Trên sân khấu rạp hát ầm ĩ không chịu nổi, có người hét to “Chúc Tiểu Bồi”.
Không biết vị công tử trong phòng riêng nào tiên phong ném bạc xuống dưới, nhất thời tiếng trống thùng thùng như cuồng phong vũ bão, đồng bạc chói mắt từ trên trời rơi như mưa, bọn công tử đều sợ mình thua thiệt…
Mặc dù trên mặt Đặng Nguyên Sơ vẫn là nụ cười bất biến, nhưng cái nhếch môi chỉ hiện ngoài da mặt, vì một tiếng “Chúc Tiểu Bồi”, đôi mắt sau cặp kính thoáng hoảng hốt. Hắn do dự mấy lần, nhịn không nhìn dưới lầu.
“Chúc Tiểu Bồi này nổi tiếng thật”, Bạch Cẩn Hành không ở trong kinh nên không biết chuyện trước kia của Đặng Nguyên Sơ và Chúc Tiểu Bồi, hắn buông tách trà, cười nói, “Năm đó “Thời báo Thuận Thiên” có mở cuộc bình chọn vua giới hát xướng, có phải cô ấy đoạt quán quân không?”
Tạ Vụ Thanh gật đầu đáp: “Hồi trước ở kinh thành, quả thật là người nổi danh nhất”.
“Nổi danh ở kinh thành, sao lại đến Thiên Tân?”
Tạ Vụ Thanh khẽ lắc đầu: “Không rõ lắm”.
Dựa theo sự hiểu biết của cô với Tạ Vụ Thanh, đoàn được anh đang nói dối.
Cô thầm liếc Tạ Vụ Thanh.
Đặng Nguyên Sơ ngồi một lát, lấy cớ nói xuống lầu hít thở không khí, Bạch Cẩn Hành hiếm khi đến Thiên Tân, cũng muốn đi cùng hắn nhìn thử khu Tam Bất Quản nổi danh này, nhưng bị Tạ Vụ Thanh ngăn cản: “Để cậu ta tự đi đi”.
Bạch Cẩn Hành không phải người ngu ngốc, thấy Tạ Vụ Thanh và Hà Vị như giấu diếm gì đó, nhận thấy việc này có ẩn tình.
“Cậu ta có tâm sự à?” Bạch Cẩn Hnah2 hỏi.
Tạ Vụ Thanh cười không đáp.
Bạch Cẩn Hành nhìn sang Hà Vị. Cô nghĩ nếu không nói rõ ràng, sợ sau khi Đặng Nguyên Sơ quay lại vẫn phải nghe những lời vô thưởng vô phạt của Bạch Cẩn Hành, không khéo còn chạm vào tâm sự trong lòng, thế nên cô nói qua loa: “Cô ấy là tình cũ của Đặng Nguyên Sơ”.
Hà Vị quan sát khung cảnh náo nhiệt bên dưới, trông thấy Đặng Nguyên Sơ đi vào sau sân khấu, nhớ đến mùa xuân năm 28.
Liễu rũ đầy khắp thành, quân phiệt Phụng hệ chuẩn bị lui về quan ngoại. Bên trong Tứ Cửu Thành, nhóm quân phiệt cũ vẫn cuồng hoan không nhìn thấy ngày mai.
Chúc Tiểu Bồi lặng lẽ đến tứ hợp viện công ty vận tải, chờ gặp cô.
Chúc Tiểu Bồi sinh ra có một đôi mắt phượng, đường nét linh động, khi cô ấy xướng vở “Tây Sương Ký” liền nổi danh khắp trời nam bắc, dáng người uyển chuyển, lễ phép cẩn thận, sau khi bái lễ theo nghi thức trên sân khấu xưa với cô, nói rõ ý đồ tìm đến: Cô ấy bị một vị công tử nhà quân phiệt đeo bám, đối phương mỗi ngày đều đến Hội quán Hồ Quảng ngồi suốt một canh giờ, thề không cưới được cô sẽ không bỏ qua. Có điều đối với những con hát nổi danh như cô, loại chuyện này không hiếm gặp, người ủng hộ bọn họ rất nhiều, theo đuổi từ quan to cao quý, vương hầu tiền triều đến văn nhân mặc khách [1], không ai không có, nhiều lúc điên lên thứ gì cũng làm ra được. Đặng Nguyên Sơ không nhịn được, đuổi người kia đi, lại bị mười mấy khẩu súng chĩa vào người đàn áp…
[1] Những người trong giới thơ ca, văn từ. Ví dụ như nhà thơ, nhà văn…
May mắn lúc đó có người trong hội quán can ngăn, nhưng hận thù cũng kết. Cô sợ vị công tử kia bị tâm ma quấy phá, làm chuyện tổn hại Đặng Nguyên Sơ, nhưng không biết cầu tình ở đâu, phàm là những người quan to vinh hiển có ai không nghĩ cách dụ dỗ cô, nghĩ tới nghĩ lui, rốt cuộc tìm đến chỗ Hà Vị.
