Ký Sự Sinh Tồn Chốn Cung Đình

Chương 19: Tuyền Già (2)



Qua nửa đêm, không biết Lâu Quan Tuyết đã ngủ hay chưa, chỉ biết Hạ Thanh đã tự mình buồn ngủ trước. Khi cảm xúc lên xuống quá nhiều, cậu thường mệt mỏi nhanh chóng, mí mắt díp vào nhau, lông mi run lẩy bẩy.

Lâu Quan Tuyết cười nhẹ hỏi cậu, có muốn cùng ngủ trên giường hay không.

Hạ Thanh nhìn hắn một cái kinh hồn bạt vía, trôi tít ra xa.

Thôi cảm ơn. Thế thì lại kích thích quá.

Hạ Thanh lại trở về với chỗ ngủ quen thuộc, thổi nến, khoanh tay, nằm dài trên chiếc bàn đọc sách.

Ánh trăng nhàn nhạt chiếu lên mặt mày mệt mỏi của người thiếu niên.

Lần này Hạ Thanh lại nằm mơ.

Cũng thật là hiếm lạ. Cả đời cậu rất ít nằm mơ, vậy mà đêm nay bị linh vi mê hoặc nhập mộng những hai lần liên tiếp.

Cậu nằm mơ thấy bức tường ở trại mồ côi.

Hồi ức ngày bé chung quy vẫn không thể tách rời khỏi ánh tà dương màu máu trên nền trời thành phố.

Bức tường cũ nát, bên trên thường xuân bám chằng bám chịt, một trận gió thổi đủ thành làn sóng mơn mởn màu xanh. Cậu đung đưa chân vắt lên biển xanh gờn gợn sóng.

Đối diện trại mồ côi là miếng đất thi công.

Xi măng cốt thép dựng thành khung xương của một con quái vật khổng lồ, máy đào và máy trộn bê tông lúc nào cũng ồn ào vào sáng sớm, ruỳnh ruỳnh ngất đất, chính bởi vì tiếng ồn từ công trường xây dựng này mà viện trưởng và người dân xung quanh đã cãi nhau không biết bao nhiêu lần, lần nào lần nấy đều cũng chật ních một vòng người đứng hóng hớt và can ngăn.

Cuối cùng mảnh đất thi công cũng không ồn ào được nữa.

Bởi vì nhà thầu bỏ chạy, nơi đây trở thành một công trình dang dở.

Vậy nên người cãi lộn đổi thành người khác, còn gay cấn hơn nhiều, cũng càng thêm tuyệt vọng. Đàn ông đàn bà, già trẻ lớn bé, gào thét xé trời, hoặc quỳ xuống, hoặc động chân tay, hoặc van xin khóc lóc.

Một ngày nào đó, cậu ngồi trên bức tường, thấy một người đàn ông trung niên leo đến tầng cao nhất của công trình bỏ dở.

Ánh mắt Hạ Thanh vừa nghi hoặc vừa trong veo.

Sắc mặt người đàn ông vàng khè, mặc một chiếc áo khoác cũ rích, râu ria lởm chởm, ánh nhìn chết lặng, có lẽ cũng nhìn thấy cậu, nhưng không nói gì.

Ông ta nhảy từ trên cao xuống.

Lúc ông ta nhảy lầu, chắc hẳn Hạ Thanh đã nghe thấy âm thanh gì đó, nhưng làm sao cũng chẳng thể nhớ ra, đó rốt cuộc là âm thanh thế nào

Có lẽ là âm thanh của xương cốt vỡ tan, của máu thịt nát bét.

Ánh chiều tà màu máu, Hạ Thanh trắng bệch mặt mày nhảy xuống khỏi bức tường, lúc chạy đến nơi thi thể đã được trùm vải trắng kín mít.

Cảnh sát chăng dải phân cách, giải tán đám người.

Hạ Thanh chỉ đứng im tại chỗ, nghe mọi người xì xào bàn tán.

Họ mắng nhà thầu là gã chó đẻ bất lương cuỗm tiền chạy trốn. Rồi lại than thay cho kẻ xui xẻo gặp phải công trình đứt gánh giữa đường.

Còn nghe họ xót xa cho người đàn ông đáng thương nọ.

Cha mẹ qua đời chưa được bao lâu, vợ đã bị ung thư vú mà bỏ mạng, dùng số tiền tích góp cả đời mua căn nhà chờ tặng đứa con trai về lấy vợ, chẳng ngờ tháng trước đứa bé học đại học ở vùng khác gặp tai nạn giao thông, hiện giờ nhà cửa cũng về với cát bụi.

Duyên trần ràng buộc, cần cù làm lụng cả một đời, đều tan thành bọt biển. Người đàn ông không được học hành, hiền lành, hiểu chuyện bị đẩy vào đường cùng, chỉ có thể lựa chọn cái chết.

Khi Hạ Thanh ăn trưa trong trại mồ côi, cũng nghe hộ sĩ nói về câu chuyện ấy.

Ngồi bên cạnh cậu là hai đứa bé buổi sáng vừa đánh nhau vì tranh giành xích đu, hiện giờ lại làm loạn lên vì tranh chỗ xếp hàng, ồn ào một hồi cuối cùng đều òa lên ăn vạ.

