Lưu dân vào thành
Năm mười hai tuổi Chân Văn Quân còn chưa được gọi là Chân Văn Quân, nàng có một cái tên rất đỗi bình thường ——”A Lai”.
Vào năm đó, nhân sinh truyền kỳ của nàng đang dần dần mở ra.
Thần Sơ năm thứ sáu, tháng đầu đông, một năm mất mùa.
Trọng trấn ở vùng tây bắc Đại Duật, Tuy Xuyên quận, Kỳ huyện.
Đêm rét lạnh, mấy ngày liền bụi tuyết gió lạnh rít gào. Cửa thành bao quanh Kỳ huyện đóng chặt, bên ngoài thành người chết đói khắp nơi. Lưu dân từ chiến loạn phương bắc chạy tới vẫn như trước không hề có dấu hiệu sẽ tản đi.
Ngọn đèn trên tường thành sáng như đuốc, phía trên các lỗ châu mai được lấp đầy đá tảng, cường nỏ bên trong các hốc hình vuông trên tường thành đang chờ phân phó.
Huyện lệnh Tôn Minh Nghĩa cầm cây đuốc trong tay soi xuống phía dưới thành, chỉ thấy giữa bóng đêm đen kịt, trên mặt sông hộ thành uốn lượn ở bên ngoài Kỳ huyện đầy rẫy những xác chết đông cứng đang chậm rãi trôi đi, lại có ngày càng nhiều lưu dân không sợ nước sông rét lạnh, từ phía bờ bên kia lao đầu xuống, phá mở từng mảng băng mỏng, sải người bơi vọt về phía tường thành.
Một vòng bán kính rộng tầm ba chiếc xe ngựa bao quanh bên dưới tường thành tất cả đều là đầu người đang kích động, tiếng kêu rên, tiếng van cầu, tiếng vỗ đập vào cửa thành ngày đêm không ngừng, náo loạn đến mức bên trong thành lòng người hoảng sợ. Những lưu dân này đã vây thành suốt ba ngày, bất kể có quát tháo, xua đuổi thậm chí dọa dẫm như thế nào, bọn họ đều mắt điếc tai ngơ, một tấc cũng không rời.
Mấy túi thức ăn từ trên đầu tường thành ném xuống lúc chạng vạng đã sớm bị tranh giành hết sạch. Lưu dân từ phương bắc tới đây càng ngày càng nhiều, lấp kín cửa thành lại lấp kín cả đường sông, ngày hôm qua đã vớt được hơn mười thi thể bị chết đuối trên sông, nhưng vẫn có ngày càng nhiều lưu dân không sợ chết không sợ dọa dẫm mà kéo đến vây kín, thậm chí muốn xông vào bên trong thành trì.
Kỳ huyện chính là cứ điểm quan trọng ở vùng tây bắc, thành cao hào sâu rất khó đánh chiếm. Đám lưu dân này chưa từng trải qua bất kỳ sự huấn luyện quân sự nào, vì mạng sống lại có thể dùng tay trần trèo tường, thậm chí còn có một số người tổ chức cùng nhau dựng nên một cái thang bằng người. Trong màn đêm, chỉ thấy chi chít những bóng đen như những con kiến đang bám vào tường thành, không ngừng bò lên trên.
“Thả đá!”
Tôn Minh Nghĩa vừa cất hiệu lệnh, binh giáp vung lên, đại đao đồng loạt chém đứt những sợi dây thừng buộc giữ khối đá. Khối đá khổng lồ nặng nề ầm ầm lăn theo bờ tường, quét đi toàn bộ những điểm đen bám trên tường thành xuống dưới. Khối đá nện trên mặt đất vang lên âm thanh tựa như hồng lôi, mặt đất chấn động dữ dội, người tựa như rơm rạ cỏ rác bị nện giã thành thịt nát. Trong nhất thời lưu dân mệt nhọc bỏ chạy trối chết, cảnh tượng hỗn loạn vô cùng.
Khối đá khổng lồ lăn qua những bậc thềm đầy máu, tiếng kêu rên vang lên khắp nơi. Không lâu sau đó, những lưu dân may mắn còn sống sót lại xông tới. Những bàn chân to lớn đầy vết chai sần bẩn thỉu của bọn họ giẫm trên máu thịt lại một lần nữa vây kín bên dưới tường thành, bọn họ tiếp tục đập cửa, tiếp tục nối nhau tạo nên một cái thang bằng thân người với ý đồ công thành.
