Lưỡng Đô Ký Sự

Chương 10: Bạc ngọc



Gió ngừng tuyết tan, lăn tăn sóng nước

Hai năm trước Tiêu Thận đã tiến cử một người lên Ngự án.

Bạc Ngọc.

Người này xuất thân binh gia, trí dũng song toàn, có bản lĩnh nơi sa trường, có trí tuệ trước tiền điện, bậc nữ kiệt không nhượng đấng nam nhi. Hoàng đế điều nàng tới Hải Châu trấn cảng, quả nhiên không phụ lòng kỳ vọng, chẳng mấy chốc mà diệt được quân Oa, chiến công lừng lẫy.

Bắc phạt Tây Nhung, chủ tướng đã định, ngự bút đã phê.

Bạc Ngọc, Đô chỉ huy Thiêm sự[1] Hải Châu, lãnh chức Tả Tướng quân chinh Tây, dẫn hai mươi vạn quân đánh từ phía Bắc; Nhan Tông Nhâm, Chỉ huy sứ Định Châu, dẫn mười vạn quân áp theo thủ phía sau; Nhạc Mậu, Hữu thị lang Binh bộ, cầm mười vạn đốc quân.

[1]: Phụ tá cho các Đô chỉ huy sứ.

Bạc Ngọc chịu ơn tri ngộ của Tiêu Thận, đương nhiên, một lòng trung thành với Hoàng đế. Nhạc Mậu càng không cần phải nói, hắn vốn là môn sinh của Tiêu Thận. Lần này cất nhắc, người có mắt đều có thể nhìn ra mục đích, trước là tiêu diệt Tây Nhung, trừ bỏ hậu họa, sau là đề bạt người mới, thu binh hồi quyền. Đưa Nhan Tông Nhâm lên cũng chẳng khác nào cho văn võ cả triều một cơ hội thấy thánh ý của Hoàng đế, rằng Hoàng đế không còn tin tưởng Kim Lăng Nhan thị.

Binh gia có câu – “Chưa biết ý đồ chiến lược của các chư hầu, không thể tính việc kết giao; chưa thông địa hình sông núi, đầm hồ, không thể hành quân; không dùng người dẫn đường không thể chiếm địa lợi.”[2] Tây Nhung cách Đại Tấn sông núi xa xôi mà thế khó tấn công, tộc du mục thân ngồi trên lưng ngựa, lưỡi đao nhuốm máu người, A Mộc Nhĩ không những dũng mãnh thiện chiến mà còn tàn độc thủ đoạn, vây đã ba bốn trận mà chưa lấy được đầu chủ tướng.

[2]: Trích từ chương ‘Kế’, Binh pháp Tôn Tử, gốc: “Cố bất tri chư hầu chi mưu giả, bất năng dự giao; bất tri sơn lâm, hiểm trở, tự trạch chi hình giả, bất năng hành quân; Bất dụng hương đạo giả, bất năng đắc địa lợi”

Rồi cũng đến một trận kia, một đao ngang cổ, máu chảy đầu rơi, A Mộc Nhĩ tử trận dưới lưỡi đao của Bạc Ngọc, khi đầu chạm đất vẫn còn chưa nhắm mắt. Khả hãn đã vong, quân thí buông vũ khí đợi đầu hàng, sung làm tù binh.

Bạc Ngọc mang một thân khải hoàn hồi kinh, luận công ban thưởng, thăng lên Đô chỉ huy sứ Hải Châu vệ, quốc thái dân an mà nắm trong tay mười vạn binh.

– —

Tháng đầu xuân, gió đông dần yếu, tuyết dần tan.

Đường Oanh đã năm tuổi, ngày nào cũng như ngày nào, giờ Mẹo khi trời chưa sáng hẳn đã tới Văn Hoa điện dự giảng, sau Ngọ thiện sẽ tới Cẩn Thân điện thính chính, đến khi mặt trời lặn mới trở về. Tóc dài quá vai, chưa đến tuổi cập kê, vậy nên chỉ sơ búi đơn giản. Tóc trẻ nhỏ mềm mại mỏng manh như tơ, Hoàng hậu vẫn luôn tự mình búi tóc cho Đường Oanh. Việc này Nhẫn Đông và nhũ mẫu đều có thể làm, thế nhưng Hoàng hậu cảm thấy Đường Oanh còn nhỏ như vậy đã bận rộn tu dưỡng học tập, tuổi thơ không được vui vẻ khoái hoạt, cũng là thiệt thòi, vậy nên việc gì có thể nuông chiều liền cứ thế nuông chiều. .

||||| Truyện đề cử: Nuông Chiều Riêng Em |||||

Hai người ngồi trên giường, ánh nắng yếu ớt buổi ban mai xuyên qua rèm che nơi cửa sổ, tà tà mông lung, ấm áp thoải mái.