Hộ sĩ vừa nói dứt một câu “Tớ mà là chú ấy tớ cũng chẳng sống được”, đã phải vội vàng chạy tới “Lại sao nữa thế, sao lại khóc nhè rồi.”

Hộ sĩ còn lại lắc đầu, đối diện với ánh mắt của Hạ Thanh, bỗng nhiên ngẩn người, cúi xuống nhỏ giọng nói: “Thanh Thanh, có phải em đã nhìn thấy rồi không?”

Hạ Thanh nuốt miếng cơm, gật đầu một cái. Hộ sĩ nôn nóng, sợ cậu bị ám ảnh tâm lý, vội vàng tìm bác sĩ tới trao đổi với cậu.

Sau đó kết quả kiểm tra của Hạ Thanh lại rất bình thường, mọi người đều thở phào nhẹ nhõm, cho ràng cậu không nhìn thấy rõ, hoặc là còn quá nhỏ không hiểu được cái chết.

Nhưng thực tế tất cả đều không phải.

Hạ Thanh không nhớ được cảm xúc khi còn bé, chỉ nhớ mình đã bi ai. Bi ai đến độ suốt một khoảng thời gian dài, cậu ngồi trên bức tường đó, nhìn tòa nhà dang dở cao vời vợi, chỉ nghĩ khi ấy người đàn ông nọ đã nghĩ điều gì.

Về cha mẹ quá cố? Vợ con qua đời? Hay về ngôi nhà dang dở trở thành cọng rơm cuối cùng đè chết bản thân mình?

Lan can bằng sắt trong ký túc xá trại mồ côi đã bị gỉ, sơn vữa rụng tróc loang lổ trên tường, cầu thang thông sang hướng phòng vui chơi.

Khi còn nhỏ Hạ Thanh có chút lập dị, nhưng không hề cô đơn, thậm chí quan hệ giữa cậu và người khác còn rất tốt.

Có một lần đang gặm que kem một đồng mà một người bạn cho mình, cậu đi qua cầu thang, nghe thấy tiếng khóc nức nở của một hộ sĩ vừa tốt nghiệp.

Cô ngồi xổm trong xó, mắt đỏ bừng như ánh tà dương, âm thanh run rẩy, gào lên trong đau đớn: “Vậy anh muốn em phải làm sao! Anh nói đi! Anh muốn em phải làm thế nào!”

Bên kia điện thoại là người yêu khác tỉnh của cô, ngày ngày đều cãi vã khiến cho tình cảm giữa hai người đầy rẫy nguy cơ, sau một hồi dài yên lặng, người đầu kia điện thoại mệt mỏi nói: “Anh không muốn ngày chó nào chạy việc hộc máu cho lãnh đạo về xong cũng phải nghe em to tiếng. Anh mệt rồi, em không mệt mỏi sao?”

Hộ sĩ cắn răng: “Mệt mỏi, mệt mỏi lâu lắm rồi, chia tay đi.”

Cô vùi mặt khóc một hồi, lại nhận được điện thoại từ mẹ. Còn chưa mở miệng đã vội đòi tiền, bảo rằng em trai cô vào đại học cần máy tính mới, rồi rằng tiền nhà tháng này chưa trả. Cô chửi bới trong tan vỡ. Người đàn bà kia ngừng một giây, bắt đầu giảng đạo lý, nói cô học đại học xong có tác dụng gì, giờ làm công cũng chẳng được bao nhiêu, lại trách cô ngày xưa tự do buông thả không chọn việc theo yêu cầu người lớn. Hộ sĩ dập máy không hề do dự, hàm răng run rẩy, khóe mắt đỏ bừng, chỉ là nét mặt bắt đầu xuất hiện một cảm xúc mịt mờ.

Một loại mịt mờ mà Hạ Thanh đã từng bắt gặp trên khuôn mặt của rất nhiều người khác.

“Chị muốn ăn kem không?” Hạ Thanh ngẫm nghĩ, sau đó lấy que kem năm hào chưa được bóc đưa cho cô.

Người hộ sĩ chưa kịp thích ứng với sự hiện diện của cậu, còn đang ngơ ngác. Ngơ ngác nhận lấy, cắn một miếng, kem tan trong miệng, lạnh đến mức chảy nước mắt, nhưng lại cố chấp mỉm cười.

Hồi nhỏ, các nhà hảo tâm sẽ quyên sách cho trại mồ côi.

Có một quyển Hạ Thanh ấn tượng rất sâu, tên là [Phải sống].

Trong đó có câu.

‘Ban đầu chúng ta đến với thế giới này, là bởi vì không thể không tới; cuối cùng chúng ta rời đi thế giới này, là bởi vì không thể không rời.’

Có lẽ khái niệm sống chết trong cậu đã bắt nguồn từ những lời văn ấy.

Nhưng bác trong trại mồ côi toàn nói dối bọn cậu, “Chết chính là tiếp tục sống ở một vùng đất mà chúng ta không thể trở về.”

Dĩ nhiên, bác lừa được mọi đứa trẻ, chỉ không lừa được Hạ Thanh.

Tuy nhiên Hạ Thanh cũng thể hiện không khác những đứa trẻ ‘bị lừa’.