Hà Vị đồng ý nghĩ cách, cô nhác thấy Chúc Tiểu Bồi lo lắng, liền an ủi một tiếng: “Chuyện này, tôi sẽ không nói cho Đặng Nguyên Sơ biết”.
Chúc Tiểu Bồi yên tâm, nói lời cảm ơn rồi đi mất.
Hà Vị tìm một người lớn tuổi hỏi thăm, biết được đó là đứa con trai được vị quân phiệt kia chiều chuộng nhất, bèn tìm cách dấy lên đấu đá trong nhà hắn, khiến vị công tử kia bị áp chế lại. Có điều Chúc Tiểu Bồi là đào hát gặp thời, người theo đuổi đếm không xuể, cản được một tên, sẽ còn có người thứ hai, thứ ba tìm đến… Hai tháng sau, Chúc Tiểu Bồi lại đến tìm cô, một là nói lời cảm ơn, hai là chào tạm biệt.
Chúc Tiểu Bồi ẩn ý nói, cô ấy và Đặng Nguyên Sơ sẽ tạm chia xa một thời gian.
“Lại có kẻ tuyên bố muốn giết anh ấy. Tôi lo lắng ngày nào đó sẽ thành sự thật. Giữa tôi và Đặng công tử, dù sao cũng phải có một người buông tay trước”. Chúc Tiểu Bồi rũ mắt, cười khổ nói, “Từ lúc tôi mười mấy tuổi đã bắt đầu hát “Tây Sương Ký”, trong kịch hát Trương công tử thi đỗ Trạng Nguyên, quay về cưới Thôi Oanh Oanh, không còn kẻ ác nào dám ngăn cản. Mà hiện giờ, cái gì cũng vô dụng, anh ấy cũng xem như từng có công danh, nhưng không thể dùng”.
Thất phu vô tội, hoài bích kỳ tội [2]
[2] “Thất phu” ý chỉ dân thường, “hoài bích” ý chỉ ngọc quý. Câu này xuất phát từ một điển cố xưa, đại khái nói rằng dân thường tàng trữ ngọc quý trong nhà là phạm luật, nếu không khai ra sẽ bị trị tội, nhưng lỗi không phải ở dân thường, mà do tàng trữ ngọc quý nên mới có tội. Hàm ý, trong một số việc, con người không có tội, tội của họ là vì mang thứ cao hơn thân phận và địa vị của mình. Câu này sau này còn ngầm chỉ những người có tài năng, nhan sắc thường bị kẻ khác ghen ghét, đố kị, hoặc chịu cảnh xã hội giày xéo.
Năm đó Đặng Nguyên Sơ chính là một dân thường, mà Chúc Tiểu Bồi lại không khác gì Hoà Thị Bích. Trong thời buổi loạn lạc, dù cho hắn không màng tính mạng của mình, cũng không đủ sức gánh vác tình cảm này.
Chúc Tiểu Bồi muốn đặt chân đến Thiên Tân, cần Cửu tiên sinh hỗ trợ mới không bị những kẻ theo đuổi quấy rầy, tìm một nơi thanh tịnh sống ẩn dật. Trước khi đi, cô ấy để lại một phong thư cũ, là tiền thuê nhà một năm tới ở Thiên Tân, chỉ cần nhìn đã biết, về mặt tiền bạc cô ấy không cần ai giúp. Nhiều năm nổi tiếng, số tiền tích cóp cũng đủ cho cô sống an nhàn đến già.
“Lại phiền cô hai lo liệu”, cô ấy dịu dàng xin lỗi, “Nghĩ tới nghĩ lui, cũng có có cô hai mới thật tình giúp được tôi”.
“Tất thảy giao cho tôi đi”. Cô đồng ý.
Không lâu sau, Chúc Tiểu Bồi chuyển đến tô giới Thiên Tân, không quay về Tứ Cửu Thành nữa.
—
Đêm khuya trong viện.
Hà Vị xoã tóc dài tán loạn, nằm trong góc sô pha, gác một chân không mang tất lên chân bình thường của anh. Bàn chân lặng lẽ vuốt ve vải quần quân đội của Tạ Vụ Thanh…
Trước mắt như hiện lên cảnh tượng rạp hát tàn tiệc, Đặng Nguyên Sơ ngồi một mình giữa hàng ghế dự bị đầu tiên gần sân khấu, thất thần dõi mắt lên sân khấu không bóng người.
Cách bốn mét phía sau sân khấu được kéo rèm đỏ thêu chỉ vàng, giống như đang che giấu một người, chính là vị trong lòng của tiểu công tử Đặng gia.