Những lưu dân này liều lĩnh bất chấp mạng sống leo lên trên, ở trong mắt bọn họ chỉ có hình ảnh bên trong thành tràn ngập những ánh lửa ấm áp cùng thức ăn khoái khẩu, chỉ cần vượt qua được bức tường cao này là bọn họ sẽ có thể ăn uống một trận thỏa thích. Một đám người vì thức ăn mà tranh đấu đỏ cả mắt, như sói đói lao đi tìm mồi.
Tôn Minh Nghĩa là lão tướng đã từng tham gia vô số trận đại chiến, nhưng cảnh tượng một đám lưu dân bị nạn đói làm cho nổi điên đang ở trước mắt đây vẫn khiến hắn âm thầm sợ hãi trong lòng, tiếng gào thét làm cho da đầu hắn tê dại.
Tử sĩ cũng chẳng được như thế này.
Đấu tranh cả một đêm lưu dân cũng không có biểu hiện suy yếu, đến gần giờ mão lại có thêm một đợt lưu dân tập kích lần nữa. Tôn Minh Nghĩa một tay giơ cờ lệnh lên, quát lớn: “Bắn tên!”
Tiếng trống mãnh liệt, toàn bộ hai trăm cung tiễn thủ sắp sửa bắn tên, dầu hỏa cũng đã được bố trí sẵn sàng phủ đầu giội xuống, bỗng nhiên vang lên một tiếng quát lớn xuyên thấu gió tuyết.
“Dừng tay!”
Tôn Minh Nghĩa còn chưa kịp quay đầu lại nhìn xem là người phương nào, một nam nhân cao lớn đã chọc thủng hàng rào binh lính ngăn cản túm lấy cờ lệnh. Đối phương khí thế hừng hực muốn cướp đi cờ lệnh, Tôn Minh Nghĩa dày dặn kinh nghiệm sa trường liền trở tay kéo lại, dễ dàng phá vỡ thăng bằng của đối phương. Hai binh lính cầm thương tiến lên, trường thương đâm tới, tạo thành một gọng kìm khóa quanh cổ người vừa đến, hai chân đồng loạt đạp mạnh vào lưng khiến hắn đau đến khẽ hô lên một tiếng. Trong nháy mắt người vừa xuất hiện đã bị khống chế trên mặt đất, lúc cằm sắp đập xuống đất hắn vội vàng hô:
“Huyện tôn chậm đã! Ta là Tạ Tùy Sơn!”
Tôn Minh Nghĩa có chút bối rối: “Tạ công tử?”
Nương theo ánh lửa, lúc này mới thấy rõ người này đích thật là Tạ Tùy Sơn, trưởng tử của Tuy Xuyên Thái thú Tạ Thái Hành.
Binh lính thu hồi trường thương, Tôn Minh Nghĩa nói: “Ngươi tới nơi này làm gì?”
Tạ Tùy Sơn đẩy hai binh lính phía sau ra, từ trong tay áo lấy ra phù truyền Thái thú, giơ lên trước mắt Tôn Minh Nghĩa: “Ngươi nói xem ta tới làm cái gì! Nhìn thấy phù truyền như nhìn thấy Thái thú! Tôn Minh Nghĩa, ngươi tại sao dám tùy ý làm bậy như thế, tàn sát đồng bào! Xem mạng người như cỏ rác!”
Tôn Minh Nghĩa mặt không đổi sắc, ánh mắt tràn đầy tinh lực lóe lên hàn quang hỏi ngược lại: “Xin hỏi Tạ công tử, Tôn mỗ như thế nào lại tàn sát đồng bào? Lại như thế nào mà xem mạng người như cỏ rác?”
Tạ Tùy Sơn chỉ xuống đống thi thể nằm khắp mặt đất phía dưới thành, nói: “Bằng chứng ở ngay trước mắt, ngươi còn cái gì để ngụy biện? Ngươi thủ vững cửa thành không mở, để cho đồng bào đói chết ở ngoài thành, không phải xem mạng người như cỏ rác thì là cái gì! Bọn họ không phải cường đạo, chẳng qua chỉ là dân chúng đáng thương do nạn mất mùa đói kém! Ngàn dặm xa xôi đi tới Kỳ huyện bất quá cũng là vì miếng ăn cho thê nhi, cho bản thân! Kỳ huyện công khố dư dả, tại sao lại không thể thả cho bọn họ vào thành cứu bọn họ một mạng? Ngược lại còn nhẫn tâm hạ độc thủ!”
