Lưỡng Đô Ký Sự

Chương 9: Hương thủy*



Phải chăng Mẫu hậu đang nghiêm túc?

(*): nước hoa, tựa dùng Hán Việt nghe cho thơ.

——

Đường Oanh không ngờ tên Đường Đại ‘lấy oán báo ơn’ kia sẽ chủ động ‘biến chiến tranh thành tơ lụa’ với mình.

“Này…” Đường Đại đưa một cây hồ lô ngào đường tới cho Đường Oanh, ngượng ngùng xoa xoa đôi bàn tay nhỏ, “Cho muội.”

Năm nay Đường Đại bốn tuổi, từ nhỏ đã quen cẩm y ngọc thực[1], chưa từng nói lời tạ lỗi với ai, đương nhiên cũng sẽ không cúi đầu trước hoàng muội Đường Oanh này. Suy đi nghĩ lại, nghĩ bản thân mình ham ăn, mẫu thân càng ngăn cấm thì càng thích ăn món ngọt, vậy là, cũng liền cho rằng hồ lô ngào đường này là thứ thích hợp để an ủi hoàng muội nhất.

[1] Y phục bằng gấm, đồ ăn bằng ngọc, ý nói sống trong nhung lụa.

Cây hồ lô đường được bàn tay bé nhỏ nắm lấy, Đường Oanh nhìn, nói lời dịu dàng dễ nghe: “Cảm ơn Lục ca ca.” Đường Đại đây là có ý tạ lỗi đấy, Đường Oanh hiểu, vốn cũng có cảm tình với Đường Đại mập mạp này hơn Đường Diễm.

Đường Đại là Trưởng tử của Tuyên Thành Quận vương, muội muội hắn vừa được sinh ra không bao lâu, hắn đã bị chọn để nhập cung. Một tiếng ‘ca ca’ non nớt của Đường Oanh đã đủ để thỏa mãn ao ước làm huynh trưởng của hắn. Hé môi cười, gật đầu ngồi xuống trên thềm đá, lại nhìn cây hồ lô đang nghiêng ngả trong tay tiểu muội trước mắt, Đường Đại thẳng lưng thấp giọng: “Để ca ca cầm giúp muội, muội muốn ăn cứ nói với ca ca là được.”

Đường Oanh chưa kịp trả lời đã lấy cây hồ lô trong tay mình bị lấy đi. Đường Đại như trầm ngâm một lúc, nghĩ tiểu muội đã ở trong cung lâu như vậy rồi, cớ gì vẫn trầm mặc thiếu tự nhiên như thế, vậy là hỏi: “Muội có nhớ nhà không?”

Nhớ nhà sao?

Nhớ, nhớ nơi ngoại thành Cô Tô um tùm cây cỏ, nhớ nơi phòng nhỏ ngói nứt những đêm tuyết tràn qua, nhớ người phụ thân chẳng mấy dụng tâm khi đặt tên cho nữ nhi của mình, nhớ mẫu thân ngày qua ngày than thở chuyện mắm muối. Đương nhiên là nhớ. Đến bây giờ Đường Oanh cũng còn nhớ rõ như in khoảnh khắc ấy khi nàng mở mắt ra, nghe thấy tiếng cha nương hân hoan vui cười. Đây là điều kiếp trước nàng không có may mắn trải nghiệm. Hiện tại thân ở nơi Hoàng cung Yến Kinh này, chỉ sợ rằng khó có thể bước chân ra. Cô Tô nơi ấy dường như đã trở thành cố hương nàng chẳng thể quay trở về. Đường Oanh ngẩng đầu nhìn cung tường bốn phía cao sâu, nàng nghĩ, dù sao cũng may mắn, nàng giúp phụ thân phục được tông tịch, như thế thân sinh của nàng cũng có thể sống một cuộc sống dễ chịu hơn.

“Ôi chao!” Nhũ mẫu bưng một chén cháo tới, than thở một tiếng, rồi ôm Đường Oanh lên, “Đêm qua tuyết đổ, sáng ra cung nhân vừa quét dọn, bây giờ vẫn còn lạnh như thế, sao tiểu điện hạ lại ngồi đây?” Nhũ mẫu phủi y phục của Đường Oanh, lại nhìn thấy cây hồ lô đang đứa trẻ đang cầm trong tay, vẫn còn một nửa, ngạc nhiên hỏi: “Hồ lô đường? Ai cho vậy?”

