Quân và Trương đầu xù trở về tiểu đội, đem mọi chuyện kể lại cho mọi người nghe.
“Ngươi thật sự có cách sao?” Trương Cảnh Trọng hỏi hắn.
“Không nói thế liệu chúng ta được yên thân chắc! Ít nhất là giờ có thêm nhân lực, hy vọng sẽ tìm được thuốc giải. Bây giờ ngươi cùng Hoàng Mẫn đi đến các tiểu đội quân y tập trung mọi người lại. Ta cần làm chút việc sau đó sẽ tới. Trong lúc đó, các ngươi theo như những gì ta nói hôm trước, hướng dẫn cho họ cách chăm sóc và theo dõi biến chứng cho người nhiễm bệnh, đồng thời dạy cách làm màn, lập khu cách ly…”
Gần một giờ sau, hắn đến chỗ tụ họp, mang theo một chồng giấy chi chít chữ cùng một bọc lá thuốc. Hắn liếc mắt, sơ sơ cũng trăm người đang cãi nhau inh ỏi.
“Đến rồi, đến rồi! Ngươi đến chậm chút nữa là mọi người bỏ về hết. Cơ bản là không ai chịu nghe ai!” Trương đầu xù thấy Quân thì mừng rỡ.
“Giờ nào rồi còn cãi nhau!” Hắn bực tức, đoạn quay xuống nhìn đám người lớn tiếng.
“Các vị, sống chết ở trước mặt, mà còn định đánh nhau nữa sao? Nếu ai không muốn nói chuyện thì xin mời ra khỏi đây.”
“Ngươi là ai mà dám to tiếng? Nói cho ngươi biết, ta ở đây cũng xếp vào hàng lão đại, dựa vào gì mà lại phải nghe lời ngươi!” Một tên trung niên vênh váo đáp.
Quân không lạ gì ông ta, kẻ duy nhất trong đám quân y có tu vi võ giả thất đẳng, một chút nữa là có thể kết đan Hoàng giai. Nhưng tính tình tư lợi lại ham sống sợ chết nên không được trọng dụng, bị đẩy xuống làm y sư. Vì thế sinh lòng đố kỵ, thường xuyên chèn ép kẻ khác.
Quân khinh thường nói:
“Ta biết ông là ai, tất cả mọi người cũng đều biết ông như thế nào. Ta cho ông mấy lựa chọn, hoặc là đánh nhau với ta, nếu thắng ông muốn làm gì cũng được. Hoặc là lập tức rời khỏi chỗ này. Nhưng ta nói trước, Thống lĩnh đã cho ta toàn quyền dùng người, ai không tuân xử theo quân pháp!”
Nghe đến quân pháp, y bỗng cứng họng, nhưng vẫn cố vớt vát:
“Thống lĩnh không hiểu y thuật, nên giao quyền cho ngươi! Nhưng chúng ta lấy gì để tin ngươi. Nếu thất bại mình ngươi chết là được rồi, còn kéo chúng ta theo làm gì!”
Phía dưới lại dâng lên một cơn xì xào. Hắn còn chưa kịp trả lời thì đã nghe thấy một giọng nói ôn tồn:
“Ta tin cậu ấy!”
Một ông lão mập mạp, khuôn mặt hồng hào phúc hậu rẽ đám đông tiến lên phía trước.
“Là ông!” Không ngờ lão y sư già ngày trước trong phủ thành chủ cũng ở đây, vậy mà mấy năm rồi không hề hay biết. Lão cười với hắn rồi quay xuống.
“Các vị, ta là y sư của đại đoàn năm, có thể các vị chưa từng gặp nhưng bài thuốc Khu phong của ta hẳn các vị đều từng nghe nói đến. Khi đi qua thành Thanh Sơn, những ghi chép về chấn thương do binh khí mà các vị lấy được chính là do cậu ấy viết.” Lão chỉ tay về phía Quân, rồi nói tiếp:
“A Thiết là kỳ tài về y thuật. Ta đã được cậu ấy giảng giải về những căn bệnh kỳ lạ chưa từng thấy trong y thư, cũng chính mắt ta đã nhìn thấy cậu ấy mổ bụng cứu người, việc trước nay cổ kim chưa từng có. Vì vậy ta tin tưởng cậu ấy có thể chữa trị được cho mọi người!”