Bàn tay đỡ mái tóc của Đường Oanh, Hoàng hậu nhìn ngắm, đen tuyền mà mềm mại, lại thuận tay vuốt vuốt lưng đứa trẻ xem trung y có bị mồ hôi thấm ướt hay không. Nghe nhũ mẫu nói rằng từ khi sinh ra Đường Oanh đã bị mồ hôi trộm, khi đi ngủ dễ toát mồ hôi. Hoàng hậu lại nhớ tới ngày ấy khi Đường Oanh nhập cung, nhỏ bé như hạt đậu, Y chính Thái Y viện phải bắt mạch kê thuốc liên tục mới ổn.

“Mẫu hậu…” Đường Oanh ngồi trước Hoàng hậu, hai chân khoanh lại, xếp bằng. Tiếng gọi kia yếu ớt như tiếng muỗi bay, “Nhi thần buồn ngủ…” Đường Oanh tự nhận mình vẫn chưa thể nào thích ứng được với múi giờ sinh hoạt thế này. Trừ ngày Hưu Mộc[4], sáng nào cũng như sáng nào, năm giờ đã phải thức giấc rời giường.

[3] Hưu Mộc nhật (cổ văn): Ngày nghỉ phép, quan lại triều đình cứ mười ngày được nghỉ một lần để tắm gội, cho nên ngày lễ nghỉ gọi là “hưu mộc nhật” (Lưu ý: Không phải là 10 ngày mới tắm gội một lần).

Vừa nói, đầu nhỏ đã vừa ngả về phía sau, Hoàng hậu đỡ lấy, khóe môi cười lên thành một nét cong cong: “Mau ngồi thẳng lên, cứ như vậy ta búi tóc thế nào được?”

Tuy miệng nói như thế, thế nhưng Hoàng hậu cũng lùi về sau một chút, tạo ra chút khoảng cách cho đứa trẻ kia ngả về. Mái tóc vén lên kết thành búi, dây lụa đơn sắc quấn quanh vài vòng, cài chân trâu, điểm sức bạc, nom tinh tế mà sang quý.

Hoàng hậu buông lược, đang muốn gọi Nhẫn Đông và nhũ mẫu vào hầu hạ tiểu điện hạ rửa mặt thay y phục, buông mi nhìn xuống lại đã thấy Đường Oanh gục đầu lên cánh tay mình, chẳng biết đã chìm vào giấc ngủ từ lúc nào. Ngũ quan càng lúc càng sắc bén, sống mũi cao cao, đôi môi hồng hồng, hàng mi run run che đi đôi mắt lắm khi phảng phất tâm sự không hợp tuổi khiến người ta khi đã cảm nhận được, liền không thể không đau lòng lo âu.

Nhẫn Đông và nhũ mẫu đứng chờ ngoài điện một hồi thật lâu cũng chưa thấy động tĩnh phía bên trong, lúc này mới thấy cánh cửa bị mở ra. Hoàng hậu đi ra, nói với Nhẫn Đông: “Tới Văn Hoa điện cáo lỗi với danh sĩ Hồng Nho, xin cho điện hạ nợ một ngày công khóa, ngày mai nhất định sẽ bù lại đầy đủ.”

Nhẫn Đông nhận mệnh, cáo lui đi ngay.

Hoàng hậu lại nói thêm với nhũ mẫu: “Ngươi ở đây đợi, hai canh giờ nữa vào gọi Tiểu Thất dậy, dùng xong điểm tâm thì tới Thiên điện tìm ta.”

Gần bốn năm Bắc phạt Tây Nhung, Hoàng đế vì lao lực mà suy kiệt, dường như thân thể có thể sẽ ngã gục bất cứ lúc nào.

Đúng hai canh giờ sau, nhũ mẫu y lệnh mà vào gọi Đường Oanh dậy, nào ngờ vừa bước chân vào điện đã thấy đứa trẻ kia đang vội vàng mặc y phục, bộ dáng hoảng hồn thất kinh, đến viên lĩnh cũng chưa mặc chỉnh tề. Nhìn cảnh tượng như thế, nhũ mẫu cũng đành chạy tới giải thích trấn an mà thôi. Lúc này hiểu rằng không phải mình muộn giờ dự giảng, Đường Oanh mới thở phào một hơi thật dài. Bàn tay đưa lên chạm vào búi tóc, bây giờ mới nhớ ra ban sáng mình ngủ gật lúc đang búi tóc. Nhưng chính là, ấy thế mà Hoàng hậu không gọi nàng dậy, đúng là Hoàng hậu có cưng chiều, nhưng việc học tập tu dưỡng là việc tối quan trọng, sao hôm nay lại dung túng nàng tới mức ấy được?