Cây hồ lô rơi xuống đất, Đường Oanh cúi đầu nhìn: “Lục ca ca…”

Đường Đại yêu hồ lô đường nhất, cầm trong tay rồi, sao còn có thể nhịn. Nếu không phải là do nhũ mẫu đi ra, e là tiểu muội Đường Oanh này cũng chẳng được để phần một miếng. Dáng người mập mạp, ấy vậy mà tay chân thật nhanh, thoáng một cái đã chạy đi không còn bóng dáng.

Nhũ mẫu cho Đường Oanh ăn xong chén cháo, cũng nhân lúc trời đẹp không tuyết, cầm tay đứa trẻ dắt đi vài vòng quanh đình viện.

Đình viện nơi này, giữa những hàng cây cỏ trân quý, ở phía bên kia cạnh, cách núi giả không xa có một cây Hải Đường, mỗi ngày Hoàng hậu đều tới đây vài lần.

Đường Oanh rời khỏi cái nắm tay của nhũ mẫu, tự mình bước từng bước xiêu vẹo về phía cây Hải Đường, tay nhỏ chỉ vào trên thân cây.

Nhũ mẫu cũng hiểu được đứa trẻ này đang hỏi mình những vết khắc trên thân cây này là từ đâu mà có, tuy rằng không biết trẻ nhỏ nghe có hiểu hay không, rốt cuộc vẫn là kiên nhẫn giải thích: “Tứ ca ca của tiểu điện hạ, là Thái tử Hoằng điện hạ đấy, rất thân thiết với Hoàng hậu, tình cảm rất tốt. Cũng bảy tuổi rồi, mỗi ngày đều cao lớn hơn một chút, thế là dựa lưng vào đây, cao tới đâu sẽ khắc ở đó một vết, coi như là đo chiều cao.” Nhũ mẫu cũng chẳng phải là cung nhân của Vị Ương cung, điều nghe được cũng chỉ có vậy.

Đường Oanh nhìn như chỗ hiểu chỗ không, gật gật đầu, càng lúc càng có niềm tin vững chắc rằng lời đồn đại Hoàng hậu mưu hại Hoàng tự không phải là thật. Có điều, nuôi dạy ba đứa trẻ ở Vị Ương cung, cả ba đều vong mạng, nên giải thích thế nào?

Chợt lại nhìn thấy có thân ảnh yểu điệu đoan trang thấp thoáng trong hành lang, Đường Oanh gọi to: “Mẫu hậu!” Vừa gọi đã như một mũi tên rời cung chạy về phía ấy, ôm chầm lấy chân Hoàng hậu. Đứa trẻ hơn một tuổi liêu xiêu bám lấy, Hoàng hậu nhìn trước ngó sau, thấy đứa trẻ vẫn đứng vững mới yên tâm. Xoa xoa đầu Đường Oanh, biết đứa trẻ này không chịu rời khỏi mình rồi, bèn nói nhũ mẫu lui xuống nghỉ ngơi.

“Đường đại nhân, bên này.” Hoàng hậu nắm lấy bàn tay nhỏ, vừa nói với nam nhân theo phía sau.

Lúc này Đường Oanh mới nhận ra hôm nay Vị Ương cung có khách. Nam nhân đi phía sau, ước chừng ở tuổi tứ tuần, vóc người cao lớn, mũi cao mắt sâu, thân mặc giao lĩnh màu lục, cũng rất có tư thái.

Ước chừng là do rào cản ngôn ngữ, Hoàng hậu và nam nhân này trò chuyện rất ít, có nói cũng là nói rất ngắn gọn. Có hai chuyện, thứ nhất, Vương quốc Anh cũng vẫn chưa tìm ra được phương pháp trị bệnh đậu mùa đến tận gốc, chỉ có thể phòng bệnh. Thứ hai, Hoàng đế ân chuẩn cho mở Giáo đường trong nội thành Yến Kinh một thời gian, phía gần Đông Hoa môn. Để cảm tạ Hoàng hậu ngày ấy có lời trước Ngự tiền, đặc biệt tới tặng một món quà bản xứ – là một lọ nước hoa.

Nói về nước hoa, Đường Oanh thuộc trong lòng bàn tay. Nước hoa xuất phát từ Ai Cập cổ đại, mãi tới thế kỷ thứ Mười lăm mới thịnh ở Châu Âu, cho đến thời hiện đại đã trở thành một phần không thể thiếu trong vòng giao thiệp. Tấn triều lúc này tương đương với Minh triều những năm Vạn Lịch, chính là đầu thế kỷ Mười bảy, nhưng Đường Oanh lại không thể xác định được chính xác thì là chênh lệnh bao nhiêu năm. Dù sao nàng hiện cũng chỉ là một đứa trẻ vừa qua một tuổi, không thể nắm lấy tay người đàn ông kia mà hỏi: “Vương quốc Anh? Thời Phục hưng thế nào? Cách mạng Công nghiệp ra sao?”

