Kinh Thành Về Đêm (Dạ Lan Kinh Hoa)

Chương 47: Chiều hôm sâu thẳm ở bắc bình (1)



Ga tàu Thiên Tân.

Bên cạnh cầu vượt nhà ga, một mình Trịnh Độ ngồi trên ghế chờ, hai phía khu vực chờ toa hạng nhất đều kín người canh giữ. Ở chỗ bóng râm, một người phụ nữ có đôi mắt to sóng sánh mặc chiếc áo sơ mi vải sa tanh cùng váy dài, bộ dáng được chăm sóc kỹ lưỡng nhìn như chỉ mới ngoài ba mươi. Cô ấy tò mò hỏi Hà Vị: “Anh Thanh nhà chúng tôi, ngoại trừ một chút thanh danh, còn lại đều là hai bàn tay trắng, sao lọt vào mắt xanh của cô hai thế?”

Hà Vị mặc một chiếc váy liền thân xanh nhạt dài đến mắt cá chân, mái tóc mềm được kẹp gọn sau đầu, đứng bên cạnh Tạ Vụ Thanh đang chống gậy, bất ngờ nghe hỏi như thế, không khỏi bật cười, đối diện nhìn Tạ Vụ Thanh.

“Ở thời loạn thế, công danh dễ tìm, nhưng thanh danh khó có được”, Trịnh Độ gõ điếu thuốc trên tay, “Có điều quá khứ của anh Vụ Thanh đây, so với Trịnh Độ tôi cũng kẻ tám lạng người nửa cân, thanh danh chẳng tốt mấy”.

Trịnh Sính Tích không quan tâm đến em trai út nhà mình, vui sướng quan sát đôi bích nhân trước mặt, nắm lấy tay Hà Vị: “Vị Vị nhớ kỹ trong lòng, chị chính là chị gái ruột của Tạ Vụ Thanh, sau này gặp chuyện khó khăn, cứ việc lên tiếng, chị ba sẽ giúp em”.

Hà Vị khẽ gật đầu.

Hiện tại chiến tranh khắp nơi, nhóm quân phiệt mới cùng chính phủ Nam Kinh giằng co đã mấy tháng.

Chỉ có quân Đông Bắc vẫn án binh bất động, họ đang chờ Bắc Bình và Nam Kinh phân rõ thắng bại. Chị em Trịnh gia không tiện đến Bắc Bình thời điểm này, sau khi tiễn Tạ Vụ Thanh ở Thiên Tân, cũng sẽ quay về quan ngoại.

“Cục diện Bắc Bình không rõ”, Trịnh Sính Tích nói, “Vì hai chị gái của mình, em cũng phải tự bảo trọng”.

Cô dặn dò xong, nhìn theo đoàn người của họ lên xe.

Hà Vị ngồi cạnh cửa sổ, nhìn Trịnh Sính Tích vẫn đứng trên sân ga không chịu rời đi, nhỏ giọng hỏi Tạ Vụ Thanh: “Tên của cô ba Trịnh gia này rất giống tên chị anh”.

“Sính Tích là tên chị ba anh”, Tạ Vụ Thanh xuyên qua rèm cửa vàng nhạt nhìn Trịnh Sính Tích, “Chị ba anh vừa mất, chị ấy cũng đổi tên”.

Mấy năm trước, khi anh nhìn thấy cô ba Trịnh gia ở Phụng Thiên, vẫn là mái tóc xoăn dài, hiện tại người kia đã để kiểu tóc giống chị ba anh.

Tiếng còi xông lên tận trời, bánh xe nghiền qua đường ray, mang theo những toa tàu đầy ắp người rời đi.

Trịnh Sính Tích không nỡ theo sau tàu mấy bước. Lần đầu gặp lại Tạ Vụ Thanh cô không nén được vui mừng, nhưng hiện tại từ biệt, đột nhiên cảm thấy đau lòng không khác gì năm đó, tựa như trơ mắt nhìn cô ba Tạ ra đi, nước mắt bất tri bất giác rơi xuống.

“Chị”, Trịnh Độ không muốn thấy chị ruột khóc, cất điếu thuốc vào, “Cần gì phải thế, đã nhiều năm như vậy”.

“Em nghĩ chỉ có mấy năm à…”

Đối với Tạ Sính Tích mà nói, đã hết một đời rồi.

Tàu chạy tới khúc cua, Hà Vị nhìn ra cửa sổ, không thấy ga tàu nữa, chỉ có bầu trời ẩm ướt, từng toa tàu nối đuôi nhau, đường ray xen kẽ trên đá trắng.

Vì đang mùa hè, hai bên đường sắt mọc đầy cỏ dại, cao hơn nửa người, tàu hoả chạy ngang cuốn lên gió thốc xiêu vẹo một bên.

Một trận gió mạnh mang theo hơi nóng thổi tới, gò má ê ẩm.

Hà Vị đóng cửa sổ.

Cô và Tạ Vụ Thanh mỗi người đặt một phòng riêng. Vì Tư Niên ngủ trưa cách vách nên Tạ Vụ Thanh đã lệnh quan quân mang công việc lớn nhỏ dọn hết sang chỗ này, nhường lại gian phòng kia.

Cô quan sát các quan quân lắp đặt thử máy đánh chữ, có người kết nối điện cho máy điện báo, nguồn điện được gắn vào một bộ phận phát điện tay cầm màu nâu đỏ. Trong lúc họ bận rộn, Tạ Vụ Thanh nhàn nhã ngồi trên sô pha, mở ra tấm bản đồ Bắc Bình mới nhất được ghi chú tỉ mỉ trên bàn trà bằng đá cẩm thạch.