Bởi tới giờ cậu chưa từng chống cự sinh lão bệnh tử, cũng không sợ chia rời và cách biệt, giống như không hiểu một điều gì.

Sau đó, trại mồ côi được tu sửa, tường được xây lại, hai đứa bé ngày nào cũng gây gổ với nhau cuối cùng cũng có gia đình nhận nuôi.

Hộ sĩ đã từ chức rời đi, mà công trình bỏ ngỏ đối diện cũng đã tìm được nhà thầu mới.

Người ta nói nhà thầu mới là người tốt, còn tiếp tục xây nhà cho cả người đã chết.

Mùng một tháng chín năm nọ.

Cậu khai giảng, nhà khánh thành.

Lễ khánh thành, tòa nhà đối diện treo đầy biểu ngữ.

Hạ Thanh đeo cặp sách, gặm kem đậu xanh, đứng bên kia đường nhìn hàng chữ trên biểu ngữ màu đỏ thẫm.

[Nhiệt liệt chúc mừng vườn hoa Xuân Giang chính thức đi vào hoạt động]

[Ngụ ở thịnh thế, ngắm cảnh phồn hoa]

[Khu chung cư với hệ sinh thái hoàn toàn tự nhiên]

[Tiêu chuẩn mới về cuộc sống hòa mình cùng thiên nhiên]

Không khí vui mừng, ồn ào náo nhiệt.

Tất cả mọi người đều rất phấn khởi.

Nhà thầu phấn khởi, người mua nhà phấn khởi, những người xung quanh cũng phấn khởi—- thầm nghĩ cái thứ khỉ ho cò gáy làm phiền cuộc sống người dân rốt cuộc cũng kết thúc rồi.

Mà Hạ Thanh nhìn lên tầng cao nhất, con ngươi màu nâu nhạt lặng lẽ như mặt hồ ngày vắng gió.

Nhóc mập bên cạnh giục cậu: “Đi thôi Hạ Thanh còn lề mề gì đấy, làm xong bài tập hè chưa! Không nhanh chân đi chép bù đi hả?!”

Hạ Thanh ném que kem ăn hết vào thùng tác, nói với cậu ta: “Làm xong lâu rồi. Cậu đang chất vấn top 1 của khối đấy à?”

Nhóc mập mừng rõ: “Đệt quên mất cậu là đầu tàu học tập! Đầu tàu cho mượn vở chép với. Nhưng mà cậu nhìn cái gì vừa nãy đấy.”

Cọng tóc ngốc trên đỉnh đầu Hạ Thanh bị gió thổi dựng lên, ngẩn người chốc lát, nhẹ nhàng nói: “Nhìn lễ khánh thành.”

Giọng nói tiêu tan trong gió.

Nhóc mập: “Hả?”

Hạ Thanh không để tâm đến cậu ta nữa, đạp xe đến trường.

Tòa chung cư đối diện đã khánh thành, như dã thú ngoi lên mà sống, hết thảy nước mắt máu xương, phân tranh cãi vã, và oán hận không ngừng trong quá khứ đều bị vùi lấp dưới lòng đất tấc đất tấc vàng.

Hồi ức về trại mồ côi kết thúc trong ngày lễ khánh thành hôm ấy.

Mùi hoa linh vi lại truyền tới.

Lần này là làn gió biển ẩm ướt cuốn theo hơi sương mịt mù.

Trong ánh sáng mơ màng trắng xóa, Hạ Thanh lại loáng thoáng nghe được tiếng trò chuyện của ông già hôm nọ.

Hồn hậu và tang thương, như đòn cảnh tỉnh, như chuông sớm trống chiều.

Lão già nói: “Bể khổ cuồn cuộn, nghiệp nghiệt tự chiêu.”

Giọng nói non nớt của một đứa bé trai vang lên, xé mở bức màn ký ức.

“Sư phụ, nhiệp nhiệp là gì?”

Lão già phồng mồm trợn mắt: “Con đọc cho rõ ràng rồi hẵng hỏi ta!”

Một thanh niên dịu dàng bên cạnh cười nói: “Là nghiệp nghiệt, không phải nhiệp nhiệp.”

“Ồ. Vậy thì nhiệp nhiệp là gì.” Đứa bé trai tự nhận mình phát âm chính xác, giọng nói cực kỳ nghiêm túc.

Lão già đã chán chẳng buồn tức.

Người bên cạnh cười ngả cười nghiêng.

“Con đã bảo sư phụ đừng làm khó tiểu sư đệ nữa, đệ ấy có tinh thần học hỏi là tốt lắm rồi.”

Thế là, rốt cuộc nghiệp nghiệt có ý nghĩa gì đây…

Mọi hành vi, ngôn ngữ, tư tưởng đều xưng là nghiệp.

Mọi chuyện xấu, nguyên nhân xấu xa, kết quả thảm hại đều gọi là nghiệt.

Trong tiếng sóng biển rầm rì, lão già giao thanh kiếm cho cậu.

Thanh kiếm A Nan mang ý nghĩa ‘tươi vui’.

Lão già nói: “Con là người thích hợp nhất để sử dụng nó.”

“Tuy nhiên trước khi giao kiếm cho con, con phải hứa với ta hai chuyện.”