Tôn Minh Nghĩa kinh ngạc nói: “Công khố dư dả? Ngươi nói kho lương trống hết một nửa kia được gọi là dư dả? Chưa nói đến đám lưu dân này là nạn dân của Cập Tích tộc ở vùng tây bắc chiến loạn trốn tới, bọn họ cũng không phải là người tộc ta, chỉ nói đến nhân số không dưới hai vạn này thì cần bao nhiêu lương thực mới có thể nuôi sống được? Một khi lương thực dự trữ của Kỳ huyện cung cấp không đủ, ngươi cũng biết lưu dân bạo loạn sẽ có hậu quả ra sao chứ?”
“Không chỉ có công khố, còn có tư lương của dân chúng trong thành! Cập Tích quốc tiếp giáp với Đại Duật ta, từ trước đến nay đều là thuộc địa của Đại Duật ta, đã là thuộc địa thì cũng tính là dân chúng Đại Duật! Bất luận là công hay tư đều phải mở kho cấp phát lương thực cứu tế dân chúng! Ngươi không mở cửa thành để cho bọn họ phải chết cóng chết đói bên ngoài thành, sao có thể nhẫn tâm như vậy a? Lòng người đều là từ máu thịt, lúc này cho bọn họ một ngụm cơm nóng bọn họ nhất định sẽ ghi khắc trong tâm khảm, túc hạ phải phóng tầm mắt nhìn xa tính chuyện lâu dài một chút, không thể cứ bám lấy chút lợi nhỏ trước mắt. Lương thực có thể lại thu hoạch, lòng người bị cuốn trôi khó kéo trở về! Lưu dân vào thành có bất kỳ hậu quả gì, ta sẽ chịu trách nhiệm!”
Cơn gào rít này của Tạ Tùy Sơn đã phá tan sự tức giận phẫn uất nhiều ngày của hắn.
Tôn Minh Nghĩa này ỷ vào binh quyền nắm trong tay, lại có thể hoàn toàn không nói một lời nào với phụ thân hắn liền tự tiện phát binh tàn sát lưu dân. Kỳ huyện bất quá chỉ là một huyện thành nho nhỏ thuộc Tuy Xuyên quận, Huyện lệnh tại sao lại có chủ ý lớn như vậy? Hoàn toàn không đem Tuy Xuyên Thái thú để vào trong mắt, đây là sự khinh thường đối với Tạ gia. Thái độ kiêu ngạo không coi ai ra gì thế này nhất định phải cho hắn nếm chút đau khổ mới được. Sau khi giải quyết xong chuyện lưu dân hắn nhất định phải thúc giục phụ thân dâng tấu buộc tội Tôn Minh Nghĩa, đem hắn lưu đày di châu.
Nói cho cùng, đối phó Tôn Minh Nghĩa chỉ là việc nhỏ, trọng yếu hơn chính là công trạng.
Triều đình mặc dù không ban bố mệnh lệnh rõ ràng nhưng lưu dân xuất hiện càng ngày càng nhiều, chẳng bao lâu nữa Hoàng thượng nhất định sẽ phải hạ chiếu lệnh cho các châu quận mở kho lương cứu tế tiếp nhận lưu dân. Tuy Xuyên của hắn nếu có thể tiên phong đi trước một bước, sang năm khi phụ thân vào kinh báo cáo công tác nhất định có thể mượn công trạng này để được giữ lại ở kinh thành. Đây là một nước cờ vô cùng trọng yếu đối với Tạ gia, thân là trưởng tử hắn nhất định phải lo liệu thật tốt, làm tăng thêm thể diện ở trước mặt phụ thân, để tránh phụ thân lại nói nam nhân Tạ gia không bằng nữ nhân.
Ngọn đuốc trên đỉnh đầu lung lay theo gió, thỉnh thoảng nổ tí tách thành những đốm lửa nhỏ, Tôn Minh Nghĩa lẳng lặng nhìn khuôn mặt hùng hổ tuổi trẻ khí thịnh của Tạ Tùy Sơn.
Chòm râu khô khốc điểm bạc của hắn dính đầy nước tuyết, đôi môi thô ráp nứt ra vài vệt máu đang run rẩy.