Ở bên cạnh Hoàng hậu bốn năm năm, Đường Oanh biết Hoàng hậu không phải là một người nồng nhiệt tùy hứng, từ việc nhỏ tới việc lớn đều lấy lễ làm đầu, tuân theo khuôn phép quy củ, bất kỳ hành động nào cũng đều có nguyên do. Vậy cho nên Đường Oanh không hoang mang nghi ngờ, lúc này đây, nàng nhai kĩ nuốt chậm, tâm tình bình thản.

Nửa canh giờ là đủ cho nàng dùng điểm tâm sáng. Những ngày thường, vào lúc này nàng hẳn là đang ngồi thẳng lưng bằng vai giữa Văn Hoa điện, hành lễ sư đồ với danh sĩ Hồng Nho, phân tích điển tịch, ôn đọc Sử gia, đàm luận Đại Nghĩa. Danh sĩ Hồng Nho đã được tôn làm bậc Hồng Nho, đương nhiên là người cả đời đọc sách thánh hiền, uyên bác thâm thúy, thông hiểu cổ luận, có lẽ cũng vì lẽ ấy mà không khí trong Văn Hoa điện luôn luôn trầm trọng nặng nề. Theo lẽ thường, tôn tử sống trong cung đến năm tuổi mới bắt đầu nhập học, thế nhưng Đường Oanh vừa khi chưa tròn bốn tuổi Hoàng đế đã muốn nàng nhập học rồi.

Năm nay là năm thứ hai, hai năm qua cũng đã vì vài lần vì đổ bệnh mà xin nghỉ phép, ở Vị Ương cung bù công khóa bài vở đều là do chính tay Hoàng hậu kèm cặp chỉ dạy, không để sót một nét bút. Hoàng hậu xuất thân từ Kim Lăng Nhan thị, thân mẫu từng là Trạng Nguyên của năm nữ khoa, học thức cũng phải xứng với hai chữ uyên bác. Mà Hoàng hậu lại không giống các danh sĩ Hồng Nho của Văn Hoa điện giải bài nhưng lại trọng hình thức, Hoàng hậu cắt nghĩa vừa xúc tích ngắn gọn, vừa nội hàm dễ nhớ. Nghĩ hôm chắc chắn sẽ được mẫu hậu giảng bài, tâm trạng cũng tốt lên, bước chân đi về phía Thiên điện cũng nhanh lên mất phần.

Cung nga nội thị đứng dọc hành lang thấy bước chân của Đường Oanh nhanh như thế, lo lắng nàng giẫm phải vạt viên lĩnh dài chạm gót đế giày, nhìn mà cũng không nhịn được, phải nhẹ giọng nhắc: “Thất điện hạ, người cẩn thận!”

Đường Oanh, một thân vải dệt đẹp đẽ sang quý, hoa văn trên vải thêu chìm càng thêm tinh tế, giao lĩnh thuần trắng mặc trong viên lĩnh sắc lam nhạt thêu hải đường, búi tóc trên đầu khiến càng khiến dáng vẻ này thật giống một tiểu tiên đồng theo hầu bên tòa sen Quan Âm. Đến gần Thiên điện, bước chân dần chậm lại, từng cái hất tay cũng trở nên nhẹ nhàng lễ độ. Đường Oanh nấp sau cánh cửa, xưa nay ở Vị Ương cung này tất cả đều biết đứa trẻ này rất quấn mẫu hậu, đương nhiên, lễ nghĩa cũng ba bốn phần lơi lỏng. Thế nhưng hôm nay Vị Ương cung đón khách, Đường Oanh cũng tự nhiên ý thức mà thủ lễ cho chu toàn chuẩn mực.

Hôm nay, khách của Vị Ương cung, chính là vị Võ quan vừa thăng quan tiến chức, nổi danh Đế kinh – Bạc Ngọc.

Nghe có tiếng bước chân nhỏ nhẹ phía ngoài cửa, Bạc Ngọc quay đầu lại nhìn, nhìn lại chẳng thấy một bóng người, nét mặt lộ tia khó hiểu.

Hoàng hậu ngồi đối diện với nàng, nhìn ra cửa đã thấy rõ ràng, rồi cũng chỉ cười nhẹ: “Có con mèo từ đâu chạy tới mà thôi, đã quen với nơi này rồi, cũng chẳng thể bắt lại được.”

Mèo? Còn là mèo từ đâu chạy tới? Vị Ương cung này nội thị có lẽ cũng đến trăm người, lại chẳng thể bắt được một con mèo chạy từ đâu tới?

Bạc Ngọc càng nghe càng khó hiểu, nhưng rồi chẳng mấy chốc, ‘con mèo’ kia cũng bước tới, mười ngón tay áp lên nhau, vòng ra trước, cúi đầu hành lễ: “Mẫu hậu.”