Đây là một chuyện rất quan trọng, rất quan trọng, quan trọng đến nỗi dù là ở trong mơ cậu vẫn cảm thấy hồi hộp trong tim.

Nhưng Hạ Thanh không sao nhớ nổi là chuyện gì.

Khi Hạ Thanh tỉnh lại, trời đã vào trưa.

Lâu Quan Tuyết ngồi đọc sách bên cạnh cậu.

Hạ Thanh phát ngốc hồi lâu, đột nhiên sà tới như chó con, mũi cọ thẳng lên áo hắn.

Lâu Quan Tuyết đặt sách xuống, đưa tay giữ vai cậu, ngăn chặn hành vi của cậu, nhíu mày khe khẽ: “Ngươi ngủ ngu rồi?”

Hạ Thanh nói: “Người ngươi có mùi.”

Lâu Quan Tuyết cười nhẹ: “Ồ, thơm sao.”

Hạ Thanh khựng lại: “Thơm cục cứt.”

Lâu Quan Tuyết mặc long bào màu đen, cổ áo đỏ nhạt, từ góc độ của Hạ Thanh bây giờ có thể nhìn thấy xương quai xanh của hắn. Hắn nghe vậy cũng không nổi giận, lạnh nhạt nói: “Không thơm sao ngươi còn đến gần?”

Hạ Thanh nói: “Ta chỉ muốn ngửi rõ xem có phải mùi hoa linh vi không mà thôi.”

Lâu Quan Tuyết cong khóe miệng: “Ngươi gặp hoa linh vi rồi? Biết nó có mùi hương thế nào sao?”

Hạ Thanh không đáp.

Lâu Quan Tuyết buông mi: “À, ngươi gặp rồi, ở trong chướng của ta.”

“…”

Hạ Thanh cảm thấy mình cũng ngủ ngu thật, buồn bực bắt đầu nắm tóc, sau đó ngồi trở về chỗ một cách đàng hoàng tử tế. Nhưng cậu vẫn không nhịn được, mở miệng: “Mùi hoa linh vi có thể gây ảo giác cho người khác được không?”

Lâu Quan Tuyết cho cậu một đáp án lập lờ: “Có thể.”

Hạ Thanh thở hắt ra một hơi thật dài.

Là ảo giác sao, là ảo giác thì tốt rồi.

Lâu Quan Tuyết đặt sách xuống, rũ mắt nhìn sang: “Ngươi gặp ác mộng à?”

Hạ Thanh cũng không định giấu giếm: “Phải.”

Lâu Quan Tuyết hờ hững: “Mơ thấy điều gì?”

“Vài chuyện khi còn bé.” Hạ Thanh vô cùng phiền muộn: “Nhưng có vài ký ức ta cảm giác không phải của mình.”

Lâu Quan Tuyết cười, chậm rãi nói: “Là vậy sao, ta còn tưởng rằng ngươi mơ ác mộng là mộng thấy ta kìa.”

Hạ Thanh phát nghẹn: “Ngươi cũng tự giác đấy. Nhưng thôi bỏ đi, mơ thấy ngươi đã giật mình tỉnh giấc từ lâu rồi, nội dung này ta chẳng dám mơ.” Tâm trí mơ màng của cậu bỗng tỉnh táo hơn một chút, nhìn ngọc quan vấn tóc cẩn thận trên đầu Lâu Quan Tuyết, kinh ngạc hỏi: “Ngươi lên triều xong về rồi?”

Lâu Quan Tuyết: “Ta không vào triều.”

Hạ Thanh ngờ vực: “Hở, tại sao?”

Lâu Quan Tuyết nhìn cậu một cái, hời hợt: “Không phải ngươi không rời khỏi ta được sao?”

Hạ Thanh sửng sốt, ngẫm nghĩ hồi lâu tâm tình lại trở nên phức tạp, lúng túng đáp một tiếng: “À”. Im lặng cả ngày, lại bổ sung một câu khô khốc: “Cảm ơn.”

Ngón tay Lâu Quan Tuyết gõ lên bàn, ngước mắt, bỗng nói: “Muốn đi xem thành Lăng Quang không, hôm nay ta dẫn ngươi ra ngoài.”

“!”

Hạ Thanh lập tức xốc tinh thần, cặp mắt phát sáng, rầu rĩ vừa rồi bay khoắng đi đâu hết, hồ hởi nói: “Được! Thật không!” Thì ra phá chướng còn có thể khiến Lâu Quan Tuyết trở lại làm người bình thường?!

Cậu đã muốn đi ngắm thành Lăng Quang từ lâu lắm rồi!

Lâu Quan Tuyết đổi thường phục, những người tận mắt thấy hắn ở nước Sở này không nhiều, cũng không cần quá câu nệ.

Khi đi qua Ngự hoa viên, nhìn thấy diều giấy và hồ lô rợp trời rợp đất, Hạ Thanh chỉ cảm giác tê dọc sống lưng.

Cậu cũng không dám nghĩ, Lâu Quan Tuyết nhìn thấy những kẻ đem hai thứ đáng ghét nhất tuổi thơ của hắn ra câu dẫn hắn, sẽ có tâm trạng gì.