Nắp bình mở ra, nội điện tức thì tràn ngập một cỗ hương thơm nồng đậm đến gay mũi. Cung nhân không chịu được mà che miệng ho khan. Nhưng Hoàng hậu ngồi đây không thể không chuẩn lễ nghi, cho nên chỉ có thể nhịn xuống sự khó chịu, bất động thanh sắc phẩy tay một cái, rồi lại đưa tay che khuôn mặt nhỏ nhắn của Đường Oanh lại, không thể đứa trẻ ngửi được. Đường Oanh còn đang tự nhẩm trong đầu thành phần điều chế: “Long tiên, xạ hương, hoa nhài…” Lúc này dòng suy nghĩa đã bị cắt đứt, ngơ ngác nhìn lòng bàn tay của Hoàng hậu đang che trước mặt mình.

Muốn mở Giáo đường, đương nhiên phải nịnh bợ Đế Hậu cho tốt, tặng Hoàng đế đồng hồ tinh xảo, tặng Hoàng hậu nước hoa bản xứ, ai ngờ hiệu quả lại ngược lại. Nhìn thần sắc hắn lúng túng Hoàng hậu cũng không làm khó: “Hương thơm tỏa bốn phía, đọng lại lâu dài như vậy, ta vừa ý. Đa tạ Đường đại nhân.”

Hương thơm tỏa bốn phía, đọng lại lâu dài? Mẫu hậu đang nghiêm túc đấy sao?

Hương còn rất tạp, rất nồng, mới dẫn đến cảm giác gay mũi khó chịu như vậy, cho dù có thích hợp với người phương Tây, đối với người Trung Nguyên mà nói, chỉ sợ cũng là chẳng có phúc hưởng.

Ngữ khí của Hoàng hậu rất tự nhiên, Đường Oanh nghi hoặc ngước mắt nhìn lên, đã thấy được vành tai Hoàng hậu phiếm hồng. Rõ ràng là một bộ dáng miễn cưỡng dối lòng, thật gian nan. Đường Oanh bật cười, thiếu chút nữa lảo đảo, may có Hoàng hậu giữ lại, rồi liền nhận lấy một ánh mắt cảnh cáo, lập tức chỉ có thể ngoan ngoãn ngồi yên.

Chẳng mấy chốc, nam nhân cáo lui rời khỏi.

Đường Oanh chống cằm, ngước mắt hỏi: “Đại… Hồ Tử?”

Diện mạo gương mặt khác với người Trung Nguyên, đôi mắt xanh như bảo thạch, Hoàng hậu biết đứa trẻ thế nào cũng hiếu kỳ, cho nên dịu dàng mà giải thích: “Hay còn gọi Đường Cát Lợi, hai năm trước đây thuyền chập bến cảng Hải Châu, một đường nhập kinh, tiến cung lên cho Bệ hạ một thứ, gọi là đồng hồ nước. Đồng hồ nước kia còn chính xác hơn đồng hồ đá trước Thái Hòa điện, phụ hoàng ngươi rất ưng, cao hứng mà ban họ Đường, Cát Lợi là tên của hắn. Đàm luận rất nhiều chuyện liên quan đến xứ Tây Dương, muốn mở Giáo đường truyền giáo, nhưng Bệ hạ cảm thấy không ổn, thương lượng với các đại thần xong liền từ chối, chỉ phong cho hắn một chức tiểu quan ở Khâm Thiên giám. Sau này…” Ánh mắt Hoàng hậu rời khỏi gương mặt Đường Oanh, chậm rãi hướng về phía cây Hải Đường ngoài viện, “Hoằng nhi… đột nhiên đổ bệnh, ta từng nghe đại phu xứ Tây Dương trị bệnh theo cách rất khác biệt, đề nghị với Bệ hạ một câu, xuống chỉ để Đường Cát Lợi tìm một đại phu tới.”

Hoàng hậu nói tới đây, rơi vào trầm mặc, đáy mắt vẫn còn sự hoảng hốt, vẫn còn tia đau xót.

Đường Oanh nửa ngồi nửa quỳ trên giường, thẳng lưng ngước mắt nhìn lên, giọng nói non nớt khe khẽ: “Mẫu hậu… còn…. còn có nhi thần ở đây.”

Ánh mắt Hoàng hậu khẽ chuyển, lập tức bật cười. Đưa tay vỗ vỗ sau gáy Đường Oanh: “Phải, còn có ngươi ở đây.”