Bạc Ngọc nghe, cuối cùng đã sáng tỏ rồi. Nàng hồi kinh từ nơi biên tùy, rất nhanh cũng đã nghe được nhiều chuyện lý thú, trong đó có chuyện Hoàng hậu nuôi dạy Trưởng nữ của Tĩnh Viễn Quận vương, chẳng qua cũng là nuôi dạy để chuẩn bị cho ngày định ngôi Trữ quân mà thôi, ấy thế mà dường như tính cách rất hợp, tình cảm rất tốt.

Hoàng hậu gật đầu, kéo đứa trẻ tới bên mình, nói: “Đây là Bạc Ngọc tướng quân.”

Bạc Ngọc, cái tên này Đường Oanh đã nhiều lần nghe được, hình ảnh vung đao giết địch nơi sa trường khói lửa, bộ dáng hiên ngang anh dũng ấy khiến cho Đường Oanh không thể ngờ được cái tên ấy lại là của vị này. Tóc đen như mực không trang sức vàng ngọc, chỉ có trụ bạc giữ trên đỉnh đầu, tuy là một thân giao lĩnh giày nhung gọn gang, thế nhưng cầu vai thon gọn, ngũ quan mi thanh mục tú. Rõ ràng khác quá xa với trong tưởng tượng của Đường Oanh về một đại Tướng quân nam tử hán cao to vạm vỡ.

Hoàng hậu hỏi thăm vài câu, cũng liền khen ngợi chiến công nơi sa trường Bắc phạt Tây Nhung của Bạc Ngọc. Đường Oanh rất biết phối hợp, ngồi đó, hai tay để trên đùi, nắm lại thành quyền như thể rất phấn khích, đôi mắt đẹp lấp lánh tỏa sáng. Bị một tiểu cô nương nhìn với ánh mắt sùng bái như vậy cũng khiến cho Bạc Ngọc có chút mất tự nhiên. Đoạn, nàng lấy một hộp gấm, mở ra, đưa tới cho Đường Oanh: “Điện hạ, vật này là ‘hỏa thương’, thế nhưng không giống hỏa thương của Thần Cơ doanh. Đây là hỏa thương của xứ Tây Dương, thần, năm đó phụng mệnh diệt quân Oa ở Hải Châu đã thu được vật này. Nghe nói điện hạ thích vật Tây Dương, thần cũng có lễ, điện hạ cũng có thể coi như một món tiêu khiển.”

Năm ấy Bạc Ngọc vốn là áp giải theo cả một đám người Oa, mang theo cả hỏa thương này, nhập kinh đề cử với Tiêu Thận, thậm chí là cả với Hoàng đế. Quy luật nhà binh – mạnh thì sống, yếu tất vong, binh phải mạnh, quốc mới cường. Nhưng rồi vô luận là Tiêu Thận hay là Hoàng đế cũng đều không muốn cải tiến hỏa thương, cảm thấy không có hứng thú, coi đây chỉ là thứ thấp hèn.

Chuyện Đường Oanh thích đồ Tây Dương là chuyện mà Hoàng hậu vô tình phát hiện ra. Đã mấy năm trước đây rồi, khi ấy Đường Cát Lợi tặng một chai dầu thơm, Hoàng hậu không dùng, cất vào trong hộp, mà Đường Oanh thi thoảng lại lấy ra nhìn, lại đôi khi hỏi về chuyện Tây Dương. Hoàng hậu cho rằng đứa trẻ này có hứng thú, có điều bản thân mình cũng không hiểu biết nhiều về xứ ấy, trong cung cũng không có phu tử nào am hiểu về Tây Dương, mà Đường Cát Lợi cũng không thường xuyên ở Yến Kinh. Bởi thế, để bù vào ấy, chỉ cần có dịp, Hoàng hậu sẽ cho người tìm đủ thứ đồ vật xứ Tây Dương về, giúp Đường Oanh tiêu khiển một chút. Tỷ như lần này, việc Bạc Ngọc có lễ cũng là do Hoàng hậu có lời.

Bạc Ngọc cáo lui rồi, Đường Oanh lúc này mới cất hỏa thương vào trong hộp gấm, coi như trân bảo mà ôm lấy, ngẩng đầu nhìn vị Dưỡng mẫu kia, nhing ánh mắt người ấy vẫn điềm nhiên như thường lệ, ấy thế mà khiến cõi lòng nàng ấm áp.

Dùng bữa trưa xong, Đường Oanh tới Cẩn Thân điện dự thính chính. Hoàng đế nghe báo lại rằng sáng nay nàng xin nghỉ, lo lắng nàng yếu ớt từ nhỏ, sợ hôm nay nàng khó chịu không khỏe, nhất định giữ nàng lại cùng dùng bữa tối, rồi lại hỏi han vài câu, lúc ấy mới yên tâm để nội thị tiễn nàng đi.

Cho tới khi về tới Vị Ương cung, lúc ấy đêm đã buông.

Sắc đêm thanh lạnh, mây thưa sao sáng, trăng treo đầu cành.