“Được.” Tôn Minh Nghĩa phun ra một chữ này rõ ràng dứt khoát vượt ra ngoài dự kiến của mọi người.
Hắn hướng xuống bên dưới tường thành hô to đối với các binh lính kiên thủ cửa thành mấy ngày chưa ngủ, mệt mỏi đến cực điểm:
“Tất cả đều do Thái thú công tử làm chủ! Thu binh, mở cửa thành!”
Thời tiết rét lạnh ở phương bắc quả thật danh bất hư truyền, lạnh đến mức khiến cho người ta phát run, trên da cũng giống như kết thành một tầng băng sương.
Tạ Tùy Sơn thấy cửa thành chậm rãi mở ra, lưu dân vốn vẫn đang mưu tính vạn kế liền giống như chuột kiến rắn trùng cùng nhau tranh đoạt vào thành, tiếng reo hò hưng phấn ầm ĩ vang trời.
Hắn đuổi Tôn Minh Nghĩa đi, đứng trên đỉnh thành trì, nét tươi cười thắng lợi giương trên khóe miệng kia lẽ ra nên là ung dung thoải mái, lại bất thình lình trở nên cứng ngắc vô lực.
Đám lưu dân kia phát ra những tiếng gầm nhẹ tựa như dã thú đang đói khát, đâm sầm vào hàng ngũ binh lính, giẫm đạp lên các đồng bào cùng thuộc Cập Tích quốc, chen chúc chui vào thành trì tràn đầy hi vọng. Bọn họ sẽ ở chỗ này làm ra những chuyện gì?
Hắn không thể không thừa nhận, có một loại cảm giác hoang mang bất định đang chậm rãi lan tràn ở trong lòng.
Tạ Tùy Sơn cố gắng mạnh mẽ tự trấn định chính mình. Mở kho lương cứu tế dân chúng, chuyện này nói thế nào cũng là hợp tình hợp lý.
Phụ thân từ nhỏ đã dạy hắn hướng thiện, hắn chính là ôm một tấm lòng từ bi mà bước đi trên con đường đại nghĩa, sao lại phải sầu lo?
Ngày mới tỏa ánh sáng, nhìn thấy hai vạn lưu dân bên ngoài thành toàn bộ đều đã tiến vào trong thành, Tạ Tùy Sơn mới từ trên tường thành đi xuống dưới.
Hắn trước đó là một mình cưỡi ngựa tới, nhưng bây giờ lại trông thấy xe ngựa của Tạ gia đang dừng ở nơi này, thoáng suy nghĩ một chút liền lộ ra vẻ mặt sáng tỏ. Đang muốn tiến lên thì bị một tiểu tướng lĩnh gọi lại, hỏi hắn hai vạn lưu dân này nên an bài như thế nào.
Tạ Tùy Sơn do dự một chút, rồi phân phó: “Trước tiên đem nạn dân an bài đến Nam Sơn Thanh Thủy Tự, ngươi cầm phù truyền của ta đi gặp trụ trì, bảo hắn trước tiên cấp cho những nạn dân này chút cháo và mì nước. Đúng rồi, sau khi an bài xong chuyện này ngươi lại dẫn người đi đến kho lương trong huyện, cấp cho Thanh Thủy Tự sáu mươi xe lương thực để trấn an nạn dân. Hiểu rồi chứ?”
Tiểu tướng lĩnh nhận lệnh thối lui, Tạ Tùy Sơn phủi phủi ống tay áo cho ngay thẳng, bước lên xe ngựa, quả nhiên nhìn thấy một vị tiên sinh trung niên mặc thanh sam nho nhã đang ngồi bên trong, hắn cung kính hành lễ với vị tiên sinh kia, hỏi: “Trời lạnh thế này Phương tiên sinh sao lại đến đây?”
Vị Phương tiên sinh này họ Phương tên Vũ Văn tự Hoài Viễn, chuyên gia thanh đàm* đương thời, được mệnh danh là một trong năm bậc hiền tài của Tuy Xuyên – Vân Mạnh tiên sinh, cũng là lão sư của Tạ Tùy Sơn. Ba năm trước Tạ Thái Hành từng tận mắt nhìn thấy phong thái thanh đàm của Vân Mạnh tiên sinh khi tranh luận về Nho gia, thập phần ngưỡng mộ, liền đích thân đến vùng đất cực tây Tuy Xuyên thỉnh hắn vào Tạ gia, trở thành phụ tá cho Tạ phủ, sau này lại làm lão sư cho đích tử đích nữ**.