– —

Mỗi khi Đông tới, tộc Tây Nhung[2] – tộc du mục nơi biên thùy phía Bắc của Đại Tấn năm nào cũng có ý đồ muốn xâm phạm, đánh cướp vào biên giới. Năm xưa Nguyên Sóc đế đã ký nghị ước với Khả hãn[3] Cát Bố Sở của Tây Nhung, thế nhưng Khả hãn A Mộc Nhĩ hiện tại này, hoàn toàn không khác gì lưu manh vô lại, nhằm mùa đông tới tràn sang cướp bóc. Binh quan Đại Tấn trấn thủ biên cương, hễ cứ manh động, A Mộc Nhĩ liền đưa nghị ước năm xưa ra thị uy đe dọa, tướng lĩnh của Đại Tấn chỉ cần khiến một người của Tây Nhung bị thương, hắn liền mắng Đại Tấn bất nghĩa.

[2]: Tây Nhung là từ chung để gọi các tộc ngoại bang. ‘Fact’ thêm: Tấn triều phỏng Minh triều, cho nên có thể ngầm hiểu quân Mông Cổ ở đây chính là đang phỏng Thanh triều.

[3]: Hay Đại hãn, là tước hiệu thủ lĩnh cao nhất trong ngôn ngữ Mông Cổ, được xem là người đứng đầu.

Khi Tiên đế còn tại thế, A Mộc Nhĩ được định sẵn sẽ kế vị Khả hãn, nhưng khi ấy còn đang trẻ tuổi, không dám làm càn. Mà nay A Mộc Nhĩ đã vào tuổi tứ tuần, lăm le đất Trung Nguyên đã lâu, nhìn Tái Hữu đế trẻ tuổi suy nhược không có Hoàng tự chưa lập Trữ quân, càng lúc càng lấn lướt.

Tuy rằng sức khỏe Tái Hữu đế quả đúng không cường kiện, thế nhưng ngồi trên Đế vị chấp chưởng giang sơn hơn mười năm, há lại để ngoại bang lấn lướt? Nếu đã quyết ý diệt trừ, chẳng lo không thể thắng, điều nên cân nhắc chỉ là – nên giao nhiệm vụ này cho ai, để vừa có lợi cho xã tắc, vừa có lợi cho Hoàng quyền.

Đại Tấn, cửu Châu cửu Vệ – Định Châu vệ và Lương Châu vệ, binh hùng tướng mạnh, trang bị kỹ càng, hợp lại cũng đã tới hai mươi vạn quân.

Đáng tiếc, cả hai Đô chỉ huy sứ đều là tôn tử của Kim Lăng Nhan thị.

—- Hết chương 8 —-

Editor mạn đàm:

Có điểm cần chú thích:

– Về việc tôn xưng Hoàng hậu là ‘Điện hạ’ chứ không phải ‘nương nương’:

‘Nương nương’ là từ dùng để gọi đích thê và tần phi của Hoàng đế, thực chất mãi đến sau này mới xuất hiện, ước chừng bắt đầu từ thời Tống. Còn trước đó, ‘điện hạ’ vẫn luôn là từ cao quý, chỉ cao quý sau ‘bệ hạ’, cho nên từng dùng để gọi Thái hậu và Hoàng hậu. Lưỡng Đô Ký Sự mặc dù phỏng Minh nhưng dùng nhiều cổ văn, và ‘điện hạ’ cũng thích hợp với không khí cung đình quyền mưu hơn ‘nương nương’.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.
Lưỡng Đô Ký Sự

Chương 9: Bạc ngọc



Gió ngừng tuyết tan, lăn tăn sóng nước

Hai năm trước Tiêu Thận đã tiến cử một người lên Ngự án.

Bạc Ngọc.

Người này xuất thân binh gia, trí dũng song toàn, có bản lĩnh nơi sa trường, có trí tuệ trước tiền điện, bậc nữ kiệt không nhượng đấng nam nhi. Hoàng đế điều nàng tới Hải Châu trấn cảng, quả nhiên không phụ lòng kỳ vọng, chẳng mấy chốc mà diệt được quân Oa, chiến công lừng lẫy.

Bắc phạt Tây Nhung, chủ tướng đã định, ngự bút đã phê.

Bạc Ngọc, Đô chỉ huy Thiêm sự[1] Hải Châu, lãnh chức Tả Tướng quân chinh Tây, dẫn hai mươi vạn quân đánh từ phía Bắc; Nhan Tông Nhâm, Chỉ huy sứ Định Châu, dẫn mười vạn quân áp theo thủ phía sau; Nhạc Mậu, Hữu thị lang Binh bộ, cầm mười vạn đốc quân.

