. Chúng là nghi thức rực rỡ dành riêng cho sự ra đi mãi mãi. Bởi cái chết thực sự quá nhẹ nhàng. Nếu ta không gán nó với nghi thức nặng nề hay long trọng đánh dấu cho sự chấm hết, nó sẽ luôn là làn khói lạt lạt phai phai, trống rỗng và lạnh lẽo vô cớ.

Lý Tùng Nhất phải làm một “nghi thức tử vong” cho Lý Tùng.

“Nên.” Lý Tùng Nhất chỉ thốt một chữ, nhưng tuồng như nó đã tước bằng hết sức lực trong cậu.

Trùng hợp thay, trên bàn có cây bút máy nhập khẩu và vài tờ giấy con con.

Lý Tùng Nhất lấy bút, bắt đầu viết vào chỗ trống dưới cảnh cuối kịch bản: Ta sinh trong dòng dõi hoàng tộc, nhưng mang trong mình mệnh hạ tiện. Ta cười nhạo hai mươi năm kiếp sống bèo dạt mây trôi. Không có lỗi với người đời, nhưng có hận với trời cao!

Vài chục từ ít ỏi là thế… Ấy vậy khi Lý Tùng Nhất đặt bút xuống, lòng bàn tay cậu đã rịn mồ hôi.

Cậu đẩy kịch bản lại cho Trần Đại Xuyên, đoạn thở ra một cách nặng nhọc.

Trần Đại Xuyên nhìn lướt qua, trong thâm tâm vẫn đang nghĩ nên làm thế nào chèn vào dòng tuyệt mệnh mà mình hằng nhớ.

Chợt, Trần Đại Xuyên tròn mắt. Chưa bao giờ biểu cảm của anh trông khoa trương thế này, song anh hoàn toàn không thể kiểm soát sự ngạc nhiên của mình vào phút giây đó. Cũng may Lý Tùng Nhất đang chìm đắm trong dòng cảm xúc trĩu nặng, nên chẳng nhận ra sự bất thường của người trước mắt.

Trần Đại Xuyên nhắm tịt mắt, hít sâu từng hơi. Anh cố gắng điều chỉnh nhịp tim nhanh quá đỗi của mình.

Bẵng đi một lúc, Trần Đại Xuyên mở mắt ra. Anh dùng hết sự bình tĩnh mình có mà giọng điệu vẫn run rẩy: “Cậu tự viết cái này?”

Lý Tùng Nhất gật đầu, dáng vẻ chẳng mấy cao hứng.

“Chính chủ?”

Dòng suy nghĩ bị gián đoạn, Lý Tùng Nhất mất vui hẳn: “Đương nhiên là chính chủ. Chả nhẽ tôi đạo văn?”

Trần Đại Xuyên dựa vào lưng ghế, nhìn chằm chằm Lý Tùng Nhất bằng ánh mắt phức tạp. Biết bao cảm xúc trào dâng trong lòng, nom như bầu trời dày đặc mây tích trước giông bão.

“Anh sao vậy?” Trần Đại Xuyên nhìn đến nỗi Lý Tùng Nhất nổi da gà rần rần. Bỗng, cậu nảy ra một suy đoán kinh hãi —— Chẳng lẽ dòng chữ cậu viết đã lưu truyền đến ngày nay? Và Trần Đại Xuyên từng xem tư liệu lịch sử nào đó, rồi bây giờ cậu còn khoe khoang là chính chủ tự viết trước mặt anh?

Toang rồi, nhân phẩm xem như đồ bỏ.

Lý Tùng Nhất đưa mắt nhìn đi chỗ khác, trong lòng hãy còn ngờ ngợ. Rõ ràng cậu đã tra rất nhiều thông tin về Nam Tuyên, lý nào không biết lời mình nói đã lưu truyền tới hiện nay? Chẳng lẽ Trần Đại Xuyên có quyền có tiền, kho tàng lịch sử còn toàn diện hơn cậu?

Xã hội tư bản bất công vô đối, xin phép đả đảo xã hội tư bản!

“Ờm…” Lý Tùng Nhất càng nghĩ càng tá hỏa, bèn thử tìm cách cốt đánh trống lảng.

Trần Đại Xuyên đột nhiên đứng phắt dậy, nói: “Tôi có việc, đi trước.”

Đoạn anh cất kịch bản vào túi, rời đi không thèm ngoảnh lại. Phải nói rằng bước chân anh vội vã như thể chạy giặc.

Lý Tùng Nhất nhìn trân trối, Trần Đại Xuyên ghét đạo văn đến vậy ư?

Cậu nhanh chóng lấy điện thoại ra, kiểm tra mấy câu vừa rồi có phải đã bị sử gia đào lên không.

Nhưng, kết quả tìm kiếm trống không mà…

Cậu chẳng hay rằng, lúc này Trần Đại Xuyên cũng đang cầm điện thoại tra cứu Baidu.

Không có, hiện tại không có báo cáo lịch sử nào về dòng tuyệt mệnh của Lý Tùng mà anh từng thấy.

Trần Đại Xuyên mím môi, đôi tay siết chặt vô lăng. Nhưng anh không đủ sức nổ máy.