“Lần này tới Bắc Bình vẫn ở khách sạn Lục Quốc”, anh nắm tay cô, kéo cô ngồi bên cạnh, “Điểm liên lạc của chúng ta phải đặt quanh khu vực sứ quán và lãnh sự quán mới an toàn”.

Cô “vâng” một tiếng. Hiện giờ các nhóm quân phiệt mới đều tụ về Bắc Bình, nếu anh không ở ngõ Đông Giao Dân, ngược lại càng khiến cô sầu lo.

Tàu chạy chưa đến mười phút, Thiên Tân gửi đến một bức điện báo: Thất phu già đầu, đi không nói năng.

Tạ Vụ Thanh đọc xong phì cười.

“Các anh ngày thường cũng gửi điện báo như thế à?” Cô nhoẻn miệng hỏi.

“Còn khó nghe hơn”, anh nói, “Họ biết vợ anh đang bên cạnh nên không dám nói nhiều”.

Tàu vừa vào khu vực Bắc Bình đã bị chặn lại, dừng tạm ở một trạm nhỏ chờ kiểm tra.

Lần này ra Bắc, Tạ Vụ Thanh lấy cớ dưỡng bệnh, nhờ bạn cũ xin giấy thông hành. Người kiểm tra từng toa tàu, đến chỗ nối liền hai toa đã được trình giấy thông hành, thấp giọng thương lượng một hồi mới quyết định không quấy rầy vị tướng quân đã rửa tay gác kiếm.

Lát sau, Lâm Kiêu đưa một tấm danh thiếp. Họ Chúc, tên Chúc Khiêm Hoài.

Chúc tiên sinh? Cô ngạc nhiên.

Năm ấy sau khi Phụng hệ thất bại đã lui về quan ngoại, Chúc tiên sinh cũng biến mất từ đó. Người trong kinh đồn đãi, nói Chúc tiên sinh bị một vị quân phiệt giam giữ, mang theo hắn cùng rời khỏi nơi này.

“Mời người đó vào”. Tạ Vụ Thanh  lên tiếng.

Chúc Khiêm Hoài đã lâu không gặp vẫn mặc bộ tây trang vàng nhạt như trước kia, tóc vuốt bóng loáng kỹ càng, ngoại trừ đuôi mắt hằn nếp nhăn thì không thay đổi nhiều. Hắn trông thấy Tạ Vụ Thanh và Hà Vị, mỉm cười miễn cưỡng: “Ở toa xe bên kia nghe người ta nói chỗ này có Tạ tiên sinh đến từ phương Nam, lại gặp được phó quan Lâm Kiêu, tôi liền đoán hẳn là tướng quân… Không ngờ cô hai cũng ở đây, làm phiền rồi”.

“Mời tiên sinh ngồi”. Hà Vị nhường sô pha đơn cho hắn.

“Không, không cần đâu”. Chúc Khiêm Hoài càng mất tự nhiên.

Khách đến không nói rõ ý đồ, cô và Tạ Vụ Thanh chỉ đành lệnh người pha trà, kiên nhẫn đợi.

“Tiên sinh gặp khó khăn gì sao?” Cô cười hỏi, “Nếu có việc cứ nói, không cần khách sáo”.

“Nhìn cô hai liền nhớ đến Hà thất tiên sinh”, Chúc Khiêm Hoài cười hiền, nhỏ giọng bảo, “Đầu óc lung tung, thất lễ quá”.

Hắn dõi mắt quan sát Tạ Vụ Thanh: “Tôi muốn hỏi một câu, mong tướng quân chớ trách”.

Tạ Vụ Thanh hơi gật đầu, chờ hắn hỏi.

“Tướng quân Tạ Khanh Hoài…” Chúc Khiêm Hoài khẽ nói, “Đi thật rồi sao?”

Trong toa tàu nhất thời tĩnh lặng.

Tạ Vụ Thanh mỉm cười hỏi lại: “Vì sao Chúc tiên sinh lại hỏi về một kẻ bị phán tội chết từ lâu?”

Chúc Khiêm Hoài nhấc tách trà, thấp giọng đáp: “Tôi chỉ muốn biết, một người tốt như thế, thật sự không sống nổi ư?”

“Hắn chết rồi”, Tạ Vụ Thanh nói, “Bị xử bắn”.

Trong thinh lặng, Chúc Khiêm Hoài thở dài, rũ mắt nhìn lá trà ngâm trong tách.

Hà Vị không muốn hai người họ chìm trong không khí tang thương, cô ôn chuyện với Chúc Khiêm Hoài, hỏi thăm tình hình gần đây của hắn.

Chúc Khiêm Hoài như biết rõ lời đồn về mình, cũng không kể nhiều quá khứ, đa phần đều chỉ nói ở hiện tại. Lần này hắn về Bắc Bình vì muốn thi tuyển vào một trường sư phạm. Hát kịch nhiều năm nên Chúc Khiêm Hoài nghiên cứu không ít về lịch sử, tài học hơn người, hắn muốn trở thành một thầy giáo. “Vị hiệu trưởng trường sư phạm kia rất tôn sùng nền giáo dục bình dân”, Chúc Khiêm Hoài giải thích, “Giáo viên trong trường đều mặc áo dài dạy học, khi tan làm thì khoác áo vải lam cùng học trò làm đồng áng, học sinh cũng toàn xuất thân từ gia đình bần hàn, vừa học vừa làm. Tôi muốn góp một phần sức”.

Chúc Khiêm Hoài cúi đầu cười, nhấp thêm hai ngụm trà rồi vội vàng rời đi.

Nhìn ra được hắn đến chỉ để nghe ngóng tin tức của vị tướng quân Tạ Khanh Hoài mà mình ngưỡng mộ.

“Lúc trước em từng nói anh và Tạ Khanh Hoài quan hệ rất tốt, hắn hẳn còn nhớ kỹ”. Cô giải thích với Tạ Vụ Thanh.