– — Hết chương 9 —


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.
Lưỡng Đô Ký Sự

Chương 10: Ngượng ngùng



Tôn sư trọng đạo là điều tiên quyết,

tự cao tự phụ là điều tối kị.

Năm Tái Hữu thứ Hai mươi mốt, Lâm Xuyên Quận vương Đường Diễm mười bốn tuổi, Lục điện hạ Đường Đại tám tuổi, Thất điện hạ Đường Oanh năm tuổi.

Ngôi Trữ quân chưa định.

Mặc dù kiếp trước Đường Oanh không có tư duy chính trị, thế nhưng bốn năm thính chính ở Cẩn Thân điện, bây giờ nàng cũng có thể coi là có chút tâm tư, có đủ hiểu biết về Tấn triều.

Đồng hồ nước, truyền giáo, nước hoa, hỏa thương,… và còn nhiều manh mối khác nữa, chỉ ra rằng triều đại này quả thật song song với Minh triều. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương bãi bỏ chế độ Thừa Tướng đứng đầu quan lại, Minh Thành Tổ Chu Lệ lập Nội Các, nắm chắc trong tay quốc sách triều cương. Nội Các là nơi bàn luận chính sự, dưới có Lục bộ, dưới Lục bộ có các Thừa tuyên bố chính sứ ty, Đề hình án sát ty, Đô chỉ huy sứ ty. Phối hợp chặt chẽ, từ hành chính đến tư pháp, quân sự.

Dưới thời Minh Tuyên Tông, Nội Các đưa kiến nghị phối hợp với một trong mười hai giám – chính là Tư Lễ giám, cùng nhau luận nghị can gián những quyết định đã được Hoàng đế thông qua, sau đó mới thành chiếu chỉ, xuống đến Lục bộ. Cũng chính vì lẽ này mà quyền lực san đều, vừa kìm hãm vừa phối hợp lẫn nhau, không để cá nhân nào nắm trong tay quá nhiều quyền lực, dẫn đến thảm trạng thao túng triều đình. Pháp chế, triều cương của Tấn triều gần như là hoàn toàn tương đồng với Minh triều, dưới Hoàng đế có Nội Các, dưới Nội Các có Tả tướng Hữu tướng khắc chế lẫn nhau, Nội đình mặc dù có Thập Nhị giám, lại không có Thiệp chính.

Hoàng đế vẫn là Quân chủ cao cao tại thượng, phía dưới có Tả – Hữu phò trợ lại khắc chế lẫn nhau, cơ hồ là làm thành một khóa sắt, không thể nào có sơ hở cho quyền thần lộng hành.

Nhưng rồi lại vẫn có một câu hỏi chưa có lời giải.

Ngôi Trữ quân có nên để trống hay không?

Không nên. Vậy nếu như lập, lập ai?

Với năng lực nhìn thời thế của bá quan trong triều, những năm qua đã sớm nhìn ra được Hoàng đế và Tiêu Thận có ý hướng về Lục điện hạ Đường Đại. Thân phụ của Đường Đại là Hoàng đệ cùng chi với Hoàng đế. Năm ấy tước Vương bị giáng xuống thành Quận Vương, cũng là do hắn và Nhan Hoài Tín đối nghịch, bị Nhan Hoài Tín lợi dùng thiên thời mà xúi giục thao túng đám Ngự Sử buộc tội. Sau, Nhan Hoài Tín thoái ẩn quan trường, Trưởng tử Nhan Tốn nối theo gót cha, cầm hốt của Hữu tướng quyền cao chức trọng, tâm tư thâm sâu, đã nhìn ra được nếu Đường Đại đăng cơ, án của đời trước rồi sẽ lần nữa bị mang lên.

Nhan Tốn, dường như nghiêng về phía Lâm Xuyên Quận vương Đường Diễm. Sinh phụ của Đường Diễm, Thọ Vương, phong đất xứ Điền Nam, nơi ấy khó có thể coi là đất lành phì nhiêu, mà còn có thể nói là đất phong thủy không lành. Thời điểm Đường Diễm nhập cung làm dưỡng tử của Hoàng đế, khi ấy hắn đã mười tuổi, hiểu được ai là thân sinh phụ mẫu, gì là huyết nhục tình thân. Tuy rằng cung kính quỳ lạy khấu đầu gọi ‘phụ hoàng mẫu hậu’, thế nhưng trong lòng hẳn là phải có phụ mẫu thân sinh. Thọ Vương ở đất Điền Nam xa xôi, trong Hoàng cung Yến Kinh này, Đường Diễm và Thọ Vương phi ngụ tại Cam Tuyền cung, cô nhi quả phụ dễ thao túng, dùng chút thủ đoạn, chẳng mấy chốc mà phục tùng.