[1]: Phụ tá cho các Đô chỉ huy sứ.

Bạc Ngọc chịu ơn tri ngộ của Tiêu Thận, đương nhiên, một lòng trung thành với Hoàng đế. Nhạc Mậu càng không cần phải nói, hắn vốn là môn sinh của Tiêu Thận. Lần này cất nhắc, người có mắt đều có thể nhìn ra mục đích, trước là tiêu diệt Tây Nhung, trừ bỏ hậu họa, sau là đề bạt người mới, thu binh hồi quyền. Đưa Nhan Tông Nhâm lên cũng chẳng khác nào cho văn võ cả triều một cơ hội thấy thánh ý của Hoàng đế, rằng Hoàng đế không còn tin tưởng Kim Lăng Nhan thị.

Binh gia có câu – “Chưa biết ý đồ chiến lược của các chư hầu, không thể tính việc kết giao; chưa thông địa hình sông núi, đầm hồ, không thể hành quân; không dùng người dẫn đường không thể chiếm địa lợi.”[2] Tây Nhung cách Đại Tấn sông núi xa xôi mà thế khó tấn công, tộc du mục thân ngồi trên lưng ngựa, lưỡi đao nhuốm máu người, A Mộc Nhĩ không những dũng mãnh thiện chiến mà còn tàn độc thủ đoạn, vây đã ba bốn trận mà chưa lấy được đầu chủ tướng.

[2]: Trích từ chương ‘Kế’, Binh pháp Tôn Tử, gốc: “Cố bất tri chư hầu chi mưu giả, bất năng dự giao; bất tri sơn lâm, hiểm trở, tự trạch chi hình giả, bất năng hành quân; Bất dụng hương đạo giả, bất năng đắc địa lợi”

Rồi cũng đến một trận kia, một đao ngang cổ, máu chảy đầu rơi, A Mộc Nhĩ tử trận dưới lưỡi đao của Bạc Ngọc, khi đầu chạm đất vẫn còn chưa nhắm mắt. Khả hãn đã vong, quân thí buông vũ khí đợi đầu hàng, sung làm tù binh.

Bạc Ngọc mang một thân khải hoàn hồi kinh, luận công ban thưởng, thăng lên Đô chỉ huy sứ Hải Châu vệ, quốc thái dân an mà nắm trong tay mười vạn binh.

– —

Tháng đầu xuân, gió đông dần yếu, tuyết dần tan.

Đường Oanh đã năm tuổi, ngày nào cũng như ngày nào, giờ Mẹo khi trời chưa sáng hẳn đã tới Văn Hoa điện dự giảng, sau Ngọ thiện sẽ tới Cẩn Thân điện thính chính, đến khi mặt trời lặn mới trở về. Tóc dài quá vai, chưa đến tuổi cập kê, vậy nên chỉ sơ búi đơn giản. Tóc trẻ nhỏ mềm mại mỏng manh như tơ, Hoàng hậu vẫn luôn tự mình búi tóc cho Đường Oanh. Việc này Nhẫn Đông và nhũ mẫu đều có thể làm, thế nhưng Hoàng hậu cảm thấy Đường Oanh còn nhỏ như vậy đã bận rộn tu dưỡng học tập, tuổi thơ không được vui vẻ khoái hoạt, cũng là thiệt thòi, vậy nên việc gì có thể nuông chiều liền cứ thế nuông chiều. .

||||| Truyện đề cử: Nuông Chiều Riêng Em |||||

Hai người ngồi trên giường, ánh nắng yếu ớt buổi ban mai xuyên qua rèm che nơi cửa sổ, tà tà mông lung, ấm áp thoải mái.

Bàn tay đỡ mái tóc của Đường Oanh, Hoàng hậu nhìn ngắm, đen tuyền mà mềm mại, lại thuận tay vuốt vuốt lưng đứa trẻ xem trung y có bị mồ hôi thấm ướt hay không. Nghe nhũ mẫu nói rằng từ khi sinh ra Đường Oanh đã bị mồ hôi trộm, khi đi ngủ dễ toát mồ hôi. Hoàng hậu lại nhớ tới ngày ấy khi Đường Oanh nhập cung, nhỏ bé như hạt đậu, Y chính Thái Y viện phải bắt mạch kê thuốc liên tục mới ổn.