Tạ Vụ Thanh khẽ gật đầu.

“Vừa nghe hắn nhắc đến cô bảy của em”, anh hỏi, “Có ẩn tình sao?”

“Vâng”, cô đáp, “Từ sau khi hắn biến mất khỏi Bắc Bình, nhiều lời đồn nói hắn đi theo quân phiệt. Trong lòng cô bảy luôn nhớ hắn, không tìm thấy người nên nản lòng, bỏ về Vũ Hán”.

“Có điều cô bảy đến Giang Nam, chủ yếu vì vận tải đường thuỷ Trường Giang”, cô lại kể tiếp, “Bản đồ vận tải đường thuỷ Hà gia quá rộng, dễ khiến người khác chú ý, em giả vờ cùng cô bảy náo loạn một trận, nói với người khác sẽ tách riêng, chuyển vận tải đường thuỷ Trường Giang ra ngoài”.

“Lô hàng của Bạch Cẩn Hành trước phải qua đường biển, sau đó đến hàng hải Trường Giang”, cô bổ sung, “Chuyện này quan trọng, sau khi em về kinh phải đích thân đi Vũ Hán một chuyến”.

Trong hoàng hôn mênh mông, tàu hoả đến ga Chính Dương Môn.

Trận chiến hiện tại ở Trung Nguyên đang tới hồi gay cấn, vì thế tàu hoả từ Nam chí Bắc, chỉ cần dừng ở ga Chính Dương Môn, đều mang theo không ít sĩ quan và binh lính bị thương.

Tạ Vụ Thanh chống gậy xuống xe.

Thời tiết ẩm ướt, gió nóng mang theo mùi máu tanh mà anh quen thuộc nhất trên chiến trường, cuốn qua phân nửa sân ga. Lâm Kiêu cẩn thận quan sát quân trang của tốp binh lính phía xa, sai người đi hỏi thăm tình hình bộ đội.

Danh tính bộ đội còn chưa hỏi rõ, đã có quan quân nhận ra Lâm Kiêu.

Lúc trước trên chiến trường, Tạ Khanh Hoài một đường ra Bắc, đánh đâu thắng đó không gì cản được, tuy chưa tiến vào thành Vũ Hán nhưng vị phó quan kiêm chức tham mưu tên gọi Lâm Kiêu thường xuyên ra vào toà văn phòng cùng tổng bộ thành Vũ Hán, thay tướng quân báo cáo tiến độ công việc. Lâm Kiêu trời sinh da thịt mịn màng, trông như một thư sinh, tất nhiên để lại ấn tượng sâu sắc với người khác.

Hà Vị cùng Tạ Vụ Thanh dọc theo sân ga ra ngoài, dẫn theo mấy người Hà gia. Đám người Lâm Kiêu cố tình tách riêng, đi vào một cánh cửa khác, bọn họ không mặc quân phục, chỉ diện loại áo vải bình thường nhất, xách theo vali hành lý bằng da đựng thiết bị liên lạc quan trọng.

Có mấy sĩ quan nhỏ giọng bàn tán, đó là thuộc hạ cũ của Tạ Khanh Hoài.

Người nhận ra Lâm Kiêu, kính trọng gật đầu chào hắn.

“Mọi người rất tôn kính các anh”. Cô nói.

Tạ Vụ Thanh không đáp, chỉ thoáng liếc qua những người hành quân lễ với Lâm Kiêu.

Bên ngoài ga Chính Dương Môn, một loạt xe kéo chờ sẵn. 

Chỗ này để lại ấn tượng đặc biệt với cô và Tạ Vụ Thanh.

Tạ Vụ Thanh dừng chân ngoài cổng lớn, nhìn qua khu đất vàng sẫm đỗ xe kéo, bị ánh mặt trời ngày nắng chang chang hong khô, dưới bánh xe cuốn theo từng lớp bụi đất mịt mù. Đó là nơi Triệu Dư Thành bỏ mình.

Cổng thành xám xịt nguy nga, từng đoàn lữ khách lũ lượt nối đuôi nhau, còn có chiều hôm ở Bắc Bình, đều bày ra trước mắt anh.

Qua mấy năm, anh lần nữa quay về Chính Dương Môn.

Hai chiếc xe kéo lần lượt dừng trước đầu đường mới ở Nam phố, Khấu Thanh ngồi xe sau móc ra bốn đồng tiền đưa cho hai người kéo xe.

Đáng lẽ chỉ đáng một đồng, nhưng lại cho gấp đôi. Hai người kéo xe cười rộ nói cảm ơn, không chớp mắt nhìn theo bọn họ bước vào một ngõ nhỏ, thì thầm với nhau, đoán nhóm người này hẳn là giáo sư đại học mới đến Bắc Bình.

Ông bác trông nhà tuổi tác đã cao, có cảm tình sâu sắc với hai chú cháu Tạ gia, Hà Vị sợ ông không chịu nổi cú sốc nên mấy năm qua vẫn không nói chuyện Tạ gia thất bại, Tạ Vụ Thanh không rõ tung tích. Bên trong căn viện mấy chục năm vẫn không đổi, lá trúc xào xạc, vô cùng thoải mái. Dưới giàn nho, ông bác gánh theo một thùng nước đứng nơi râm mát tưới mấy tán bạc hà mới trồng, này do một lần Quân Khương đến thăm, thấy ông bác phiền não vì quá nhiều muỗi nên dạy ông mẹo nhỏ.

Tư Niên ngồi đường xa mệt mỏi, đang thiếp đi trong lòng Lâm Kiêu, hai bím tóc rũ bên má, càng làm nổi bật khuôn mặt nhỏ nhắn như ngọc bích.