Mỗi khi thiết triều nghị sự, Tiêu Thận và Nhan Tốn chưa bao giờ thôi căng thẳng. Quyền quyết định tối cao vẫn nằm trong tay Hoàng đế, Hoàng đế xuống chỉ liền xong xuôi – Chuyện đâu có đơn giản như thế? Hoàng đế vừa bày tỏ nghiêng về phía Đường Đại, đã có Ngự sử Đô Sát viện, dẫn theo Cấp sự trung Lục khoa, dâng tấu gián nghị, đương nhiên, chính là mang án cũ năm xưa ra, rằng thân phụ bị giáng tước, việc lập Trữ quân phải cân nhắc thận trọng. Cấp sự trung Lục khoa và Ngự sử Đô Sát viện này nắm trong tay lợi thế không nhỏ. Lục khoa cấp sự là cơ quan gián nghị, thậm chí còn có thể bác ý chỉ của Hoàng đế. Đô Sát viện là cơ quan giám sát tối cao, duy trì trật tự trong triều, mà Ngự sử của Đô Sát viện, đôi khi chỉ nói vài lời cũng đã đủ để tiễn một mạng người.

Con người là phàm nhân, không phải thánh hiền, ai sống trên đời lại không có sai lầm. Hoàng đế đăng cơ đã lâu, thế nhưng nhìn xuống bách tính cũng chỉ là nhìn qua những con chữ trong tấu chương mà triều thần dâng lên. Pháp chế triều cương rất chắc, nhưng giả như, nếu vẫn có lừa trên gạt dưới, cuối cùng vẫn là không thể nắm tường tận trong lòng bàn tay được. Dù là triều đại nào, có trung thần, ắt phải có gian thần, trước tiền triều dù cho là sóng yên biển lặng, nhưng ai dám chắc mạch nước ngầm không sôi sục?

Lại nói, Kim Lăng Nhan thị là dòng dõi thế gia vọng tộc, đã trải qua hơn hai trăm năm hương hỏa nghi ngút, có qua lại với danh sĩ uyên thâm chốn dân gian, được võ tướng quyền thần trong triều đình ủng hộ. Nhan Tốn ủng hộ Đường Diễm, việc này không có gì khó, nhìn vào hợp tình hợp lý.

Giả như, Hoàng đế vẫn cố ý muốn lập Đường Đại lên ngôi Trữ quân, có lẽ ngôn quan sẽ viết tấu từ quan, cởi mũ cánh chuồn, gấp lại quan phục. Nếu Hoàng đế cố chấp hơn nữa, rồi cũng sẽ nhận lấy tám chữ ‘trí tuệ hẹp hòi, chuyên quyền độc đoán’, sau này, tên trong sử sách khó trách được một vết nhơ.

Âu vì lẽ đó, Trữ vị vẫn bỏ ngỏ tới nay.

Suy cho cùng, ngôi Trữ quân này rốt cuộc là của Đường Diễm hay là Đường Đại – hết thảy những việc này cũng không có liên quan tới Thất điện hạ Đường Oanh. Sự tồn tại của nàng, cũng có thể coi là một bảo kiếm trừ tà dành cho Vị Ương cung, để bảo vệ che chở cho tôn tử hoàng tự. Tới nay Đường Oanh vẫn khỏe mạnh, quan hệ giữa Hoàng đế và Hoàng hậu cũng dần dịu đi.

– —

Mặt trời nhô lên, ban mai ló rạng.

Hoàng hậu tới búi tóc cho Đường Oanh, đứa trẻ này lại làm trò cũ, gục đầu trên tay nàng không chịu động đậy. Hoàng hậu nhìn ra âm mưu, rồi cũng chỉ cười cười: “Buồn ngủ phải không, buồn ngủ thì nằm xuống ngủ đi, Cẩn Thân điện cũng không cần phải tới nữa, ta cho người đi nói với phụ hoàng ngươi một câu là được rồi.”

Uy hiếp rõ ràng!

Đường Oanh mím môi: “Không cần… Gần đây tâm tình phụ hoàng rất tốt, rất có hứng đấy, nhi thần nào dám chọc phụ hoàng mất vui.”

Tiên hoàng hậu đã băng thệ được gần bảy năm, miếu hiệu đã định từ lâu, Hoàng đế vậy mà vẫn ngủ mơ thấy Tiên hoàng hậu, nhớ mong trong lòng vẫn chưa mấy nguôi ngoai. Có vài Ngự sử dám can gián nói thẳng, rồi lại chạm đến điểm cấm kỵ của Đế vương, Hoàng đế ban trượng đánh đến tàn phế. Đường Oanh chưa từng tận mắt thấy cảnh ấy, thế nhưng chưa từng nghĩ Hoàng đế lại tàn nhẫn như vậy, nhất thời cũng không khỏi sinh khiếp đảm sợ hãi.