Ngón tay Tạ Vụ Thanh gãi lòng bàn chân cô.
Cô nhồn nhột giật mình, đang nằm đột ngột ngồi tựa vào ghế, nương theo ánh đèn nhìn anh.
“Chúc Tiểu Bồi hát ba ngày liên tiếp, hôm nay là ngày cuối, lại đúng lúc gặp mặt Đặng Nguyên Sơ”, cô rụt chân lại, kề sát anh, tì chiếc cằm thon nhọn lên vai anh, “Tất cả là do sắp xếp sao? Đặng Nguyên Sơ muốn gặp cô ấy à?”
Một tay Tạ Vụ Thanh cầm bút máy, viết loạt xoạt mấy chữ cuối cùng lên trang giấy trắng. Ngòi bút mạnh mẽ chấm một điểm.
Anh nói: “Cái đêm thím em sinh con, Chúc Tiểu Bồi tới tìm anh”.
Tạ Vụ Thanh giải thích thêm: “Em trai cô ấy đắc tội với Phụng hệ, muốn nhờ anh liên hệ Trịnh gia giúp đỡ. Trịnh gia đồng ý ra mặt, nhưng nếu muốn ổn thoả cần phải tìm một cái cớ nói chuyện, chị gái của Trịnh Độ liền bảo cô ấy diễn ở rạp này ba ngày. Đặng Nguyên Sơ nhận được thiệp mời, tự mình tìm đến”.
Tạ Vụ Thanh mở bình mực trên bàn, châm thêm mực vào bút.
Anh lấy vải bông lau sạch bút máy, ném vào sọt rác cạnh đó: “Không hỏi gì sao?”
“Cảm thấy đau lòng thay bọn họ”, cô nhỏ giọng nói, “Chỉ hai năm thôi”.
Sau khi Đặng Nguyên Sơ tị nạn trở về từ Macao, Đặng gia cũng lấy lại ý chí, lần nữa hô mưa gọi gió. Hiện giờ tiểu công tử Đặng gia lại trở thành một cái bánh chưng thơm phức, là chàng rể tương lai hiền quý trong mắt mọi nhà. Mà Chúc Tiểu Bồi năm ngoái đã gả cho người ta.
Tạ Vụ Thanh thấy tâm trạng cô ưu phiền, đóng bút máy lại.
Cổ tay anh thon gầy, đeo chiếc đồng hồ kim loại cô tặng. Bóng dáng thật dài trên chồng giấy trắng, anh đặt hai cây bút và bình mực lên, quay đầu nhìn chằm chằm cô một lúc. Cô như thể đoán được chuyện gì sắp xảy ra, Tạ Vụ Thanh muốn hôn cô. Hai ngày nay, chỉ cần không có người ngoài, anh luôn như thế, giống hệt đang làm một chuyện vô cùng bình thường trên đời.
Vì trong phòng oi bức nên Hà Vị chỉ mặc một chiếc váy lụa không tay cột dây sau cổ, lộ ra mảng lưng phía sau.
Lưng dán chặt trên ghế sô pha, dính dớp mồ hôi, khi cử động sẽ vang lên mấy tạp âm rất nhỏ. Cô có chút chột dạ, thầm nghĩ, trước kia trong tứ hợp viện, mỗi gian phòng đều ngăn cách bởi bức tường gạch đỏ, không biết cuộc sống của vợ chồng mới cưới không có tường ngăn thì thế nào, có giống anh và cô, thân mật không ngừng? Hay vẫn là ban đầu mới mẻ, sau đó thành quen.
Cô thấy Tạ Vụ Thanh cởi cúc áo, trong lòng như lửa đốt.
“Kể em nghe lúc anh bị giam lỏng đi”. Cô thì thầm.
Thời gian giam lỏng chỉ mất một tháng, sau đó là nhà tù, trong ngục tối đến mức không thấy đầu ngón tay, nước ngập đầu gối, vết thương trên chân cũng bị ngâm trong nước… Không có gì hay để nói.
“Không bằng bàn chuyện kết hôn đi”, anh mỉm cười, “Nói thế nào chăng nữa cũng phải tổ chức đám cưới”.
Anh ngẫm nghĩ, lại nói: “Chờ quay về Bắc Bình, anh dọn dẹp nhà cửa ở Bách Hoa Thâm Xử một chút, em gả từ nhà về đó, dẫn theo Tư Niên nữa”.
Nhà sao?
“Em không còn sống ở nhà trước nữa”, cô nói, “Hiện giờ ở trong một căn tứ hợp viện nho nhỏ, cách chỗ anh không xa”.
Anh im lặng một lát, nói đùa: “Trong số những người hỏi cưới em, chắc anh là kẻ vô tâm nhất”.