(*) Thanh đàm (清谈): bàn lý luận
(**) Đích tử, đích nữ (嫡子, 嫡女): con trai, con gái thuộc dòng chính
Lần này khuyến khích thả lưu dân vào thành vốn là phải chờ sau khi Tạ Thái Hành từ Yến châu trở về thương nghị một phen rồi mới quyết định, nhưng thứ nhất là mấy ngày qua trời rét lạnh đã đông chết không ít nạn dân, thứ hai là Tôn Minh Nghĩa coi thường mạng người đại khai sát giới, là một thời cơ tốt để hắn vì Tạ gia tranh công. Hắn nhìn thấy cơ hội vụt qua, làm sao còn có thể tiếp tục chờ đợi được nữa, vừa lúc tiên sinh đi ra ngoài giảng dạy cũng không có ở Tạ phủ. Đi theo tiên sinh học tập rất nhiều năm, có một số việc cũng nên tự mình quyết định. Chờ phụ thân trở về thấy hắn lập được công trạng, nhất định sẽ nhìn hắn bằng cặp mắt khác xưa.
Vân Mạnh tiên sinh vén bức màn che trong xe ngựa ra, nhìn thoáng qua những lưu dân bên ngoài đang bị các quan binh xua đuổi nhanh chóng đi hướng đến thành nam, thanh âm trầm thấp, phải chú ý thật kỹ mới có thể nghe rõ hắn đang nói cái gì:
“Những lưu dân này đều là từ Cập Tích quốc tới. Dân Cập Tích quốc từ trước đến nay luôn hung hãn, không biết công tử đã có biện pháp gì an bài cho bọn họ rồi?”
Tạ Tùy Sơn thoáng chốc ngẩn người, có chút khó hiểu mà hỏi lại:
“Có hung hãn đến đâu thì cũng chỉ là lưu dân mà thôi, không phải là vì một ngụm cơm ăn hay sao? Kỳ huyện mở kho lương cứu tế thiên tai không vì mục đích gì khác, chỉ cần bọn họ nhớ kỹ ân tình của Tạ gia chúng ta là tốt rồi. Đệ tử cùng trụ trì Minh Tuệ của Nam Sơn Thanh Thủy Tự có chút giao tình, trước tiên đem lưu dân an bài đến chỗ hắn. Thanh Thủy Tự vẫn luôn có tiếng là thiện từ, chắc chắn sẽ an bài ổn thỏa. Đệ tử đoán rằng không cần đợi cho đến sang xuân triều đình chắc chắn sẽ phải hạ chiếu cấp phát ngân khố, đến lúc đó các châu quận không thể tránh thoát đều phải mở công khố cấp lương thực cứu tế thu nhận lưu dân. Số lương thực phát đi có thể lại từ các huyện khác của Tuy Xuyên điều đến, mà Tạ gia ta nhìn thấu được thánh ý cũng là thật sự đi trước một bước, nói không chừng phần lợi ích trong toàn bộ kế hoạch cứu tế thiên tai này cuối cùng sẽ có thể rơi vào trên đầu phụ thân ta. Khoản chi cứu tế thiên tai tạm thời không đề cập tới, quan trọng là có thể biểu dương công trạng. Mấy năm nay cơ hội thăng quan tiến chức đều do đám vũ phu mang binh đánh giặc kia đoạt đi, Tạ gia chúng ta vẫn chưa thể có được bất kỳ thành tích gì.” Sau khi thay đổi dòng suy nghĩ một chút, Tạ Tùy Sơn cảm thấy chính mình đầu óc vẫn là đủ thông minh, sự hoài nghi bản thân do câu hỏi bất ngờ vừa rồi cũng lập tức tan thành mây khói.
“Tạ gia chúng ta không thể cứ mãi nép mình ở tiểu địa phương Tuy Xuyên này được.” Thân mình Tạ Tùy Sơn nhẹ nhàng lắc lư theo cỗ xe ngựa tròng trành trái phải, đại sự hoàn thành khiến cho vẻ tươi cười vững vàng tràn khắp gương mặt hắn, “Coi như là để ta vì phụ thân mà trải sẵn một con đường tốt đi.”
……
Thành bắc Kỳ huyện, Đào Nguyên Tự.
Một vị mỹ phụ dẫn theo làn váy đang đi lên dãy bậc thang, từng bước một thật cẩn thận.