Vừa dứt lời, đột nhiên Đường Oanh thấy mình bị đẩy một cái, đến lúc hoàn hồn đã nằm sấp xuống, cũng chỉ có thể ngước đầu lên dùng ánh mắt mờ mịt mà nhìn Hoàng hậu. Nét cười trên môi càng lúc càng sâu, Hoàng hậu đánh mông đứa trẻ, gọi là đánh, thế nhưng chẳng dùng mấy phần lực, coi như là lướt qua lớp vải mà thôi: “Không dám chọc phụ hoàng tức giận nhưng mỗi sáng thức dậy đều ở đây nghiêng ngả với ta, chính là cố ý bắt nạt mẫu hậu phải không?”

Đường Oanh biến ngốc trong chốc lát, mặt hồng lên, màu hồng giống với màu hồng của nắng sớm phía bên ngoài kia, mặt áp xuống chăn, tựa như chỉ hận không thể chôn đầu vào đó.

Tư thế này, lại còn bị mẫu hậu đánh, mất thể diện tới mức nào?

“Đau sao?” Hoàng hậu nghiêng đầu nhìn, thấy mặt đứa trẻ này đã hồng lên cả, ấp úng không nói nên lời. Tưởng mình quá tay rồi, nhíu mày muốn cởi trung y của Đường Oanh ra kiểm tra. Đầu ngón tay nàng lúc nào cũng lành lạnh, chạm tới bên hông khiến cho Đường Oanh bất giác giật mình, vội vàng giữ lấy bàn tay kia: “Không đau không đau, thoải mái…”

“Thoái mái?” Hoàng hậu nghi hoặc.

Đường Oanh hoảng, thực lòng thực dạ không hiểu hai chữ ‘thoải mái’ kia là từ đâu mà ra, bản thân nàng cũng không hiểu! Lồm cồm bò dậy, lui sâu vào góc giường, nấp phía sau đống chăn, giọng nói ấp úng: “Mẫu hậu đừng chọc nhi thần, nhi thần… da mặt mỏng.”

Nói đùa hay nói thật đây? Ngày ngày bám dính lấy ta, ta đuổi cũng không được, da mặt mỏng?

Hoàng hậu nghe, cười một tiếng, rồi lắc đầu. Lại ngồi vào gần một chút, kéo đống chăn xuống, dịu giọng dỗ dành: “Được rồi, mẫu hậu không chọc ngươi. Mau ra đây, coi chừng muộn giờ.”

Hai má vẫn chưa hết nóng, Đường Oanh vẫn không chịu đi ra.

Nụ cười của Hoàng hậu nhạt bớt, hạ giọng: “Tiểu Thất, đi ra.”

Hoàng hậu nói chuyện, trước nay đều là ôn thanh hòa khí, mỗi khi tông giọng thấp xuống, ắt sẽ khiến người ta cảm thấy uy áp. Đường Oanh đương nhiên thích được dung túng nuông chiều, thế nhưng cũng rất biết ơn mỗi khi Hoàng hậu nghiêm khắc, bởi vì nàng hiểu rằng chỉ có những người thật sự quan tâm đến ngươi mới có thể chỉ ra sai lầm thiếu sót của ngươi, thúc giục cho ngươi càng lúc càng trưởng thành. Mỗi lúc như vậy, Đường Oanh không oán trách, mà biết ơn.

Chẳng mấy chốc sau Đường Oanh đã lồm cồm bò ra. Hoàng hậu nhìn bộ dáng nhăn nhăn nhó nhó kia cũng cảm thấy thật buồn cười, lại chỉnh lại nếp tóc cho nàng. Cung nga đã vào điện chuẩn bị hầu rửa mặt thay y phục rồi, lại nghe Hoàng hậu nói với Đường Oanh: “Con trẻ nhà ai chưa từng bị đánh đòn, xấu hổ vì nỗi gì chứ. Mồ hôi ướt gáy rồi, lát nữa ra ngoài nhiễm lạnh, sinh bệnh cũng chẳng phải mình ngươi chịu khổ.”

Cung nhân nghe thế, có người cười khẽ. Chuyện này một truyền mười, mười truyền trăm, chỉ sợ toàn bộ trên dưới Vị Ương cung sẽ đều biết hôm nay Thất điện hạ bị đánh đòn.

Hoàng hậu nhận lấy khăn ấm, thấm mồ hôi sau gáy cho Đường Oanh, lại thấy vành tai nàng đỏ hồng lên, lập tức nghiêng đầu quét mắt nhìn quanh. Ánh mắt kia cực kỳ nhẹ, ấy thế mà khiến cung nga đứng đó lập tức cúi đầu mím môi. Hẳn là không cần nàng phải mở miệng dặn dò, cung nhân trên dưới sẽ tự biết mà giữ mồm giữ miệng, không để thể diện của Thất điện hạ da mặt mỏng như trường thành kia tổn hại dù chỉ một chút.