Ông bác vừa thấy họ, miệng há to, từ kinh ngạc thành bật cười sang sảng, luôn miệng nói: “Nha đầu này thật giống mẹ, rất giống nha”.

Ông bác ném gáo hồ lô vào thùng nước, đẩy cửa sương phòng phía đông: “Chỗ này mát mẻ, để con bé vào nghỉ ngơi trước”.

Lâm Kiêu bế Tư Niên đến sương phòng, Khấu Thanh theo sát bên cạnh.

Ông bác ra ngoài, lúc này mới chú ý đến gậy chống trong tay Tạ Vụ Thanh, ông vốn thân thiết với lão tướng quân, đã quen thấy cảnh này, không trách móc chỉ hỏi: “Bị thương à?”

Tạ Vụ Thanh gật đầu: “Sớm khỏi thôi”.

Anh chậm rãi đi về trước, đẩy cửa chính phòng. Dưới đất không một hạt bụi, phía sau bình phong đang bật quạt điện.

Những tấm ảnh treo đầy tường không sai biệt, đặt đâu còn nguyên đấy.

Mọi người bận rộn khuân vác hành lý Tạ Vụ Thanh vào sân.

Tuy đã hoàng hôn nhưng tiết trời oi bức không đổi, Hà Vị khép cửa lại, khuấy đều ly nước ô mai ướp lạnh từ Hà gia đưa đến rồi kề bên miệng anh.

“Buổi tối muốn ăn gì?” Cô hỏi nhỏ, như tiếng thì thầm của những đôi vợ chồng mới cưới.

Lại nói thêm: “Trời nóng gay gắt, anh vẫn còn bị thương, không thể ăn mấy món từ mỡ lợn”.

“Vậy ăn hoa quả khô thế nào?”

Tim Hà Vị nảy một cái, hơi loạn nhịp.

“Lời nói lúc nhỏ vậy mà anh còn nhớ rõ”. Cô nói khẽ, kéo một cái ghế tròn đến ngồi trước mặt anh.

“Hiện giờ cũng chả lớn hơn bao nhiêu”, anh nói, “Tuổi hai mươi tư như hoa của cô hai chỉ mới qua thôi. Mà Tạ mỗ”, tay anh đặt lên thành ghế, lần nữa xắn gọn tay áo sơ mi bị xổ ra khi di chuyển lúc nãy, “Lớn tuổi vẫn không vợ, chẳng phải gọi là khoáng phu [1] ư?”

[1] Khoáng phu, danh từ chỉ những người đàn ông lớn tuổi mà chưa lấy vợ

Hà Vị định uống nước ô mai, bị anh chọc cười không tài nào uống nổi.

Mỗi khi người này trêu đùa, luôn có cảm giác yêu đương kiểu mới. Không đứng đắn gì cả.

“Để em bảo người mang váy cưới đến đây, còn có sơ mi âu phục may riêng cho anh nữa”, cô nghịch thìa sứ trắng, nói ra ý định, “Sau đó anh mặc thử xem, chắc là không sai lệch lắm. Dựa theo số đo trước đây của anh, hiện giờ anh chẳng béo nổi, ngược lại còn gầy hơn”.

Tạ Vụ Thanh im lặng một lát, bỗng hỏi: “Chuẩn bị xong lúc nào? Âu phục cưới của anh ấy?”

Anh đi để lại nửa tờ hôn thư, mà cô lại ở nhà chuẩn bị đồ cưới.

Cô mỉm cười, không muốn làm anh buồn, đặt bát lên bàn: “Không nhớ nữa”.

Lại nói tiếp: “Nếu gả từ tiểu viện Hà gia đến đây, chỉ e sẽ khiến người khác chú ý, không bằng từ sương phòng gả qua chính phòng. Ngày mai em tìm tiên sinh ở phòng kế toán đến xem ngày lành”.

Tạ Vụ Thanh định mở miệng, cô đã dùng mũi giày khẽ đá chân anh, ngăn lại: “Không được nói em thiệt thòi”.

Tạ Vụ Thanh là người ghét bày vẽ hình thức, nhưng luôn muốn mang những thứ tốt nhất cho Hà Vị.

Có điều ngoại trừ việc tự giữ mình, bảo vệ tốt bản thân cho cô, còn lại thứ gì cũng chưa từng có.

Ngay cả một món trang sức cũng không.

“Nếu anh có lòng, đợi ngày đất nước thái bình, mở tiệc đãi khách ở tám đại lâu, đăng trang nhất những tờ báo lớn kinh thành”. Cơ nhoẻn cười.

Tạ Vụ Thanh ngồi cách cô mấy bước, dưới giày da là mảnh đất Bắc Bình… Anh sững lại hồi lâu, khẽ gật đầu: “Được. Ngày đất nước thái bình, đãi tiệc ở tám đại lâu, toàn bộ mặt báo khắp Kinh – Tân – Thượng [2], đều sẽ đăng trang nhất”.

[2] Bắc Kinh – Thiên Tân – Thượng Hải

Lòng cô nhẹ nhõm, cười vang bảo: “Ba đầu báo lớn nhất, quý hoá quá”.

Anh cũng cười: “Tòng quân hai mươi lăm năm, chút lương bổng này vẫn tích cóp được”.

— HẾT CHƯƠNG 47 —


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.
Kinh Thành Về Đêm (Dạ Lan Kinh Hoa)

Chương 47: Rượu mạnh say đắm trăm hoa (4)



Trên sân khấu rạp hát ầm ĩ không chịu nổi, có người hét to “Chúc Tiểu Bồi”.