Tiếng xì xào lại vang lên rồi dần dần hạ xuống. Quân liếc mắt qua gã trung niên rồi nói lớn:
“Còn ai có ý kiến gì không?”
Không khí đã yên ắng trở lại, hắn nói tiếp:
“Tất cả mọi người đều đã biết cần làm gì rồi, ta không nhắc lại nữa. Thời gian gấp rút, bây giờ chúng ta chia làm hai nhóm. Một nhóm theo ta vào rừng tìm cây thuốc. Một nhóm ở lại lập khu cách ly chăm sóc người nhiễm bệnh. Trương Cảnh Trọng sẽ phụ trách nhóm ở lại. Các ngươi có nửa giờ để tự chọn nhóm. Ai theo ta thì ra ngoài, ai ở lại thì đến chỗ Cảnh Trọng. Đây là loại thuốc xua muỗi ta mới cải tiến, cách bào chế và cách dùng đều ghi lại ở đây. Cảnh Trọng cầm lấy chia cho mọi người.” Hắn ném gói thuốc và một tập giấy cho Trương đầu xù, sau đó bước ra ngoài lều.
Chỉ trong buổi sáng, cả một vùng rừng toả ra mùi hương thoang thoảng, lúc đầu hít vào hơi khó chịu một chút nhưng sau đó lại thấy bình thường, có phần thư thái. Quân dẫn mọi người vào rừng, chia thành từng nhóm nhỏ bốn người, tổng cộng ba mươi nhóm tìm kiếm vận may.
…
Ở thế giới của hắn, có một nhóm thuốc điều trị sốt rét hiệu quả, gọi chung là Quinine. Nhưng ở đây đào đâu ra? Bất quá, có một loại cây được gọi là Canh ki na, trong vỏ cây có chứa chất này. Chỉ có điều sang thế giới mới, hắn không chắc có giống cây này hay không. Vì vậy, hắn đã ghi ra những đặc điểm chung của cây canh ki na, chia cho các nhóm đi tìm. Khi thấy cây nào tương tự thì đánh dấu lại, đồng thời cạo vỏ, hái một cành mang về.
Cả bọn đi đến khuya mà vẫn chưa tìm được gì, đành quay trở lại khu cách ly.
Hắn gọi Cảnh Trọng lại hỏi thăm thì biết được đã có mười bảy người chết rồi, số lượng người nhiễm bệnh đã tăng lên gần một ngàn hai trăm người. Phía bên Chu Hồng cũng chưa thấy động tĩnh gì.
Ngày thứ hai, khi mặt trời còn đang ngái ngủ nấp sau những rặng núi đen đằng xa, thì cả đội lại lên đường. Lần này hắn điều động được tới gần ngàn người, còn mang theo cả lương thực đồ dùng, định bụng sẽ ở lại qua đêm trong rừng nếu chưa tìm được.
…
Tại Trái đất, cây canh ki na có nguồn gốc chủ yếu từ vùng Nam Mỹ, được du nhập vào Đông Dương khoảng những năm cuối thế kỷ 19. Tại Việt Nam, mãi đến đầu thế kỷ 20, bác sĩ Yersin mới trồng thành công giống cây này tại vùng cao nguyên Trung bộ. Cây canh ki na hợp độ cao trên năm trăm mét, đặc biệt là trên một ngàn mét, ưa đất đỏ bazal giàu mùn, thích mưa nhiều. Vì thế những vùng cao nguyên như cao nguyên Langbiang ở Lâm Đồng chẳng hạn, là nơi được trồng nhiều ở Việt Nam.
Canh ki na là giống cây thân gỗ, cao trung bình năm đến mười lăm mét thậm chí hai, ba mươi mét, lá xanh quanh năm.
Là của chúng mọc đối xứng, hình trứng hoặc hình mũi giáo, dài từ mười đến bốn mươi phân, có gân lá hình lông chim.
Hoa của canh ki na mọc thành chùm, màu trắng, hồng, vàng tuỳ từng loài, thường có mùi thơm nhẹ. Mỗi hoa có năm lá đài, năm cánh hoa có lông dính với nhau. Hoa có ống tràng dài, loe ra ở miệng như hoa loa kèn nhưng phần ống thì thuôn nhỏ hơn nhiều.
Quả là dạng quả nang nhỏ, thuôn dài có nhiều hạt bé, dẹt, có cánh.
Phần được dùng nhiều là vỏ cây, chứa hợp chất quý giá quinine. Cây trên ba năm có thể lấy vỏ làm thuốc, nhưng tốt nhất là để trên bảy năm.