Đến cả chuyện cô dọn nhà cũng không biết.
Tạ Vụ Thanh dứt lời, mất tự nhiên cười lớn một tiếng, trong lòng áy náy khiến cô chậm trễ nhiều năm như thế. Anh ngồi dậy, muốn tìm hộp thuốc, Hà Vị choàng cổ ôm anh, kéo anh trở về người mình: “Ai đời bàn chuyện kết hôn, mới nói được một nửa đã bỏ đi hút thuốc đâu chứ?”
Tạ Vụ Thanh bật cười, khuỷu tay chống bên mặt cô, sờ hộp diêm.
Trước kia không thấy anh đối diện người khác hút thuốc, chắc là từ khi biến cố xảy ra, đã tạo thành thói quen này.
Cô từng gặp qua không ít người nhiều năm chinh chiến, lúc trở về hoặc vì rửa sạch cảnh tượng máu me trong đầu, hoặc khiếp sợ sau mấy lần sống sót từ tai nạn, hoặc vì vết thương cũ, đều nghiện morphine rất nặng. Tạ Vụ Thanh chỉ tuỳ lúc hút thuốc, đã rất tự chủ rồi.
Tiếng sàn sạt của hộp diêm thu hút sự chú ý của cô. Có điều ngay sau đó, cả hộp thuốc và que diêm đều bị anh ném lên chồng giấy.
Lúc này không bàn chuyện hôn sự nữa.
Hai tay Hà Vị câu cổ anh, nghĩ đến chuyện vừa rồi bọn họ nói.
Cô nhớ Đặng Nguyên Sơ bảo, lúc trước Tạ Vụ Thanh dạy ở Học viện Quân sự, chữ viết thanh tú đầy bảng đen, từng cột đều tăm tắp như dùng thước kẻ đo đạc, học sinh ngồi dưới cặm cụi chép bài cũng không bằng anh, thông thường chỉ mới viết được một nửa, trên bảng đen đã giăng đầy bài giảng. Cô lại nhớ Bạch Cẩn Hành kể, trước khi Bắc phạt, nhiều nhóm giáo viên ở các giảng võ đường vì góp tiền mở trường nên không ít người đến xin làm giáo viên ở các trường sơ trung gần đó, Tạ Vụ Thanh là thầy dạy vật lý, anh thường khuyến khích học sinh học tập, sau này chế tạo máy bay, thay đổi cục diện “chỉ sửa không tạo” [3] trong nước…
[3] Nghĩa là chỉ sửa chữa từ những cái có trước chứ không phải tự chế tạo ra.
Cô âm thầm tưởng tượng bóng lưng anh đứng trước bảng đen, nhắm mắt lại, cảm thấy chính mình nhìn thấy mặt khác của anh. Trong bóng tối, cũng chính là khuôn mặt đang ở cạnh cô.
Lăn lộn trên sô pha mấy giờ đồng hồ, Hà Vị cột gọn mái tóc, ra ngoài lấy một chậu nước ấm vào.
Giờ này không tiện vào phòng tắm, cô chỉ mặt một cái váy dây không tay, vắt khăn lông lau cổ cùng thân thể. Tạ Vụ Thanh theo ánh trăng nhìn qua, trong tiếng nước róc rách, thấy bóng dáng mảnh khảnh ngồi đó cẩn thận chà lau cánh tay rồi cái cổ thon mềm, sau đó đến mặt mày.
Hà Vị quay về giường, nằm thẳng cạnh anh, mang theo hương thơm xà phòng hoa quế, còn có hơi nước ẩm ướt trên da.
Cô lẩm bẩm nói: Thì ra kết hôn là thế này.
Giống như nũng nịu, lại giống oán trách. Không lâu sau, cô dần dần thiếp đi, Tạ Vụ Thanh nghe rõ tiếng cô hít thở. Khẽ khàng, thơm ngọt.
—
Cô canh cánh chuyện quan trọng Bạch Cẩn Hành nhờ vả.
Mấy ngày sau, cô đem hai chiếc xe của chú chín đến, đưa Tạ Vụ Thanh cùng Bạch Cẩn Hành tới xưởng sản xuất muối lớn nhất Thiên Tân.
Trong quá khứ, mặc dù nguồn tài nguyên biển cả phong phú, nhưng vì thiếu chuyên gia về hoá học nên vẫn dùng phương thức cũ làm muối. Không lâu sau Cách mạng Tân Hợi mới có được cánh đồng muối tinh khiết thuộc về bản thân. Cô giới thiệu với họ: “Từ lâu chú hai đã muốn em để tâm đến ngành công nghiệp, sau đó đưa em đến đây, để em tự cảm nhận, rốt cuộc ngành công nghiệp quan trọng thế nào. Lúc các anh còn hoạt động trong Cách mạng Tân Hợi, họ đã bắt đầu nghiên cứu sản xuất muối tinh luyện, muối sô-đa, những kỹ thuật đó trước đây từng bị phương Tây độc chiếm lũng đoạn, hiện giờ chúng ta đã có thể làm muối của riêng mình”.