Không biết vị công tử trong phòng riêng nào tiên phong ném bạc xuống dưới, nhất thời tiếng trống thùng thùng như cuồng phong vũ bão, đồng bạc chói mắt từ trên trời rơi như mưa, bọn công tử đều sợ mình thua thiệt…

Mặc dù trên mặt Đặng Nguyên Sơ vẫn là nụ cười bất biến, nhưng cái nhếch môi chỉ hiện ngoài da mặt, vì một tiếng “Chúc Tiểu Bồi”, đôi mắt sau cặp kính thoáng hoảng hốt. Hắn do dự mấy lần, nhịn không nhìn dưới lầu.

“Chúc Tiểu Bồi này nổi tiếng thật”, Bạch Cẩn Hành không ở trong kinh nên không biết chuyện trước kia của Đặng Nguyên Sơ và Chúc Tiểu Bồi, hắn buông tách trà, cười nói, “Năm đó “Thời báo Thuận Thiên” có mở cuộc bình chọn vua giới hát xướng, có phải cô ấy đoạt quán quân không?”

Tạ Vụ Thanh gật đầu đáp: “Hồi trước ở kinh thành, quả thật là người nổi danh nhất”.

“Nổi danh ở kinh thành, sao lại đến Thiên Tân?”

Tạ Vụ Thanh khẽ lắc đầu: “Không rõ lắm”.

Dựa theo sự hiểu biết của cô với Tạ Vụ Thanh, đoàn được anh đang nói dối.

Cô thầm liếc Tạ Vụ Thanh.

Đặng Nguyên Sơ ngồi một lát, lấy cớ nói xuống lầu hít thở không khí, Bạch Cẩn Hành hiếm khi đến Thiên Tân, cũng muốn đi cùng hắn nhìn thử khu Tam Bất Quản nổi danh này, nhưng bị Tạ Vụ Thanh ngăn cản: “Để cậu ta tự đi đi”.

Bạch Cẩn Hành không phải người ngu ngốc, thấy Tạ Vụ Thanh và Hà Vị như giấu diếm gì đó, nhận thấy việc này có ẩn tình.

“Cậu ta có tâm sự à?” Bạch Cẩn Hnah2 hỏi.

Tạ Vụ Thanh cười không đáp.

Bạch Cẩn Hành nhìn sang Hà Vị. Cô nghĩ nếu không nói rõ ràng, sợ sau khi Đặng Nguyên Sơ quay lại vẫn phải nghe những lời vô thưởng vô phạt của Bạch Cẩn Hành, không khéo còn chạm vào tâm sự trong lòng, thế nên cô nói qua loa: “Cô ấy là tình cũ của Đặng Nguyên Sơ”.

Hà Vị quan sát khung cảnh náo nhiệt bên dưới, trông thấy Đặng Nguyên Sơ đi vào sau sân khấu, nhớ đến mùa xuân năm 28.

Liễu rũ đầy khắp thành, quân phiệt Phụng hệ chuẩn bị lui về quan ngoại. Bên trong Tứ Cửu Thành, nhóm quân phiệt cũ vẫn cuồng hoan không nhìn thấy ngày mai.

Chúc Tiểu Bồi lặng lẽ đến tứ hợp viện công ty vận tải, chờ gặp cô.

Chúc Tiểu Bồi sinh ra có một đôi mắt phượng, đường nét linh động, khi cô ấy xướng vở “Tây Sương Ký” liền nổi danh khắp trời nam bắc, dáng người uyển chuyển, lễ phép cẩn thận, sau khi bái lễ theo nghi thức trên sân khấu xưa với cô, nói rõ ý đồ tìm đến: Cô ấy bị một vị công tử nhà quân phiệt đeo bám, đối phương mỗi ngày đều đến Hội quán Hồ Quảng ngồi suốt một canh giờ, thề không cưới được cô sẽ không bỏ qua. Có điều đối với những con hát nổi danh như cô, loại chuyện này không hiếm gặp, người ủng hộ bọn họ rất nhiều, theo đuổi từ quan to cao quý, vương hầu tiền triều đến văn nhân mặc khách [1], không ai không có, nhiều lúc điên lên thứ gì cũng làm ra được. Đặng Nguyên Sơ không nhịn được, đuổi người kia đi, lại bị mười mấy khẩu súng chĩa vào người đàn áp…

[1] Những người trong giới thơ ca, văn từ. Ví dụ như nhà thơ, nhà văn…

May mắn lúc đó có người trong hội quán can ngăn, nhưng hận thù cũng kết. Cô sợ vị công tử kia bị tâm ma quấy phá, làm chuyện tổn hại Đặng Nguyên Sơ, nhưng không biết cầu tình ở đâu, phàm là những người quan to vinh hiển có ai không nghĩ cách dụ dỗ cô, nghĩ tới nghĩ lui, rốt cuộc tìm đến chỗ Hà Vị.

Hà Vị đồng ý nghĩ cách, cô nhác thấy Chúc Tiểu Bồi lo lắng, liền an ủi một tiếng: “Chuyện này, tôi sẽ không nói cho Đặng Nguyên Sơ biết”.

Chúc Tiểu Bồi yên tâm, nói lời cảm ơn rồi đi mất.

Hà Vị tìm một người lớn tuổi hỏi thăm, biết được đó là đứa con trai được vị quân phiệt kia chiều chuộng nhất, bèn tìm cách dấy lên đấu đá trong nhà hắn, khiến vị công tử kia bị áp chế lại. Có điều Chúc Tiểu Bồi là đào hát gặp thời, người theo đuổi đếm không xuể, cản được một tên, sẽ còn có người thứ hai, thứ ba tìm đến… Hai tháng sau, Chúc Tiểu Bồi lại đến tìm cô, một là nói lời cảm ơn, hai là chào tạm biệt. 

Chúc Tiểu Bồi ẩn ý nói, cô ấy và Đặng Nguyên Sơ sẽ tạm chia xa một thời gian.