“Muốn hỏi gì thì cứ hỏi đi.” Lâu Quan Tuyết đối diện với ánh mắt ngờ vực thậm thụt của cậu, cười khẽ, dịu dàng như chi lan ngọc thụ.

Hạ Thanh liền hỏi: “Sao ngươi lại nói mình thích kẹo hồ lô và diều giấy?”

Đấy chẳng phải là loan tin bậy, để cho cả đám người điên cuồng nhảy xuống cái hố mình đào à.

Lâu Quan Tuyết ngẫm nghĩ một lát, đáp: “Bọn họ thích đoán ý ta như vậy, tùy tiện cho họ một đáp án mà thôi.”

Hạ Thanh: “… Ngươi rốt cuộc là đang hành hạ họ hay là đang hành mình.”

Lâu Quan Tuyết cười nói: “Sao có thể coi là hành hạ được.”

Hạ Thanh nghẹn thêm phát nữa, mím môi không nói.

Dù đã từng gặp gỡ Lâu Quan Tuyết năm tuổi, biết được chấp niệm nặng nhất trong ký ức hắn, nhưng Hạ Thanh vẫn không dám nói mình hiểu thấu được hắn. Chung quy, từ năm tuổi đến mười lăm tuổi, mười năm này đã xảy ra những chuyện gì, cơ bản không thể nào biết rõ, mọi điều về Lâu Quan Tuyết vẫn nằm gọn lỏn trong một dấu chấm hỏi.

Thành Lăng Quang quả không phụ sự kỳ vọng của Hạ Thanh.

Đế đô nước Sở, phồn hưng thịnh thế, vô cùng náo nhiệt và sầm uất. Chốc chốc lại có một tòa lầu cao trăm thước, đường xá ngang dọc khắp nơi. Đâu đâu cũng thấy phố phường nhộn nhịp, lữ khách thương nhân nối liền không dứt.

Dạo gần đây có một nhóm người mới tinh đặt chân đến Lăng Quang.

Bọn họ mặc áo đạo bào rộng lớn màu xanh đen, tay cầm la bàn hoặc bội kiếm, cốt cách tiên nhân, cằm hếch thẳng lên trời.

Hạ Thanh vẫn giữ nguyên điệu bộ quái dị của mình, vừa đi vừa ngó tới ngó lui, đến khi tầm mắt rơi lên người đám đạo sĩ, mới chợt sửng sốt.

“Nơi này có cả đạo sĩ luôn à.”

Lâu Quan Tuyết đeo mặt nạ, “ừ” một tiếng lạnh hều.

Hạ Thanh lại nhìn về phía bên kia đường.

Một người bán hàng vô tình va phải áo ngoài của tên đạo sĩ, lập tức bị đạo sĩ lạnh lùng gọi lại. Người bán hàng kinh hãi quỳ xuống, vừa bò vừa phủi áo cho đối phương, sau bị đạo sĩ chán ghét đá văng ra ngoài, đồng thời chửi mắng: “Đừng chạm vào ta.”

“…”

Hạ Thanh trông mà trợn mắt há mồm. Không kiềm được bất bình, tiện tay cầm một quả gì đó bên cạnh, nhân lúc người đi đường đông đúc ồn ào chẳng ai chú ý, mạnh tay ném thẳng vào đầu tên tu sĩ nọ.

Tu sĩ còn đang định ra oai, tự dưng gặp phải họa từ đâu giáng xuống, bị ném sưng đỏ cả da. “A!” Gã kêu lên một tiếng, ôm trán, dáo dác nhìn xung quanh, nhưng căn bản chẳng phát hiện được kẻ nào ra tay, cho rằng có cao nhân rình trong bóng tối, sắc mặt thoáng hoảng hốt, phất tay áo chửi xui xẻo một tiếng rồi rời đi.

Hạ Thanh trào phúng: “Chỉ có thế? Này cũng là đạo sĩ? Còn chẳng tu hành ra đâu vào đâu đã dám khinh người như vậy.”

Lâu Quan Tuyết cười nói: “Trước mặt người quyền quý bọn họ không có điệu bộ này.”

Hạ Thanh nghệt mặt.

Lâu Quan Tuyết nhìn về phía trước như ngẫm nghĩ điều gì, rồi lại nói: “Những môn đạo có chút thực lực hiện giờ, đoán chừng đều được dưỡng trong ba nhà Ngô Vệ Yến.”

“…”

Hạ Thanh đã hiểu, đám đạo sĩ này cũng chẳng khác một số tên giả thần giả quỷ đi lòe thiên hạ ở thế giới hiện đại gì lắm.

Lâu Quan Tuyết không có hứng thú với Lăng Quang, hỏi hắn: “Ngươi muốn đi nơi nào?”

Hạ Thanh dời mắt khỏi đám đạo sĩ áo xanh đen, tình cờ liếc thấy một quán trà, ngẩn người một giây, rồi bừng bừng hứng thú nói: “Lâu Quan Tuyết, ta muốn đi nghe kể chuyện.”

Giờ cậu đang tò mò với mọi điều của thế giới ngày xưa.