Cô suy ngẫm, nói tiếp: “Gần như sau khi Cách mạng Tân Hợi thành công, khoảng 14-15 năm đã có xưởng muối tinh chế, không lâu sau liền có nhà máy sản xuất sô-đa”.
Quân nhân như họ không hiểu biết nhiều về ngành công nghiệp, nhưng khi liên hệ với thời gian, trong lòng nảy ra loại cảm giác đồng cảm khó nói thành lời. Trong lúc họ tắm máu chiến trường, các nhà công nghiệp bắt đầu mở xưởng nghiên cứu kỹ thuật, giúp người Trung Quốc tự sản xuất muối ăn của mình.
Trước khi xuống xe, cô nói với hai người đàn ông: “Một muối một sắt, vấn đề rất nghiêm trọng, lợi ích trong đó không phải là những thứ các anh có thể nghĩ đến, cần phải dùng mạng lưới quan hệ khổng lồ phức tạp. Hà gia có một con tàu trọng lượng vạn tấn, chuyên vận chuyển muối”.
Đây cũng chính là cách vận chuyển lô súng ống kia.
Hà Vị dẫn Bạch Cẩn Hành đến giới thiệu cho hai người phụ trách công ty chỗ này, mượn cớ kinh doanh muối muốn bàn chuyện hợp tác.
Hà Vị rời khỏi xưởng muối trước, cô đứng ở cổng lớn rút một tấm thiệp ra. Là chú chín Hà gia mừng sinh con gái, muốn tổ chức tiệc rượu đầy tháng vào tháng sau.
Đối phương nhận lấy, thấp giọng dò xét, vị Bạch công tử này lai lịch thế nào lại làm phiền cô hai Hà đích thân đưa đến đây. Một người khác thay cô tiếp lời, nói năm đó khi tô giới Pháp bị phong toả, không ai có thể ra vào, lại có một vị tướng quân đến từ Tây Bắc vì giai nhân xin được giấy thông hành.
Vị tướng quân ấy họ Bạch, người giai nhân kia họ Hà.
Cô nhoẻn cười: “Chuyện qua lâu như thế, không ngờ có người còn nhớ rõ”.
“Vậy vị kia chính là Bạch tướng quân vang danh khắp Kinh Tân sao?” Người dò hỏi kinh ngạc.
Nhiều năm trước, Tạ Vụ Thanh vô tình “cắm liễu” một lần lại giúp Bạch Cẩn Hành, dễ khiến người ngoài tin tưởng chuyện: Vì sao cô hai có thể giới thiệu đối tác làm ăn thân thiết cho công tử Bạch.
Trước nay Hà Vị vốn không quan tâm đến chuyện buôn muối, cũng không thể bày ra dáng vẻ quá mức để ý, chỉ đành để Bạch Cẩn Hành ở lại nói chuyện với họ.
Từ lúc tới đây, Tạ Vụ Thanh không bước xuống xe, vẫn một mực ngồi trong xe đỗ ngoài xưởng muối, đọc sách giết thời gian.
“Chú chín mời anh đến thăm con gái chú”, cô quay lại xe nói, “Ông còn bảo, công tử Tạ gia không hiểu đạo nghĩa, lần trước đến công quán, chưa kịp gặp mặt chủ nhà đã vội vàng đi mất, lần này ít nhất phải ở lại vài ngày mới được”.
Tạ Vụ Thanh buông sách, gật đầu đáp: “Được thôi”.
“Em định qua ít ngày đặt vé tàu về Bắc Bình”, cô hỏi, “Anh có chuyện gì chưa làm xong ở Thiên Tân không?”
Tạ Vụ Thanh kéo cửa sổ xe, “Có thể làm ở Thiên Tân, cũng làm được ở Bắc Bình”, anh nói với Lâm Kiêu ngồi ghế trước, “Ngày mốt chúng ta đặt vé, về Bắc Bình”.
Anh dùng từ “về”, là trở về nhà.
— HẾT CHƯƠNG 46 —
Người ngồi ngay ngắn trong phòng riêng của rạp hát, chính là tên người Nhật hôm qua tìm đến, hắn vẫn mặc bộ kimono như trước, cùng vị thái giám kiên nhẫn chờ. Vì chuyện cổ phần muối, xem như đã mở lời ba lần.
Chúc Tiểu Bồi diễn liên tục ba ngày nên nơi này nghiễm nhiên trở thành rạp hát náo nhiệt nhất Thiên Tân.