“Lại có kẻ tuyên bố muốn giết anh ấy. Tôi lo lắng ngày nào đó sẽ thành sự thật. Giữa tôi và Đặng công tử, dù sao cũng phải có một người buông tay trước”. Chúc Tiểu Bồi rũ mắt, cười khổ nói, “Từ lúc tôi mười mấy tuổi đã bắt đầu hát “Tây Sương Ký”, trong kịch hát Trương công tử thi đỗ Trạng Nguyên, quay về cưới Thôi Oanh Oanh, không còn kẻ ác nào dám ngăn cản. Mà hiện giờ, cái gì cũng vô dụng, anh ấy cũng xem như từng có công danh, nhưng không thể dùng”.

Thất phu vô tội, hoài bích kỳ tội [2]

[2] “Thất phu” ý chỉ dân thường, “hoài bích” ý chỉ ngọc quý. Câu này xuất phát từ một điển cố xưa, đại khái nói rằng dân thường tàng trữ ngọc quý trong nhà là phạm luật, nếu không khai ra sẽ bị trị tội, nhưng lỗi không phải ở dân thường, mà do tàng trữ ngọc quý nên mới có tội. Hàm ý, trong một số việc, con người không có tội, tội của họ là vì mang thứ cao hơn thân phận và địa vị của mình. Câu này sau này còn ngầm chỉ những người có tài năng, nhan sắc thường bị kẻ khác ghen ghét, đố kị, hoặc chịu cảnh xã hội giày xéo. 

Năm đó Đặng Nguyên Sơ chính là một dân thường, mà Chúc Tiểu Bồi lại không khác gì Hoà Thị Bích. Trong thời buổi loạn lạc, dù cho hắn không màng tính mạng của mình, cũng không đủ sức gánh vác tình cảm này.

Chúc Tiểu Bồi muốn đặt chân đến Thiên Tân, cần Cửu tiên sinh hỗ trợ mới không bị những kẻ theo đuổi quấy rầy, tìm một nơi thanh tịnh sống ẩn dật. Trước khi đi, cô ấy để lại một phong thư cũ, là tiền thuê nhà một năm tới ở Thiên Tân, chỉ cần nhìn đã biết, về mặt tiền bạc cô ấy không cần ai giúp. Nhiều năm nổi tiếng, số tiền tích cóp cũng đủ cho cô sống an nhàn đến già.

“Lại phiền cô hai lo liệu”, cô ấy dịu dàng xin lỗi, “Nghĩ tới nghĩ lui, cũng có có cô hai mới thật tình giúp được tôi”.

“Tất thảy giao cho tôi đi”. Cô đồng ý.

Không lâu sau, Chúc Tiểu Bồi chuyển đến tô giới Thiên Tân, không quay về Tứ Cửu Thành nữa.

Đêm khuya trong viện.

Hà Vị xoã tóc dài tán loạn, nằm trong góc sô pha, gác một chân không mang tất lên chân bình thường của anh. Bàn chân lặng lẽ vuốt ve vải quần quân đội của Tạ Vụ Thanh…

Trước mắt như hiện lên cảnh tượng rạp hát tàn tiệc, Đặng Nguyên Sơ ngồi một mình giữa hàng ghế dự bị đầu tiên gần sân khấu, thất thần dõi mắt lên sân khấu không bóng người.

Cách bốn mét phía sau sân khấu được kéo rèm đỏ thêu chỉ vàng, giống như đang che giấu một người, chính là vị trong lòng của tiểu công tử Đặng gia.

Ngón tay Tạ Vụ Thanh gãi lòng bàn chân cô.

Cô nhồn nhột giật mình, đang nằm đột ngột ngồi tựa vào ghế, nương theo ánh đèn nhìn anh.

“Chúc Tiểu Bồi hát ba ngày liên tiếp, hôm nay là ngày cuối, lại đúng lúc gặp mặt Đặng Nguyên Sơ”, cô rụt chân lại, kề sát anh, tì chiếc cằm thon nhọn lên vai anh, “Tất cả là do sắp xếp sao? Đặng Nguyên Sơ muốn gặp cô ấy à?”

Một tay Tạ Vụ Thanh cầm bút máy, viết loạt xoạt mấy chữ cuối cùng lên trang giấy trắng. Ngòi bút mạnh mẽ chấm một điểm.

Anh nói: “Cái đêm thím em sinh con, Chúc Tiểu Bồi tới tìm anh”.

Tạ Vụ Thanh giải thích thêm: “Em trai cô ấy đắc tội với Phụng hệ, muốn nhờ anh liên hệ Trịnh gia giúp đỡ. Trịnh gia đồng ý ra mặt, nhưng nếu muốn ổn thoả cần phải tìm một cái cớ nói chuyện, chị gái của Trịnh Độ liền bảo cô ấy diễn ở rạp này ba ngày. Đặng Nguyên Sơ nhận được thiệp mời, tự mình tìm đến”.

Tạ Vụ Thanh mở bình mực trên bàn, châm thêm mực vào bút.

Anh lấy vải bông lau sạch bút máy, ném vào sọt rác cạnh đó: “Không hỏi gì sao?”

“Cảm thấy đau lòng thay bọn họ”, cô nhỏ giọng nói, “Chỉ hai năm thôi”.

Sau khi Đặng Nguyên Sơ tị nạn trở về từ Macao, Đặng gia cũng lấy lại ý chí, lần nữa hô mưa gọi gió. Hiện giờ tiểu công tử Đặng gia lại trở thành một cái bánh chưng thơm phức, là chàng rể tương lai hiền quý trong mắt mọi nhà. Mà Chúc Tiểu Bồi năm ngoái đã gả cho người ta.