Vẻ mặt Lâu Quan Tuyết trở nên quái lạ: “Nghe kể chuyện?” Hắn có vẻ lạnh nhạt, không nói không rằng, nhưng vẫn chiều ý Hạ Thanh.

Mặc dù đeo mặt nạ, nhưng khí chất được rèn nên do sống trong nhung lụa của Lâu Quan Tuyết vừa nhìn đã biết là một công tử thế gia, đám sai vặt không dám xem nhẹ, dẫn hắn vào trong một gian phòng riêng tư trên tầng cao nhất. Đương nhiên tiên nữ cành vàng lá ngọc sẽ không ăn đồ trần tục bên ngoài, hoa quả bánh ngọt đều vào tất miệng Hạ Thanh.

Lâu Quan Tuyết một tay chống cằm, ánh nhìn nhắm thẳng vào người kể chuyện ngay chính giữa tầng một.

Truyện của người kể chuyện luôn phải hợp thời.

Vừa hay gặp dịp tu sĩ thiên hạ tề tựu về Lăng Quang, liền kể câu chuyện tổ tiên nước Sở dẫn theo đám tu sĩ đi chinh phục Biển Thông Thiên. Trong [Những mẩu chuyện vặt ở Châu Đông] chỉ được miêu tả hời hợt sơ sài, vậy mà vào miệng người kể chuyện lại thành một chuyến phiêu lưu thần kỳ và kích thích.

Tu sĩ môn khách bản lĩnh cao cường, trải qua nguy hiểm chồng chất, gian khổ trập trùng, mới đẩy lùi được tộc giao nhân chuyên gây sóng gió trên biển lớn.

Tổ tiên loại trừ muôn vàn gian khổ, cuối cùng đến được Thần cung, vinh dự được Thần ban phước, bảo vệ nước Sở thịnh thế suốt trăm năm.

Hạ Thanh nghe mà sắp ngủ. Âm thầm lẩm bẩm, riêng cái đám tu sĩ hôm nay cậu gặp, đi cũng chỉ tổ nhét kẽ răng cho tộc giao nhân.

Tuy nhiên vì sao giao tộc lại rơi vào bước đường như bây giờ?

Chẳng phải bá chủ biển khơi trong truyền thuyết hay sao. Cậu nhớ đến hồi ức trong chướng, khí thế Dao Kha bày ra trước khi chết vô cùng mạnh mẽ, cực độ phi thường.

Rầm. Lúc này đột nhiên người kể chuyện vỗ mạnh xuống bàn, kéo Hạ Thanh trở về thực tại.

Người kể chuyện nói: “Nhắc đến tu sĩ, ta không thể không nhắc tới Đại tế tư của điện Kinh Thế chúng ta. Đại tế tư ban đầu là người đứng đầu mọi tu sĩ, một kiếm Tư Phàm, bóng ảnh thoáng chớp, biển rền núi nghiêng. Nghe nói Đại tế tư đến từ Bồng Lai, chư vị có biết về Bồng Lai không?”

Dân chúng cười nói: “Núi tiên ngoài biển, ai còn không hay, ai còn không hiểu.”

Có khách ngồi nghe nghi ngờ hỏi: “Nhưng không phải Bồng Lai là giả thôi hả? Đã nhiều năm như vậy, người từ Châu Đông lên đường tìm Biển Thông Thiên đông đến thế, mà đều không thăm dò được tin tức gì.”

Người khác tiếp lời: “Đúng vậy, năm xưa tổ tiên đã đến tận cùng Biển Thông Thiên, vậy mà sử sách cũng không đề cập tới nơi này, chỉ nói qua loa đại khái.”

Người kể chuyện vuốt râu lắc đầu: “Không phải vậy. Bồng Lai là một vùng đất rất linh, đạo sĩ thành thánh, dĩ nhiên chỉ là sự tồn tại hư vô mờ ảo, không phải là nơi mà người thường có thể tìm thấy được—- cũng chỉ có đảo Bồng Lai, mới có thể bồi dưỡng ra một vị kiếm tu thoát khỏi thân xác phàm tục không chết không già như Đại tế tư. Tuy kiếm gọi Tư Phàm, nhưng Đại tế tư tu đạo thương sinh (chúng sinh), đạo thương sinh, nguyện vọng thương xót chúng sinh, bảo vệ thiên hạ thái bình, có lẽ cũng là đạo gần với chữ ‘Phàm’ nhất trong ba nghìn đạo pháp. Nghe nói Đại tế tư từng có một người vợ là thanh mai trúc mã kết tóc thành phu thê, vợ chồng tình thâm, hẹn thề sinh tử, nhưng bởi ngài nhập đạo thương sinh mà lựa chọn hòa ly, từ đây không còn chung đường thêm nữa.”

Ngân dài lời than thở.

Lại có người ngờ vực nói: “Nhưng mà ta chưa thấy Đại tế tư dùng kiếm bao giờ.”

Có người lập tức phản bác: “Thời buổi thái bình cớ gì phải dùng kiếm.”

“Đúng vậy, thời phồn thịnh cần gì xuất kiếm.”

Một người khác lại hỏi: “Vậy thì kiếm Tư Phàm là kiếm vô địch thiên hạ à?”