Thái giám nhập tâm nghe hát, vắt chéo chân, người Nhật tinh thần khó yên, bàn tay lần chuỗi hạt không ngừng, vuốt ve…
Từng tiếng động không nặng không nhẹ phá vỡ bầu không khí, nghe giống âm thanh gậy chống lên cầu thang gỗ. Hai người đồng thời nhìn vào rèm trúc, chỉ thấy bóng dáng một người đàn ông đang chậm rãi bước từng bước lên lầu, trong tay cầm gậy, lướt qua tấm rèm đã được vén lên.
Nhờ sự hỗ trợ của những người xung quanh, một chiếc ghế cao được bày giữa phòng, anh yên vị ngồi đó, đặt gậy chống sang bên cạnh.
Anh tựa lưng vào ghế, nói chuyện với người ngoài rèm: “Triệu đại nhân, lâu không gặp”.
Lâm Kiêu thấy Tạ Vụ Thanh mở lời, bèn tiến lên cuốn rèm trúc.
Thoạt nhiên, hai người đối diện như mất khả năng ngôn ngữ, cứ chằm chằm nhìn Tạ Vụ Thanh.
Tiếng cười giòn vang dưới lầu như càng tôn thêm sự trầm lặng nơi đây.
Trên người Tạ Vụ Thanh vẫn là chiếc áo sơ mi trắng trong bộ quân trang vạn năm không đổi, không thể chuyển dời, càng không sao biến mất.
“Hôm qua…” Triệu đại nhân chầm chậm hỏi.
“Hôm qua ở đây, chính là Tạ mỗ”. Anh nhìn họ.
Triệu đại nhân nhất thời nghẹn họng, không biết nên mở miệng tiếp thế nào, ông ta tung hoành ngang dọc trên quan trường Mãn Thanh hơn mười năm, lại quỳ gối dưới trướng người Nhật bấy lâu, luôn biết cách tìm đường sống sót, vậy mà giờ đây lại thất bại bởi vị Tạ thiếu tướng quân trong lời đồn này, bỗng dưng cạn lời.
Tạ Vụ Thanh đánh giá trang phục của đối phương: “Nếu tôi nhớ không lầm, đại nhân đây từng nhậm chức ở Sơn Đông”.
Người kia thấy Tạ Vụ Thanh đột ngột xuất hiện, khiếp sợ đến mức câm nín, giờ lại bị Tạ Vụ Thanh hỏi như thế, trong lòng phát run, có điều ông chỉ gặp qua Tạ Vụ Thanh đúng một lần duy nhất, mà Tạ Vụ Thanh lại điều tra lý lịch làm quan của ông vô cùng kỹ càng.
“Nhắc đến Sơn Đông, tôi lại nhớ đến một mối hận cũ”, Tạ Vụ Thanh thẳng thắn, “Năm 1928 tại Tế Nam, nhà ngoại giao Thái Công Thời vì bảo vệ quân dân nên tìm người Nhật đàm phán, cuối cùng bị bắt trói gô, sau đó cắt tai mũi lưỡi, móc hai mắt, hy sinh thân mình vì nước. Việc này, hẳn đại nhân có biết?”
Người đàn ông bị hỏi không thốt nên lời.
Tạ Vụ Thanh tiếp tục: “Năm đó, Tế Nam bị người Nhật tàn sát, trước sau thương vong hơn một vạn bảy ngàn dân quân. Việc này, đại nhân cũng nên rõ ràng?”
Anh quay sang hỏi vị Triệu đại nhân kia: “Trong lòng mỗ có cừu hận, không biết trong lòng đại nhân có gì?”
Tạ Vụ Thanh chỉ nói mấy câu đã khiến vị đại nhân họ Triệu nghẹn lời, tuỳ tiện ôm quyền rồi rời đi.
Ngược lại vị thái giám ấy trước khi về đã đến trước mặt Tạ Vụ Thanh, nghiêm chỉnh hành lễ theo nghi thức cũ.
Thái giám vì chuyện của Tế Nam từng khuyên chủ tử mình ra mặt cầu tình, vì thế mất đi lòng tin của vị chủ tử dựa vào người Nhật ấy. Ông từng ôm mộng khôi phục nước Mãn Châu, không ngại vất vả bán mạng, sau mấy năm rốt cuộc cũng thông suốt, khôi phục Mãn Thanh như trước, liệu có ích gì?
Thái giám đứng thẳng dậy, chỉnh trang áo choàng của mình, đang định rời đi thì bị Tạ Vụ Thanh gọi lại. Tạ Vụ Thanh vớt ra một quả đào ngâm đá từ trong chậu sứ trắng, đưa cho lão thái giám: “Hiếm khi Chúc Tiểu Bồi hát xướng ba ngày liên tiếp, không bằng ngồi nghe một chút rồi hẵng đi”.