Tạ Vụ Thanh thấy tâm trạng cô ưu phiền, đóng bút máy lại.

Cổ tay anh thon gầy, đeo chiếc đồng hồ kim loại cô tặng. Bóng dáng thật dài trên chồng giấy trắng, anh đặt hai cây bút và bình mực lên, quay đầu nhìn chằm chằm cô một lúc. Cô như thể đoán được chuyện gì sắp xảy ra, Tạ Vụ Thanh muốn hôn cô. Hai ngày nay, chỉ cần không có người ngoài, anh luôn như thế, giống hệt đang làm một chuyện vô cùng bình thường trên đời.

Vì trong phòng oi bức nên Hà Vị chỉ mặc một chiếc váy lụa không tay cột dây sau cổ, lộ ra mảng lưng phía sau.

Lưng dán chặt trên ghế sô pha, dính dớp mồ hôi, khi cử động sẽ vang lên mấy tạp âm rất nhỏ. Cô có chút chột dạ, thầm nghĩ, trước kia trong tứ hợp viện, mỗi gian phòng đều ngăn cách bởi bức tường gạch đỏ, không biết cuộc sống của vợ chồng mới cưới không có tường ngăn thì thế nào, có giống anh và cô, thân mật không ngừng? Hay vẫn là ban đầu mới mẻ, sau đó thành quen.

Cô thấy Tạ Vụ Thanh cởi cúc áo, trong lòng như lửa đốt.

“Kể em nghe lúc anh bị giam lỏng đi”. Cô thì thầm.

Thời gian giam lỏng chỉ mất một tháng, sau đó là nhà tù, trong ngục tối đến mức không thấy đầu ngón tay, nước ngập đầu gối, vết thương trên chân cũng bị ngâm trong nước… Không có gì hay để nói.

“Không bằng bàn chuyện kết hôn đi”, anh mỉm cười, “Nói thế nào chăng nữa cũng phải tổ chức đám cưới”.

Anh ngẫm nghĩ, lại nói: “Chờ quay về Bắc Bình, anh dọn dẹp nhà cửa ở Bách Hoa Thâm Xử một chút, em gả từ nhà về đó, dẫn theo Tư Niên nữa”.

Nhà sao?

“Em không còn sống ở nhà trước nữa”, cô nói, “Hiện giờ ở trong một căn tứ hợp viện nho nhỏ, cách chỗ anh không xa”.

Anh im lặng một lát, nói đùa: “Trong số những người hỏi cưới em, chắc anh là kẻ vô tâm nhất”.

Đến cả chuyện cô dọn nhà cũng không biết.

Tạ Vụ Thanh dứt lời, mất tự nhiên cười lớn một tiếng, trong lòng áy náy khiến cô chậm trễ nhiều năm như thế. Anh ngồi dậy, muốn tìm hộp thuốc, Hà Vị choàng cổ ôm anh, kéo anh trở về người mình: “Ai đời bàn chuyện kết hôn, mới nói được một nửa đã bỏ đi hút thuốc đâu chứ?”

Tạ Vụ Thanh bật cười, khuỷu tay chống bên mặt cô, sờ hộp diêm.

Trước kia không thấy anh đối diện người khác hút thuốc, chắc là từ khi biến cố xảy ra, đã tạo thành thói quen này.

Cô từng gặp qua không ít người nhiều năm chinh chiến, lúc trở về hoặc vì rửa sạch cảnh tượng máu me trong đầu, hoặc khiếp sợ sau mấy lần sống sót từ tai nạn, hoặc vì vết thương cũ, đều nghiện morphine rất nặng. Tạ Vụ Thanh chỉ tuỳ lúc hút thuốc, đã rất tự chủ rồi.

Tiếng sàn sạt của hộp diêm thu hút sự chú ý của cô. Có điều ngay sau đó, cả hộp thuốc và que diêm đều bị anh ném lên chồng giấy.

Lúc này không bàn chuyện hôn sự nữa.

Hai tay Hà Vị câu cổ anh, nghĩ đến chuyện vừa rồi bọn họ nói.

Cô nhớ Đặng Nguyên Sơ bảo, lúc trước Tạ Vụ Thanh dạy ở Học viện Quân sự, chữ viết thanh tú đầy bảng đen, từng cột đều tăm tắp như dùng thước kẻ đo đạc, học sinh ngồi dưới cặm cụi chép bài cũng không bằng anh, thông thường chỉ mới viết được một nửa, trên bảng đen đã giăng đầy bài giảng. Cô lại nhớ Bạch Cẩn Hành kể, trước khi Bắc phạt, nhiều nhóm giáo viên ở các giảng võ đường vì góp tiền mở trường nên không ít người đến xin làm giáo viên ở các trường sơ trung gần đó, Tạ Vụ Thanh là thầy dạy vật lý, anh thường khuyến khích học sinh học tập, sau này chế tạo máy bay, thay đổi cục diện “chỉ sửa không tạo” [3] trong nước…

[3] Nghĩa là chỉ sửa chữa từ những cái có trước chứ không phải tự chế tạo ra.

Cô âm thầm tưởng tượng bóng lưng anh đứng trước bảng đen, nhắm mắt lại, cảm thấy chính mình nhìn thấy mặt khác của anh. Trong bóng tối, cũng chính là khuôn mặt đang ở cạnh cô.

Lăn lộn trên sô pha mấy giờ đồng hồ, Hà Vị cột gọn mái tóc, ra ngoài lấy một chậu nước ấm vào.

Giờ này không tiện vào phòng tắm, cô chỉ mặt một cái váy dây không tay, vắt khăn lông lau cổ cùng thân thể. Tạ Vụ Thanh theo ánh trăng nhìn qua, trong tiếng nước róc rách, thấy bóng dáng mảnh khảnh ngồi đó cẩn thận chà lau cánh tay rồi cái cổ thon mềm, sau đó đến mặt mày.