“Mẫu hậu…” Đường Oanh ngồi trước Hoàng hậu, hai chân khoanh lại, xếp bằng. Tiếng gọi kia yếu ớt như tiếng muỗi bay, “Nhi thần buồn ngủ…” Đường Oanh tự nhận mình vẫn chưa thể nào thích ứng được với múi giờ sinh hoạt thế này. Trừ ngày Hưu Mộc[4], sáng nào cũng như sáng nào, năm giờ đã phải thức giấc rời giường.

[3] Hưu Mộc nhật (cổ văn): Ngày nghỉ phép, quan lại triều đình cứ mười ngày được nghỉ một lần để tắm gội, cho nên ngày lễ nghỉ gọi là “hưu mộc nhật” (Lưu ý: Không phải là 10 ngày mới tắm gội một lần).

Vừa nói, đầu nhỏ đã vừa ngả về phía sau, Hoàng hậu đỡ lấy, khóe môi cười lên thành một nét cong cong: “Mau ngồi thẳng lên, cứ như vậy ta búi tóc thế nào được?”

Tuy miệng nói như thế, thế nhưng Hoàng hậu cũng lùi về sau một chút, tạo ra chút khoảng cách cho đứa trẻ kia ngả về. Mái tóc vén lên kết thành búi, dây lụa đơn sắc quấn quanh vài vòng, cài chân trâu, điểm sức bạc, nom tinh tế mà sang quý.

Hoàng hậu buông lược, đang muốn gọi Nhẫn Đông và nhũ mẫu vào hầu hạ tiểu điện hạ rửa mặt thay y phục, buông mi nhìn xuống lại đã thấy Đường Oanh gục đầu lên cánh tay mình, chẳng biết đã chìm vào giấc ngủ từ lúc nào. Ngũ quan càng lúc càng sắc bén, sống mũi cao cao, đôi môi hồng hồng, hàng mi run run che đi đôi mắt lắm khi phảng phất tâm sự không hợp tuổi khiến người ta khi đã cảm nhận được, liền không thể không đau lòng lo âu.

Nhẫn Đông và nhũ mẫu đứng chờ ngoài điện một hồi thật lâu cũng chưa thấy động tĩnh phía bên trong, lúc này mới thấy cánh cửa bị mở ra. Hoàng hậu đi ra, nói với Nhẫn Đông: “Tới Văn Hoa điện cáo lỗi với danh sĩ Hồng Nho, xin cho điện hạ nợ một ngày công khóa, ngày mai nhất định sẽ bù lại đầy đủ.”

Nhẫn Đông nhận mệnh, cáo lui đi ngay.

Hoàng hậu lại nói thêm với nhũ mẫu: “Ngươi ở đây đợi, hai canh giờ nữa vào gọi Tiểu Thất dậy, dùng xong điểm tâm thì tới Thiên điện tìm ta.”

Gần bốn năm Bắc phạt Tây Nhung, Hoàng đế vì lao lực mà suy kiệt, dường như thân thể có thể sẽ ngã gục bất cứ lúc nào.

Đúng hai canh giờ sau, nhũ mẫu y lệnh mà vào gọi Đường Oanh dậy, nào ngờ vừa bước chân vào điện đã thấy đứa trẻ kia đang vội vàng mặc y phục, bộ dáng hoảng hồn thất kinh, đến viên lĩnh cũng chưa mặc chỉnh tề. Nhìn cảnh tượng như thế, nhũ mẫu cũng đành chạy tới giải thích trấn an mà thôi. Lúc này hiểu rằng không phải mình muộn giờ dự giảng, Đường Oanh mới thở phào một hơi thật dài. Bàn tay đưa lên chạm vào búi tóc, bây giờ mới nhớ ra ban sáng mình ngủ gật lúc đang búi tóc. Nhưng chính là, ấy thế mà Hoàng hậu không gọi nàng dậy, đúng là Hoàng hậu có cưng chiều, nhưng việc học tập tu dưỡng là việc tối quan trọng, sao hôm nay lại dung túng nàng tới mức ấy được?

Ở bên cạnh Hoàng hậu bốn năm năm, Đường Oanh biết Hoàng hậu không phải là một người nồng nhiệt tùy hứng, từ việc nhỏ tới việc lớn đều lấy lễ làm đầu, tuân theo khuôn phép quy củ, bất kỳ hành động nào cũng đều có nguyên do. Vậy cho nên Đường Oanh không hoang mang nghi ngờ, lúc này đây, nàng nhai kĩ nuốt chậm, tâm tình bình thản.