Người kể chuyện ngẩn người, hắn ta có thể trở thành người kể chuyện trong tửu điếm xa hoa tại đô thành sầm uất, dĩ nhiên cũng phải biết đó biết đây.

Đi qua đất bắc trời nam, mấy chuyện tạp nham hỗn loạn đều nghe qua một lần. Suy nghĩ phiêu du thoáng chốc, người kể chuyện lắc đầu nhấp một ngụm trà, rồi mới chần chừ mở miệng: “Thanh kiếm vô địch thiên hạ, chưa chắc đã là Tư Phàm.”

Dân tình xung quanh lấy làm hứng thú.

“Ồ? Ngươi kể thử xem sao.”

Người kể chuyện có chút không chắc chắn: “Ta cũng không nhớ rõ đã nghe kể từ đâu, có thể là từ miệng một tên ăn mày nào đó, cũng có thể là từ sách cổ xa xưa.”

Hắn ta nói với vẻ đầy bí ẩn: “Thanh kiếm đệ nhất thiên hạ, tên gọi là A Nan.”

Hạ Thanh đang gặm một quả đào, nghe thấy câu này, suýt thì nuốt nhầm cả hạt.

Bị sặc đến mức kịch liệt ho khan, nước mắt ròng ròng.

Lâu Quan Tuyết phía đối diện nhìn cậu một cái.

Hạ Thanh bóp cổ mình, suýt thì chết ngất.

Suýt chết suýt chết, suýt thì bị nghẹn cho toi đời.

Bên dưới đã truyền lên những tiếng xì xào: “A Nan à? Đây thật là tên kiếm? Nghe giống như từ của Phật giáo.”

“Kiếm A Nan, sao ta chưa bao giờ nghe thấy cái tên này. Về lý thuyết nếu đã là thanh kiếm đứng đầu thiên hạ, vậy thì chủ nhân thanh kiếm ắt hẳn rất vang danh.”

Người kể chuyện bật cười, gác lại chuyện này: “Chẳng qua là một truyền thuyết lâu đời mà thôi, không đáng tin không đáng tin. Ta tiện miệng nói bừa, mọi người hãy bỏ ngoài tai.”

Cuối cùng Hạ Thanh cũng nguôi ngoai cơn sặc, khóe mắt đỏ bừng, ứa cả nước mắt, nhìn Lâu Quan Tuyết nói: “Hắn ta vừa nói kiếm gì, kiếm A Nan?”

Tầm nhìn của Lâu Quan Tuyết rơi trên đuôi mắt ửng đỏ của cậu, lấy làm thú vị mà dừng lại vài giây, đoạn gật đầu.

Hạ Thanh đần cả mặt, không tài nào tin nổi: “Sáng ta vừa bảo ta mơ một giấc mơ không thuộc về mình phải không.”

Lâu Quan Tuyết mỉm cười: “Ừ, ngươi đã nói vậy.”

Hạ Thanh xưa nay không thích giấu chuyện trong lòng, tỏ ra hốt hoảng: “Ta mơ thấy kiếm A Nan! Mơ thấy có người nói muốn giao nó cho ta, còn muốn ta phải đồng ý một chuyện trước đã.”

Lâu Quan Tuyết cười khẽ thành tiếng, đưa lời nhận xét: “Ừm, ngươi đúng là gì cũng dám mộng.”

Hạ Thanh: “…” không tin thì thôi!

Hạ Thanh bây giờ chỉ cần một người lắng nghe tâm sự, cậu rất chi là kinh hãi: “Nhưng ta chắc chắn ta không phải chủ nhân kiếm A Nan.”

Lâu Quan Tuyết ngờ vực hỏi: “Tại sao?”

Hạ Thanh: “Không biết, chỉ là rất chắc chắn.”

Lâu Quan Tuyết chậm rãi mỉm cười: “Đừng nóng vội, sẽ luôn có lý do, từ từ suy nghĩ.”

Hạ Thanh khi phiền chỉ thích túm tóc, cậu nghi ngờ cậu vốn không có cọng tóc ngố chết người kia, mà là do bị mình túm bật ra ngoài.

Rất phiền muộn, thực sự rất phiền muộn.

Cậu vô cùng kháng cự chuyện này.

Thế nên sau khi nghe Lâu Quan Tuyết nói rằng hoa linh vi có thể gây ảo giác, mới thở phào nhẹ nhõm.

Không tìm ra nguồn cớ.

Hạ Thanh mím môi rất chặt, do dự hồi lâu mới mở miệng, giọng nói hơi khàn, nhỏ tiếng nói: “Ta chỉ cảm thấy, nếu ta là chủ nhân kiếm A Nan, vậy thì hiện giờ nó phải đang ở trong tay ta…”

Lâu Quan Tuyết nhìn sắc mặt cậu, tay gõ nhịp lên bàn, cười nói: “Được rồi, đừng nghĩ nữa. Không phải thì không phải vậy.”

Hạ Thanh vẫn cúi đầu không đáp một lời, phiền muộn đến mức chân mày xoắn lại.

Dù là Bồng Lai hay kiếm Tư Phàm, đều cách biệt cuộc sống người thường quá xa. Người kể chuyện bắt đầu nói đến vấn đề xôn xao huyên náo trong thành mấy ngày hôm nay. Gã ngang tàng nhà họ Yến và công tử phong hoa nhà họ Vệ xảy ra tranh chấp, ồn ào cả đến triều đình, thậm chí còn khiến Đế vương thiếu niên lấy làm hứng thú.