Hà Vị quay về giường, nằm thẳng cạnh anh, mang theo hương thơm xà phòng hoa quế, còn có hơi nước ẩm ướt trên da. 

Cô lẩm bẩm nói: Thì ra kết hôn là thế này.

Giống như nũng nịu, lại giống oán trách. Không lâu sau, cô dần dần thiếp đi, Tạ Vụ Thanh nghe rõ tiếng cô hít thở. Khẽ khàng, thơm ngọt.

Cô canh cánh chuyện quan trọng Bạch Cẩn Hành nhờ vả.

Mấy ngày sau, cô đem hai chiếc xe của chú chín đến, đưa Tạ Vụ Thanh cùng Bạch Cẩn Hành tới xưởng sản xuất muối lớn nhất Thiên Tân.

Trong quá khứ, mặc dù nguồn tài nguyên biển cả phong phú, nhưng vì thiếu chuyên gia về hoá học nên vẫn dùng phương thức cũ làm muối. Không lâu sau Cách mạng Tân Hợi mới có được cánh đồng muối tinh khiết thuộc về bản thân. Cô giới thiệu với họ: “Từ lâu chú hai đã muốn em để tâm đến ngành công nghiệp, sau đó đưa em đến đây, để em tự cảm nhận, rốt cuộc ngành công nghiệp quan trọng thế nào. Lúc các anh còn hoạt động trong Cách mạng Tân Hợi, họ đã bắt đầu nghiên cứu sản xuất muối tinh luyện, muối sô-đa, những kỹ thuật đó trước đây từng bị phương Tây độc chiếm lũng đoạn, hiện giờ chúng ta đã có thể làm muối của riêng mình”.

Cô suy ngẫm, nói tiếp: “Gần như sau khi Cách mạng Tân Hợi thành công, khoảng 14-15 năm đã có xưởng muối tinh chế, không lâu sau liền có nhà máy sản xuất sô-đa”.

Quân nhân như họ không hiểu biết nhiều về ngành công nghiệp, nhưng khi liên hệ với thời gian, trong lòng nảy ra loại cảm giác đồng cảm khó nói thành lời. Trong lúc họ tắm máu chiến trường, các nhà công nghiệp bắt đầu mở xưởng nghiên cứu kỹ thuật, giúp người Trung Quốc tự sản xuất muối ăn của mình.

Trước khi xuống xe, cô nói với hai người đàn ông: “Một muối một sắt, vấn đề rất nghiêm trọng, lợi ích trong đó không phải là những thứ các anh có thể nghĩ đến, cần phải dùng mạng lưới quan hệ khổng lồ phức tạp. Hà gia có một con tàu trọng lượng vạn tấn, chuyên vận chuyển muối”.

Đây cũng chính là cách vận chuyển lô súng ống kia.

Hà Vị dẫn Bạch Cẩn Hành đến giới thiệu cho hai người phụ trách công ty chỗ này, mượn cớ kinh doanh muối muốn bàn chuyện hợp tác.

Hà Vị rời khỏi xưởng muối trước, cô đứng ở cổng lớn rút một tấm thiệp ra. Là chú chín Hà gia mừng sinh con gái, muốn tổ chức tiệc rượu đầy tháng vào tháng sau.

Đối phương nhận lấy, thấp giọng dò xét, vị Bạch công tử này lai lịch thế nào lại làm phiền cô hai Hà đích thân đưa đến đây. Một người khác thay cô tiếp lời, nói năm đó khi tô giới Pháp bị phong toả, không ai có thể ra vào, lại có một vị tướng quân đến từ Tây Bắc vì giai nhân xin được giấy thông hành.

Vị tướng quân ấy họ Bạch, người giai nhân kia họ Hà.

Cô nhoẻn cười: “Chuyện qua lâu như thế, không ngờ có người còn nhớ rõ”.

“Vậy vị kia chính là Bạch tướng quân vang danh khắp Kinh Tân sao?” Người dò hỏi kinh ngạc. 

Nhiều năm trước, Tạ Vụ Thanh vô tình “cắm liễu” một lần lại giúp Bạch Cẩn Hành, dễ khiến người ngoài tin tưởng chuyện: Vì sao cô hai có thể giới thiệu đối tác làm ăn thân thiết cho công tử Bạch.

Trước nay Hà Vị vốn không quan tâm đến chuyện buôn muối, cũng không thể bày ra dáng vẻ quá mức để ý, chỉ đành để Bạch Cẩn Hành ở lại nói chuyện với họ.

Từ lúc tới đây, Tạ Vụ Thanh không bước xuống xe, vẫn một mực ngồi trong xe đỗ ngoài xưởng muối, đọc sách giết thời gian.

“Chú chín mời anh đến thăm con gái chú”, cô quay lại xe nói, “Ông còn bảo, công tử Tạ gia không hiểu đạo nghĩa, lần trước đến công quán, chưa kịp gặp mặt chủ nhà đã vội vàng đi mất, lần này ít nhất phải ở lại vài ngày mới được”.

Tạ Vụ Thanh buông sách, gật đầu đáp: “Được thôi”.

“Em định qua ít ngày đặt vé tàu về Bắc Bình”, cô hỏi, “Anh có chuyện gì chưa làm xong ở Thiên Tân không?”

Tạ Vụ Thanh kéo cửa sổ xe, “Có thể làm ở Thiên Tân, cũng làm được ở Bắc Bình”, anh nói với Lâm Kiêu ngồi ghế trước, “Ngày mốt chúng ta đặt vé, về Bắc Bình”.

Anh dùng từ “về”, là trở về nhà.

— HẾT CHƯƠNG 46 —


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.