Văn Hoa điện nằm ở phía Đông Hoàng thành, lập nên, chính là để làm nơi cho Trữ quân tu dưỡng, nhiếp sự. Cung điện trong Hoàng thành đều dùng ngói lưu ly vàng rực, chỉ duy có Văn Hoa điện khác biệt. Theo học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, phương Đông thuộc Mộc, mà Mộc gắn với màu xanh của cây cối, sức sống tràn dầy, tự nhiên sinh trưởng. Tầng tầng lớp lớp mái ngói của Văn Hoa điện đều được dùng mái ngói lưu ly lục sắc, cũng có ý tứ rằng tổ tiên dòng dõi hoàng thất nhà họ Đường phù hộ che chở cho tôn tử, phúc khí dài lâu.

Phu tử, tên Thương Tán, là Đại học sĩ Hàn Lâm viện, xuất thân Trạng Nguyên nhất giáp năm Nhĩ Thuận, đức cao vọng trọng, là lão học sĩ mà mỗi người trong triều đều kính trọng.

Hôm đó Thương Tán vừa tiễn vài vị quan viên Hàn Lâm viện trẻ tuổi quay về Văn Hoa điện, từ xa đi tới, đi tới gần lại chợt nghe thấy tiếng của trẻ con: “Hôm qua môn sinh không dự giảng, hôm nay việc học chậm trễ. Môn sinh tạ lỗi, xin tiên sinh lượng thứ.”

Từ khi bắt đầu cầm trên tay sách vở, mỗi khi Đường Oanh vắng mặt, hôm sau tới đều sẽ đích thân tạ lỗi với Thương Tán. Hoặc là có sự khác, hoặc là do bệnh tật, vắng mặt không dự giảng cũng đều là uổng công sư phụ soạn bài, phụ lòng phu tử lo lắng. Người khác thay mình tạ lỗi và chính bản thân mình tạ lỗi, đều là tạ lỗi, thế nhưng khác biệt rất lớn. Thương Tán nghĩ, có lẽ là đứa trẻ này được Hoàng hậu dạy dỗ, dòng dõi thế gia vô cùng trọng lễ tiết, tôn sư trọng đạo là điều tiên quyết, tự cao tự phụ là điều tối kị.

Đường Oanh để nội thị đứng đợi ở phía xa, tự mình đứng ở chỗ rẽ này đợi Thương Tán. Vóc người nhỏ bé, nếu đứng cạnh người khác, sợ là sẽ bị bỏ qua. Thương Tán nghe tiếng quen thuộc, cũng theo đó mà nhìn về, nhìn thấy Đường Oanh, nhanh chóng tới đỡ đứa trẻ lúc này đang hành lễ sư đồ đứng thẳng dậy.

“Tiểu điện hạ vẫn khỏe mạnh chứ? Tiết xuân se lạnh, phải càng biết quan tâm tới sức khỏe của bản thân mới phải.”

Đường Oanh từ nhỏ đã yếu, mỗi khi Đường Oanh vắng mặt, Thương Tán sẽ tự cho là đứa trẻ này lại mệt mỏi không khỏe rồi, đâu biết rằng hôm qua nàng ở Vị Ương cung ngủ tới lúc mặt trời lên lưng chừng mới dậy. Đường Oanh bước bên Thương Tán, bước chân chầm chậm, vô cùng cẩn thận quan tâm đến lão nhân gia, lại nói: “Để tiên sinh lo lắng là lỗi của môn sinh, nhưng cũng là điều khiến môn sinh vui vẻ. Tiên sinh tuy rằng sức khỏe kiện khang, tinh thần phấn chấn, thế nhưng cũng phải chú ý y phục cho ấm mới được.”

Thương Tán xưng là học giả Nho giáo, đương nhiên để ngoài mắt đám phe phái quan lại trên tiền triều, nếu không phải vì lưu luyến tàng thư ở Văn Uyên các, hẳn là cũng đã sớm mai danh ẩn tích từ lâu. Tả tướng và Hữu tướng, đảng phái phân tranh, Trữ quân bỏ ngỏ, ngoại thích loạn chính,… vũng nước đục chốn triều đình này, đối với Thương Tán hết thảy cũng đều như mây khói mà thôi.

Người cầu thị ham học hỏi yêu đạo lý, Thương Tán rất yêu thích. Người cầu thị ham học hỏi yêu đạo lý lại thông hiểu lễ tiết, hắn càng trọng. Nói chuyện vài ba câu với Đường Oanh, Thương Tán cười thành tiếng, gương mặt đã in hằn những vết nhăn nheo, khi cười lên tràn đầy hòa ái. Vừa bàn chuyện công khóa, hai bóng lưng một lớn một nhỏ, cùng bước bên nhau đi vào chính điện.

– — Hết chương 10 —

Editor mạn đàm: Bệ hạ da mặt “mỏng như tường thành” với bán manh không nên nết trong nhà thôi chứ ra ngoài vẫn là có mặt mũi lắm, điện hạ cứ đùa.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.