Ba người bị một giao nhân làm cho khuynh đảo.

Mọi người cổ vũ không ngừng.

Hạ Thanh cũng bị mẩu chuyện ái tình này làm cho kinh khiếp đến tỉnh hồn, theo bản năng liếc nhìn Đế vương thiếu niên đang ngồi ngay đối diện.

Lâu Quan Tuyết ngước mắt, bật cười: “Không phải ngày đó ngươi chứng kiến toàn bộ sao.”

Hạ Thanh tò mò hỏi: “Ngươi hứng thú không.”

Lâu Quan Tuyết nhìn cậu chằm chằm, mỉm cười: “Ngươi thấy thế nào.”

Hạ Thanh: “…” Cậu cảm giác cũng không có lắm…

Người kể chuyện tiếp tục nói.

“Bệ hạ là vua nước Sở, giai nhân tuyệt sắc người đã nhìn chán chê rồi, kẻ có thể khiến người hứng thú chắc chắn phải có điểm đặc biệt. Nghe nói hiện giờ tại lầu Phong Nguyệt, cô nương Tuyền Già đã đáng giá nghìn vàng một lần gặp gỡ!”

Tuyền Già. Hạ Thanh nhủ thầm trong miệng.

Quần chúng luôn thích chuyện phong hoa của người khác.

“Bệ hạ được khen là châu ngọc Lăng Quang, bản thân đã có dung mạo tuyệt trần, lại thêm một thân khí thế vì lên ngôi từ khi còn rất trẻ. Người như vậy, chắc chắn sẽ thích những người đặc biệt, bất đồng với người thường.”

“Đoán chừng là gặp nhiều tiểu thư khuê các, quý nữ kinh thành, bây giờ muốn nếm thử loài hoa dại tràn trề nhựa sống.”

“Nghe nói con cái nhà quyền quý bây giờ cũng chán ngấy các nàng thùy mị nết na, chuyển sang thích đanh đá hài hước một chút.”

“Tóm lại là những nàng có thể mang lại nhiều hứng thú.”

Chủ đề càng bàn luận càng hăng say.

Hạ Thanh nghe chán nghe chê, thuận miệng hỏi đại khái một câu: “Rốt cuộc là ngươi thích loại nào.”

Lâu Quan Tuyết đúng là lần đầu bị người ta hỏi vấn đề này thẳng mặt, cười một tiếng, tuy nhiên hắn cũng không ngạc nhiên, đeo mặt nạ lên lần nữa, thờ ơ nói: “Không thích loại nào.”

Hạ Thanh: “… Được rồi.”

Ngại quá quên mất ngươi là tiên nữ.

Tiên nữ thì không có tình yêu.

Lâu Quan Tuyết đứng dậy: “Trở về cung thôi.”

Hạ Thanh đã đủ thỏa mãn: “Ừ.”

Khi bọn họ rời đi, đám đông vẫn đang thảo luận sôi nổi, cuối cùng đưa ra một kết luận thống nhất, nhóm thiếu niên thiên chi kiêu tử không thiếu thứ gì, sẽ chỉ cảm thấy hứng thú với những thiếu nữ có thể gây chú ý với họ.

Hạ Thanh âm thầm trào phúng, có thể thấy từ xưa đến nay đồng bào thẳng nam đều có chung một cái tật chó chết, dù ta chẳng có vợ nhưng ta lại cứ thích chọn vợ thay người.

Lúc ra khỏi quán trà, Lâu Quan Tuyết nở nụ cười châm chọc dưới lớp mặt nạ bằng bạc, nhẹ giọng nói với Hạ Thanh: “Rất nhiều người trong cung đều nghĩ như vậy. Cớ gì mọi người lại cho rằng, trí tò mò của ta rất nặng đây nhỉ.”

Hạ Thanh: “… Ngươi đúng thật là không có trí tò mò.”

Đã gặp gỡ Lâu Quan Tuyết tuổi nhỏ, thế nên hiện giờ Hạ Thanh chẳng có chút sợ hãi nào.

Lâu Quan Tuyết từ bé đã bạo ngược tận xương.

Năm tuổi đã có thể mỉa mai nhận xét những lời như “Sao ta có thể có tâm ma được đây. Kiếp này ta đã đủ xui xẻo lắm rồi, còn sinh tâm ma giày vò chính bản thân mình, đầu óc ta bị nước vào hay sao?”. Có thể thấy hắn sống rất rõ ràng, tỉnh táo và lý trí.

Hiện giờ học tập ngữ điệu của hắn đổi cách thức đặt câu sẽ là. “Tùy tiện vì một người đàn bà mà sinh lòng hứng thú, ta ham học hỏi đến mức này hay sao?”

Nghĩ ngợi linh tinh một hồi, Hạ Thanh tự chọc cho mình cười phụt.

Cậu không thể không thừa nhận, trong chướng, cậu đã bị rung động bởi dã tính và khát vọng cầu sinh từ ánh nhìn của Lâu Quan Tuyết.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.