Nửa canh giờ là đủ cho nàng dùng điểm tâm sáng. Những ngày thường, vào lúc này nàng hẳn là đang ngồi thẳng lưng bằng vai giữa Văn Hoa điện, hành lễ sư đồ với danh sĩ Hồng Nho, phân tích điển tịch, ôn đọc Sử gia, đàm luận Đại Nghĩa. Danh sĩ Hồng Nho đã được tôn làm bậc Hồng Nho, đương nhiên là người cả đời đọc sách thánh hiền, uyên bác thâm thúy, thông hiểu cổ luận, có lẽ cũng vì lẽ ấy mà không khí trong Văn Hoa điện luôn luôn trầm trọng nặng nề. Theo lẽ thường, tôn tử sống trong cung đến năm tuổi mới bắt đầu nhập học, thế nhưng Đường Oanh vừa khi chưa tròn bốn tuổi Hoàng đế đã muốn nàng nhập học rồi.

Năm nay là năm thứ hai, hai năm qua cũng đã vì vài lần vì đổ bệnh mà xin nghỉ phép, ở Vị Ương cung bù công khóa bài vở đều là do chính tay Hoàng hậu kèm cặp chỉ dạy, không để sót một nét bút. Hoàng hậu xuất thân từ Kim Lăng Nhan thị, thân mẫu từng là Trạng Nguyên của năm nữ khoa, học thức cũng phải xứng với hai chữ uyên bác. Mà Hoàng hậu lại không giống các danh sĩ Hồng Nho của Văn Hoa điện giải bài nhưng lại trọng hình thức, Hoàng hậu cắt nghĩa vừa xúc tích ngắn gọn, vừa nội hàm dễ nhớ. Nghĩ hôm chắc chắn sẽ được mẫu hậu giảng bài, tâm trạng cũng tốt lên, bước chân đi về phía Thiên điện cũng nhanh lên mất phần.

Cung nga nội thị đứng dọc hành lang thấy bước chân của Đường Oanh nhanh như thế, lo lắng nàng giẫm phải vạt viên lĩnh dài chạm gót đế giày, nhìn mà cũng không nhịn được, phải nhẹ giọng nhắc: “Thất điện hạ, người cẩn thận!”

Đường Oanh, một thân vải dệt đẹp đẽ sang quý, hoa văn trên vải thêu chìm càng thêm tinh tế, giao lĩnh thuần trắng mặc trong viên lĩnh sắc lam nhạt thêu hải đường, búi tóc trên đầu khiến càng khiến dáng vẻ này thật giống một tiểu tiên đồng theo hầu bên tòa sen Quan Âm. Đến gần Thiên điện, bước chân dần chậm lại, từng cái hất tay cũng trở nên nhẹ nhàng lễ độ. Đường Oanh nấp sau cánh cửa, xưa nay ở Vị Ương cung này tất cả đều biết đứa trẻ này rất quấn mẫu hậu, đương nhiên, lễ nghĩa cũng ba bốn phần lơi lỏng. Thế nhưng hôm nay Vị Ương cung đón khách, Đường Oanh cũng tự nhiên ý thức mà thủ lễ cho chu toàn chuẩn mực.

Hôm nay, khách của Vị Ương cung, chính là vị Võ quan vừa thăng quan tiến chức, nổi danh Đế kinh – Bạc Ngọc.

Nghe có tiếng bước chân nhỏ nhẹ phía ngoài cửa, Bạc Ngọc quay đầu lại nhìn, nhìn lại chẳng thấy một bóng người, nét mặt lộ tia khó hiểu.

Hoàng hậu ngồi đối diện với nàng, nhìn ra cửa đã thấy rõ ràng, rồi cũng chỉ cười nhẹ: “Có con mèo từ đâu chạy tới mà thôi, đã quen với nơi này rồi, cũng chẳng thể bắt lại được.”

Mèo? Còn là mèo từ đâu chạy tới? Vị Ương cung này nội thị có lẽ cũng đến trăm người, lại chẳng thể bắt được một con mèo chạy từ đâu tới?

Bạc Ngọc càng nghe càng khó hiểu, nhưng rồi chẳng mấy chốc, ‘con mèo’ kia cũng bước tới, mười ngón tay áp lên nhau, vòng ra trước, cúi đầu hành lễ: “Mẫu hậu.”

Bạc Ngọc nghe, cuối cùng đã sáng tỏ rồi. Nàng hồi kinh từ nơi biên tùy, rất nhanh cũng đã nghe được nhiều chuyện lý thú, trong đó có chuyện Hoàng hậu nuôi dạy Trưởng nữ của Tĩnh Viễn Quận vương, chẳng qua cũng là nuôi dạy để chuẩn bị cho ngày định ngôi Trữ quân mà thôi, ấy thế mà dường như tính cách rất hợp, tình cảm rất tốt.