Hai bên dãy bậc thang là những gốc cây khô cằn mục nát, lớp tuyết bẩn trên thềm đá từ sớm tinh mơ đã bị quét đi không ít, tới giờ này lại bị phủ thêm một tầng. Không khí âm hàn vào sáng sớm làm cho lớp tuyết đọng đóng thành băng, trên thềm đá vô cùng ẩm ướt trơn trượt. Mỹ phụ cúi đầu cẩn thận nhìn bước chân mình, sợ chỉ một bước không cẩn thận sẽ trượt ngã.
Mỹ phụ mặc một bộ áo váy màu gỗ vang có chút cũ xưa, trên tóc chỉ cài một cây trâm phượng điệp bằng bạc. Phục sức tuy rằng đơn giản, nhưng chiếc thủ lô* màu đỏ đồng khéo léo tinh xảo được ôm trong lòng bàn tay lại không hề tầm thường, không phải gia đình phú quý thì làm sao có được. Nhưng nàng vốn là người không có chủ kiến lại thêm trên khuôn mặt bị vẻ ảm đạm dày đặc bao phủ, thỉnh thoảng lại thở dài.
(*) Thủ lô (手炉): lò sưởi tay
Đi theo phía sau mỹ phụ là một thiếu nữ mặc y phục mỏng bằng vải thô màu xám tro, bộ dáng của thiếu nữ cùng lắm chỉ mới mười một mười hai tuổi, trong tay xách theo chiếc giỏ bước đi nhẹ nhàng ung dung, thỉnh thoảng lại xoay người đưa mắt nhìn ra xa, hai mắt linh động tựa hồ đang tìm cái gì đó. Càng đi lên chỗ cao càng có thể đem toàn bộ cảnh trí ở Kỳ huyện thu vào trong mắt, lại càng có thể xuyên thấu qua phía chân trời xám lạnh nhìn thấy thành trì cao ngất.
Thiếu nữ thoáng nhíu chặt mi tâm, suy nghĩ một lúc liền cảnh giác nhìn về bốn phía hoang tàn xung quanh.
“A Lai.” Mỹ phụ vẫn như trước chú ý dưới chân, tùy ý hỏi một câu, “A Huân có nói với ngươi là nàng cùng phụ thân nàng khi nào trở về không?”
Thiếu nữ được gọi là “A Lai” nhanh chóng bước lên bên cạnh mỹ phụ nói: “Dạ Tứ di, tỷ tỷ không có nói với ta, thấy bọn họ lúc đi rất vội vàng, ta vừa lúc đi mua bồn hoa, không thể gặp được nàng.”
Không nhận được đáp án Tứ di liền không phản ứng nàng nữa, hai người đi tới trước cửa Đào Nguyên Tự, có một tiểu hòa thượng đi ra tiếp đón các nàng.
A Lai vẫn còn đang nhìn chung quanh, Tứ di hỏi nàng: “Ngươi đang nhìn cái gì?”
A Lai nói: “Dạ Tứ di, ta thấy binh lính trên tường thành tựa hồ đã rút đi hết rồi, trước cửa thành không có người canh giữ vạn nhất lại có thêm nhiều lưu dân chưa được phép phá thành mà vào thì phải làm sao đây? Nghe nói những lưu dân đó khí thế rào rạt, Nam Sơn Thanh Thủy Tự căn bản không thể tiếp nhận quá nhiều người như vậy, lương thực công tử đưa đi rất nhanh đã bị tiêu sạch cả rồi, bọn họ nhất định sẽ không an phận ở một chỗ. Tứ di, chúng ta vẫn là nhanh một chút trở về đi, dù sao vẫn cảm thấy bên ngoài không an toàn cho lắm.”
Tứ di nâng cao ngữ điệu chậm rãi “Nga” một tiếng: “Ngươi ngược lại so với trưởng tử Tạ gia suy nghĩ còn muốn chu toàn hơn.”
A Lai có chút sửng sốt, lập tức cúi đầu, nhỏ giọng nói: “A Lai bất quá chỉ là một hạ nhân, làm sao có thể đánh đồng cùng công tử. Chẳng qua là trước khi xuất môn chủ mẫu* đã phân phó, cần nhắc nhở Tứ di đi sớm về sớm, chuyện trong thành cũng đều là chủ mẫu nói với hạ nhân.”
(*) Chủ mẫu (主母): nữ chủ nhân của gia đình