Một suy đoán đang khuếch trương điên cuồng trong lòng anh, tựa như ngọn lửa đang thiêu rụi thảo nguyên ngày thu. Trong tích tắc nó đã bùng cháy dữ dội, bầu trời dần ngập trong cơn nóng gay gắt.

Nếu anh có thể tồn tại trong thời không này, vậy… Lý Tùng cũng có thể.

Nửa giờ sau, Trần Đại Xuyên lấy lại bình tĩnh trong bãi đỗ xe u ám dưới lòng đất. Anh vội vàng nổ máy, lái đến một trường đại học nổi tiếng trong thành phố rồi đi thẳng đến tòa nhà khoa Sử học.

Nơi đây có một vị giáo sư lớn tuổi, là chuyên gia lịch sử nghiên cứu về thời Nam Tuyên. Đối với sự hiểu biết về Nam Tuyên, mặc dù Trần Đại Xuyên từng sống ở kỷ nguyên đó nhưng quả thật giáo sư mới là người tường tận mọi chuyện lớn nhỏ.

Trần Đại Xuyên có mối quan hệ thâm giao với giáo sư, bởi cả hai đều rất quan tâm đến thời đại này. Anh thường nghe những câu chuyện quá khứ xa xôi qua lời kể của ông, và ông đã truyền cho anh biết bao cảm xúc mới lạ về một Nam Tuyên rất khác.

Vị giáo sư lớn tuổi vừa trở về sau khi đứng lớp dành cho nghiên cứu sinh. Ông nhìn thấy Trần Đại Xuyên, bèn nở nụ cười hiền lành: “Đã lâu không gặp, dạo này cậu bận lắm à?”

Vẻ mặt Trần Đại Xuyên như thể gặp phải điều gì khó nhằn. Anh không nói lời khách sáo, mà đi thẳng vào lý do hôm nay thình lình ghé thăm: “Giáo sư, tôi muốn cho anh xem cái này. Có tư liệu nào ghi lại lời nói của Lý Tùng không ạ?”

Trần Đại Xuyên mở kịch bản ra, chỉ vào dòng chữ mà Lý Tùng Nhất vừa viết.

“Chữ đẹp. Trong cương có nhu, như rồng bay lượn.” Giáo sư tặng lời khen chân thành. Đoạn ông lắc đầu. “Không có.”

Trần Đại Xuyên hỏi lại lần nữa: “Không có thật ạ?”

Giáo sư cười: “Lý Tùng chỉ có hơn hai mươi năm trong lịch sử Nam Tuyên, suốt đời làm mưu sĩ. Cảm giác tồn tại của Lý Tùng rất thấp, không có nhiều tài liệu ghi chép đâu. Nếu Lý Tùng để lại mấy dòng này, nhất định phải nhắc đi nhắc lại lắm lần.”

Trần Đại Xuyên nín thở, mọi thứ tuồng như trở nên rõ ràng hơn. Anh đang từng bước tiếp cận phỏng đoán của mình, cõi lòng bỗng dấy lên cảm giác hồi hộp khó tả.

Giáo sư nhìn lướt qua kịch bản, thắc mắc: “Đây là kịch bản mới cậu muốn quay hả? Nội dung viết hay lắm, rất gần với lịch sử. Cậu xem nè, đoạn này đề cập đến hoa văn Bàn Li*. Hoa văn Bàn Li có nhiều hình thù khác nhau qua mỗi triều đại. Trong kịch bản viết Bàn Li có bốn chân, đôi mắt mảnh mai – đây vốn là hoa văn xuất hiện một trăm năm sau Nam Tuyên. Nhưng nửa năm trước, đội khảo cổ đã khai quật mộ địa của kỷ nguyên đó. Thành ra hoa văn Bàn Li này mới xem như xuất hiện trong thời đại ấy. Đây chả phải là tin gì lớn, ngay cả giới lịch sử – khảo cổ cũng không biết. Đội biên kịch của cậu làm ăn có tâm thật, chi tiết nhỏ như hạt gạo mà cũng không bỏ qua. Còn có…”

[1] Hoa văn Bàn Li (蟠螭纹): Hoa văn rồng cuộn (đầu và đuôi uốn cong), “Li” là con rồng không sừng trong truyền thuyết, thường dùng để trang trí công trình kiến trúc.

Lý Tùng Nhất viết kịch bản này vào một năm trước.

Tựa như tiếng chuông ban mai trên đỉnh núi, người ngủ say choàng tỉnh giấc sau giấc mộng dài đằng đẵng. Và rồi, ánh sáng vàng rực vọt ra khỏi núi non trùng điệp.

Trần Đại Xuyên ấn tay lên ngực trái. Nơi đó đang phập phồng kịch liệt, nhịp tim nhanh đến mức tưởng như muốn xé toạc lồng ngực.

“Nhìn cậu không ổn lắm.” Giáo sư đang khen kịch bản hết sức chi tiết, đột nhiên trông thấy Trần Đại Xuyên đứng im thin thít, hai mắt hãy còn hoen đỏ. Ông không khỏi lo lắng. “Cậu gặp chuyện gì sao? Công việc gặp khó khăn à?”

Trần Đại Xuyên chậm rãi lắc đầu: “Tôi chỉ… vui thôi.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.