Hoàng hậu gật đầu, kéo đứa trẻ tới bên mình, nói: “Đây là Bạc Ngọc tướng quân.”

Bạc Ngọc, cái tên này Đường Oanh đã nhiều lần nghe được, hình ảnh vung đao giết địch nơi sa trường khói lửa, bộ dáng hiên ngang anh dũng ấy khiến cho Đường Oanh không thể ngờ được cái tên ấy lại là của vị này. Tóc đen như mực không trang sức vàng ngọc, chỉ có trụ bạc giữ trên đỉnh đầu, tuy là một thân giao lĩnh giày nhung gọn gang, thế nhưng cầu vai thon gọn, ngũ quan mi thanh mục tú. Rõ ràng khác quá xa với trong tưởng tượng của Đường Oanh về một đại Tướng quân nam tử hán cao to vạm vỡ.

Hoàng hậu hỏi thăm vài câu, cũng liền khen ngợi chiến công nơi sa trường Bắc phạt Tây Nhung của Bạc Ngọc. Đường Oanh rất biết phối hợp, ngồi đó, hai tay để trên đùi, nắm lại thành quyền như thể rất phấn khích, đôi mắt đẹp lấp lánh tỏa sáng. Bị một tiểu cô nương nhìn với ánh mắt sùng bái như vậy cũng khiến cho Bạc Ngọc có chút mất tự nhiên. Đoạn, nàng lấy một hộp gấm, mở ra, đưa tới cho Đường Oanh: “Điện hạ, vật này là ‘hỏa thương’, thế nhưng không giống hỏa thương của Thần Cơ doanh. Đây là hỏa thương của xứ Tây Dương, thần, năm đó phụng mệnh diệt quân Oa ở Hải Châu đã thu được vật này. Nghe nói điện hạ thích vật Tây Dương, thần cũng có lễ, điện hạ cũng có thể coi như một món tiêu khiển.”

Năm ấy Bạc Ngọc vốn là áp giải theo cả một đám người Oa, mang theo cả hỏa thương này, nhập kinh đề cử với Tiêu Thận, thậm chí là cả với Hoàng đế. Quy luật nhà binh – mạnh thì sống, yếu tất vong, binh phải mạnh, quốc mới cường. Nhưng rồi vô luận là Tiêu Thận hay là Hoàng đế cũng đều không muốn cải tiến hỏa thương, cảm thấy không có hứng thú, coi đây chỉ là thứ thấp hèn.

Chuyện Đường Oanh thích đồ Tây Dương là chuyện mà Hoàng hậu vô tình phát hiện ra. Đã mấy năm trước đây rồi, khi ấy Đường Cát Lợi tặng một chai dầu thơm, Hoàng hậu không dùng, cất vào trong hộp, mà Đường Oanh thi thoảng lại lấy ra nhìn, lại đôi khi hỏi về chuyện Tây Dương. Hoàng hậu cho rằng đứa trẻ này có hứng thú, có điều bản thân mình cũng không hiểu biết nhiều về xứ ấy, trong cung cũng không có phu tử nào am hiểu về Tây Dương, mà Đường Cát Lợi cũng không thường xuyên ở Yến Kinh. Bởi thế, để bù vào ấy, chỉ cần có dịp, Hoàng hậu sẽ cho người tìm đủ thứ đồ vật xứ Tây Dương về, giúp Đường Oanh tiêu khiển một chút. Tỷ như lần này, việc Bạc Ngọc có lễ cũng là do Hoàng hậu có lời.

Bạc Ngọc cáo lui rồi, Đường Oanh lúc này mới cất hỏa thương vào trong hộp gấm, coi như trân bảo mà ôm lấy, ngẩng đầu nhìn vị Dưỡng mẫu kia, nhing ánh mắt người ấy vẫn điềm nhiên như thường lệ, ấy thế mà khiến cõi lòng nàng ấm áp.

Dùng bữa trưa xong, Đường Oanh tới Cẩn Thân điện dự thính chính. Hoàng đế nghe báo lại rằng sáng nay nàng xin nghỉ, lo lắng nàng yếu ớt từ nhỏ, sợ hôm nay nàng khó chịu không khỏe, nhất định giữ nàng lại cùng dùng bữa tối, rồi lại hỏi han vài câu, lúc ấy mới yên tâm để nội thị tiễn nàng đi.

Cho tới khi về tới Vị Ương cung, lúc ấy đêm đã buông.

Sắc đêm thanh lạnh, mây thưa sao sáng, trăng treo đầu cành.

– — Hết chương 9 —


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.