Vị lão thái giám không tiện khước từ, nhận lấy quả đào rồi ngồi xuống ghế. Trong lòng ông không khác gì chậu than bốc cháy, tay nắm chặt quả đào lạnh đến nóng bừng, không tài nào hiểu được ý tứ của Tạ Vụ Thanh. Nửa tiếng sau, có một gã sai vặt chạy lên, thì thầm với lão thái giám: “Triệu đại nhân… bị bắn chết, cách hai con đường”.
Ban đầu sắc mặt thái giám trắng bệch, ngay lập tức cảm thấy may mắn… nhặt về được cái mạng.
Gã sai vặt nói rất nhỏ: Vì khu là Tam Bất Quản nên không ai quản lý, cảnh sát cũng không thể làm gì. Người kéo xe vốn định bỏ mặc nhưng lại tiếc của, cuối cùng tìm người giúp đỡ mang cái xác đặt ven đường rồi kéo xe chạy mất. Xác chết phơi nắng ngoài kỹ viện, họ sợ ảnh hưởng chuyện làm ăn nên tìm người của sòng bạc mượn một tấm vải cũ, ném ra ngõ sau…
Lão thái giám bảo gã sai vặt lui xuống, kinh hồn khiếp vía quan sát Tạ Vụ Thanh mấy lần, muốn nhìn xem liệu có liên quan đến anh không.
Có điều Thiên Tân này, thế lực đan xen, mà vị Triệu đại nhân kia lại quen thói kiêu ngạo…
Chốc lát sau, gã sai vặt lại chạy tới, nhỏ giọng báo: Có tên giang hồ dán một tờ giấy ghi rõ tội trạng trong ngõ sau, liệt kê rất nhiều lần người kia bán mạng làm việc cho Quan Đông Nhật Bản, đáng bị giết chết.
Sự thật là thế, lão thái giám nghĩ, sớm muộn gì quả báo này cũng đến.
Lúc tới có đôi có cặp, giờ quay về chỉ còn một mình ông, đổi lại là ai cũng không chịu nổi. Lão thái giám siết chặt quả đào nát bấy, hai chân mềm nhũn vô lực khó di chuyển, chỉ dựa vào đó, chậm rãi bóc vỏ đào.
Hà Vị lên lầu, trông thấy lão thái giám lột quả đào đến nước lênh láng, kinh ngạc sai người mang khăn ướt tới.
Khi khăn lông ướt được đưa trước mặt, lão thái giám như bừng tỉnh, vội vàng mang theo cả quả đào rồi cáo từ.
Hà Vị ngồi xuống cạnh Tạ Vụ Thanh.
“Anh đặc biệt đến đây, là vì muốn giúp em gặp ông ấy?” Cô hiếu kỳ hỏi.
“Thấy em ngủ say, không muốn kẻ khác quấy rầy em”. Tạ Vụ Thanh nói, “Tỉnh dậy lúc nào?”
“Mới tỉnh thôi”. Cô chồm người sang, nhìn chòng chọc vào cổ áo Tạ Vụ Thanh.
Tạ Vụ Thanh cúi đầu, thấy cô vuốt ve từng cúc áo lỏng lẻo.
“Đáng lẽ nên đến sớm một chút, cúc áo kia lỏng rồi”, Hà Vị tự mình nói, “Để em tháo xuống giúp anh rồi đính lần nữa, tất cả đều phải khâu lại hết”.
“Hình như hai cái cúc này không ổn”, cô ngẩng đầu nhìn anh, “Còn nữa, vừa nãy em tháo cúc ra, thấy không giống như của thợ may làm, là do anh tự đính à?”
Anh cười, xem như thừa nhận.
“Tay nghề kém chết đi được”, cô lườm anh, “Không bằng em”.
“Không ngờ em còn biết làm mấy việc này”. Anh bật cười.
“Lúc trước không biết, bây giờ đỡ hơn rồi”. Cô mỉm cười.
Nuôi dạy Tư Niên, trước nay cô vẫn tự tay chăm sóc, không thể mãi dựa vào mấy người Khấu Thanh và Quân Khương, cô phải học cách làm mọi chuyện.
Cô lại nói: “Chú hai đi rồi, em còn nghĩ, nếu nghe ngóng được tin tức của anh, em sẽ xin đến chỗ giam ở bên anh. Những món nghề thủ công học được nhờ Tư Niên cũng có đất dụng võ”.
“Nếu cô hai bị giam lỏng với anh, chính là anh có lỗi với Hà gia”. Anh cũng dịu dàng đáp.
Hai người bên này còn chưa nói xong, Lâm Kiêu đã vội chạy vào phòng riêng: “Có một vị quý nhân đến”.