Thổ dân Nam Mỹ đã dùng cây này để chữa sốt rét từ xa xưa, nhưng đến thế kỷ mười sáu, mười bảy mới được người châu Âu sử dụng. Cho đến nay, nó vẫn là nguồn dược liệu quý giá để sản xuất các loại thuốc chống sốt rét trên toàn cầu.
Ở Việt Nam, có một loại cây khác, dân gian gọi là cây ký ninh cũng được dùng để chữa sốt rét. Nhưng bản thân nó không hề chứa chất Quinine. Có lẽ là do cách phát âm gần giống: ký ninh – quinine.
…
Ngày thứ ba lại bắt đầu. Quân và Hoàng Mẫn vẫn miệt mài tìm cây thuốc. Tin từ Cảnh Trọng đưa tới, đã có thêm bảy mươi người chết, số ca nhiễm đã tăng đến một ngàn rưỡi. Hắn nghe tin mà như ngồi trên đống lửa. Hắn không sợ bị bỏ lại, mà sợ cảm giác bất lực nhìn thấy người chết ngay trước mặt mình.
“A Thiết à! Chúng ta đi ba ngày rồi, ngươi có chắc vùng này sẽ có không?”
“Sẽ có, nhất định phải có. Quy luật thiên địa vốn rất công bằng, nơi có độc ắt có thuốc giải độc.”
Một cơn mưa bất chợt đổ xuống ngáng đường bọn họ. Vùng nhiệt đới mùa mưa thời tiết thường ngẫu hứng như vậy. Chẳng thèm báo trước, có lẽ ông trời rảnh rỗi quá, dội mấy gáo nước xuống cho đỡ nhàm chán. Hắn trú tạm trong một hang động nhỏ, tranh thủ lấy ít lương khô ra ăn. Mưa mờ mịt trắng rừng, bốc lên mùi ẩm ướt nồng nặc làm hắn nhớ lại những cơn mưa rào đầu hạ. Cơn mưa tuổi thơ vụt đến, vụt đi phả vào không khí từng luồng hơi nước nóng bỏng, ngột ngạt. Mưa trắng xoá, ào ào bọt nước, gột rửa sạch sẽ hàng tấn lá đầy bụi bặm, đồng thời cũng rửa trôi bầu trời, để lại khoảng không trong xanh vô tận.
Mưa tạnh, đất rừng càng nhem nhuốc bùn lầy, những dòng nước đọng lại hình thành một con suối nhỏ tí tách giữa rừng. Bốn người bọn hắn ngược theo dòng mà đi lên thượng nguồn.
“Có tin tức gì của các nhóm kia không?” Quân hỏi.
“Vẫn chưa. Chỉ còn một ngày nữa. Ngươi nói chúng ta có tìm được không?” Hoàng Mẫn hỏi.
“Ngươi cái đồ ngốc này. Dù tìm được hay không thì đến ngày thứ năm chúng ta đều sẽ bị bỏ lại. Ngươi nghĩ Chu Hồng sẽ để mấy ngàn người nhiễm bệnh làm cản chân hắn chắc!”
“Vậy chúng ta phải làm sao? Hay là bỏ trốn? Nhưng bọn họ ở nhà phải làm sao? Nếu đằng nào cũng bị bỏ lại thì cần gì phải vội vàng, cứ từ từ mà tìm kiếm?” Hoàng Mẫn lo lắng hỏi.
“Chậm một khắc là có thêm một người chết. Chậm một ngày có khi mấy trăm người sẽ vì chúng ta mà mất mạng? Ngươi có nhẫn tâm được không?”
“Ta…” – Hắn thở dài – “Tất cả nghe ngươi vậy, muốn làm người xấu cũng không được!”
“Chúng ta qua bên kia.” Quân nói.
Khoảng rừng này cây cối um tùm, nhiều loại thân gỗ lớn che khuất ánh mặt trời.
“A Thiết! Đằng kia!” Hoàng Mẫn hét lên.
Quân vội chạy lại nhìn theo hướng tay chỉ. Một thân cây cao tầm mười mét, trông xa có năm phần giống mới mô tả, đứng lẻ loi giữa khoảng đất trống.
Quân vui mừng vận bích hổ du tường chớp nhoáng đã leo lên trên cành xem xét thật kỹ. Hắn có niềm tin đến chín phần đây chính là cây canh ki na ở thế giới này.
“Các ngươi ở lại cạo hết phần vỏ mang về. Ta sang phía bên kia tìm tiếp, chắc chắn không chỉ có một cây!”
Khu vực này tương đối rộng, nhưng lại không nhiều cây như cánh rừng bên kia, thi thoảng còn những bãi đất trống trơ trọi. Hắn đi dọc theo đường núi, phát hiện thêm hai cây nữa. Hai cây này thậm chí chất lượng vỏ còn tốt hơn so với cây đầu. Hắn bẻ lấy một đoạn thân lớn, kín đáo giấu vào trong nhẫn trữ vật, biết đâu có ngày dùng đến.
Tiếp tục lần mò đi lên cao hơn nữa, tiến về phía đỉnh núi. Nơi này dường như chưa có dấu chân người đi, không gian vắng lặng yên tĩnh đến lạ lùng. Còn chẳng hề nghe thấy một tiếng chim kêu vượn hót.
“Vắng vẻ quá, mấy con thú đi đâu hết cả rồi!” Đột nhiên hắn dừng lại, bất an.
Đúng vậy, từ sau cơn mưa tầm tã ban nãy, rừng cây yên ắng bất ngờ. Mọi hoạt động của thú vật dường như biến mất không còn dấu vết, cứ như bọn chúng chưa từng tồn tại vậy.
Dưới mặt đất đột nhiên rung động nhè nhẹ. Không ổn! Hắn vội hướng mắt nhìn về phía thượng nguồn, hoảng sợ quay đầu bỏ chạy. Vừa chạy vừa hét lớn:
“Hoàng Mẫn! Chạy mau! Lũ quét!”
Cả ngọn núi chấn động dữ dội, run lên bần bật như bị ai đó cầm lấy, lắc mạnh. Phía sau hắn bụi tung mù mịt, đất cát cuộn cuồn. Ẩn hiện trong đám cát bụi là hàng ngàn con trâu mộng to lớn được tạo thành từ ngàn tấn nước lũ và đất đá, đang hung dữ gầm thét, giẫm đạp lên nhau mà lao xuống. Con nào cũng hung tợn, tranh nhau lao lên trước dẫn đầu, miệng không ngừng phát ra những tiếng rống ông ông đinh tai nhức óc, như muốn ăn tươi nuốt sống những kẻ ngáng đường. Một con trâu mắt đục ngầu rào rú ầm ĩ, chỉ sẩy chân một cái đã bị một con khác phía sau nhào lên giẫm nát, tan thành bụi mịn. Rồi chính con trâu dữ tợn đó lại bị những con phía sau lao lên, chen chúc xô đẩy, chà đạp không thương tiếc. Cả một vùng núi trở nên hỗn loạn điên cuồng. Nơi nào đàn trâu đi qua cũng đều hoá thành một đống bầy nhầy hoang tàn, ngổn ngang như một bãi rác khổng lồ. Không gì có thể ngăn cản!
Quân vận hết sức bình sinh mà chạy. Bọn Hoàng Mẫn cũng đã phát hiện ra, đang bỏ chạy trối chết. Quân ở cách xa quá, lại không thể cắt đường mà sang tụ họp, đành nhắm mắt chạy thẳng một mạch. Chỉ cần chạy được đến cánh rừng phía trước là sẽ thoát, cây cối rậm rạp sẽ che chắn cho hắn, lũ quét cũng không vượt qua được hàng rào vững chắc này.
Đột nhiên một tia sáng loé lên chiếu thẳng vào mặt, hắn giật mình theo bản năng giơ tay nheo mắt lại, không cẩn thận mà ngã nhào xuống đất khi cánh rừng phía trước chỉ còn cách mấy chục mét. Cơn lũ phía sau ào đến, cuốn phăng hắn mang đi, rồi lượn qua mảng rừng tiếp tục lao đi bất chấp. Giữa đường gặp một dòng sông lớn, bỗng nhiên đàn trâu mất hết đi sự hung tợn vốn có, nhẹ nhàng đến bên bờ như đứa con ngoan về gặp mẹ. Bao nhiêu giận dữ trút hết vào dòng nước mát lành, nó mang theo tất cả đất đá hoà mình vào dòng sông. Dòng sông âu yếm ôm nó vào lòng, dịu dàng thả mình theo dòng nước xuôi về phía hạ du…