Từ sau khi Tạ Vụ Thanh được tự do đã gặp gỡ rất nhiều khách quý, nhưng người khiến Lâm Kiêu sốt ruột như thế quả thật hiếm có. Anh không mở miệng, dưới lầu đã có người bế một bóng dáng nhỏ nhắn bước lên.
Khấu Thanh khom lưng, đặt Tư Niên khóc lóc đáng thương, mặt đầy nước mắt lên sàn.
Từ Nam Kinh trở về, chưa có đêm nào hai người họ không nhìn thấy nhau. “Tối qua hơn mười giờ, tiểu thư nhỏ đã hỏi em đến tận lúc này…” Khấu Thanh nghẹn giọng, cố ý kéo dài đến hiện tại mới đưa người đến đã là gắng hết sức rồi.
Mặt mày Tư Niên lấm lem nước mắt, mờ mịt tìm được vị trí của Hà Vị, chạy về trước hai bước, bỗng sững lại.
Người đàn ông ngồi trên ghế dựa đỏ son… so với trong ảnh hình như lớn hơn không ít, có điều dung mạo vẫn không thay đổi…
Tư Niên lặng thinh nhìn anh.
Chân trẻ nhỏ không dài, tiến về trước nửa bước lại dừng.
Hà Vị muốn đến ôm con, nhưng không nỡ cắt ngang lần đầu họ gặp mặt…
Tư Niên khóc rất dữ, mái tóc ướt đẫm dán chặt trên trán, hai bím tóc nho nhỏ chạm lên vai, con bé mặc bộ váy xanh nhạt, hai tay nắm chặt tà váy… Trong nháy mắt, lệ nóng lại lũ lượt lăn dài.
“Ngài là… Tạ thiếu tướng quân ạ?” Đến giờ phút này, con bé vẫn nhớ rõ những lời dặn dò của Hà Vị, chỉ có thể gọi là Tạ thiếu tướng quân.
Tạ Vụ Thanh nhìn con bé, dịu dàng mỉm cười: “Đúng vậy”.
Tư Niên như được tiếp thêm dũng khí, chậm chạp tiến đến trước mặt anh, sàn trong phòng dùng ván gỗ ghép lại, khiến con bé hơi sợ, người nhỏ bước đi cũng ngắn, phải mất đến vài chục bước mới đến gần.
“Con tên… Hà Tư Niên”. Con bé nức nở, nhỏ giọng giới thiệu.
Dứt lời, con bé cúi đầu quệt sạch nước mắt, ngẩng lên dõng dạc: “Tự là Hữu Thanh. Hữu trong ‘bảo hữu’ [1], Thanh trong ‘vì được thanh minh thái bình”.
[1] Nghĩa là phù hộ
Tạ Vụ Thanh trầm mặc rất lâu.
Hàng mi đen nhánh dưới đáy mắt anh không khác gì sóng nước Li Giang dưới mười vạn núi xanh, mang theo cuồng phong càn quét trở nên tĩnh lặng. Anh muốn cúi đầu một cái, che đi sự chấn động giữa đôi mày.
Anh vươn tay trái về phía Tư Niên, Tư Niên như lấy thêm dũng cảm, ôm chặt thắt lưng anh. Đứa trẻ mới sáu tuổi nhưng vô cùng hiểu chuyện, biết rõ vẫn còn bên ngoài nên che chặt tiếng khóc, cánh tay siết lấy lưng Tạ Vụ Thanh không buông.
Sau khi khóc xong, Tạ Vụ Thanh bế con bé lên đùi.
Tư Niên choàng cổ anh, nghẹn ngào giống hệt Hà Vị ngày đó ôm anh khóc không ngừng.
Tạ Vụ Thanh vốn định sửa danh xưng cho con bé, nhưng nghĩ rồi lại thôi, nếu đã thành thói quen, gọi thiếu tướng quân xem chừng cũng an toàn hơn.
Tư Niên rất ý tứ, mặc dù ngồi trên chân không bị thương của anh nhưng vẫn sợ anh đau, chủ động đòi xuống. Chốc lát đứa nhỏ dựa vào bên trái anh, chốc lát lại chạy sang bên phải, kéo tay anh, dè dặt hỏi: “Ngài sẽ về Bắc Bình với mọi người chứ?”
Tạ Vụ Thanh nhoẻn cười, nhẹ giọng trả lời: “Tất nhiên rồi”.
Kể từ lúc ấy, Tư Niên không khóc nữa, Hà Vị vớt quả đào ngâm đá ra để ráo nước rồi đưa cho con. Đứa trẻ nghiêm túc ngồi ngay ngắn trên ghế cao cạnh Hà Vị, hai tay cầm quả đào cắn một cái, ăn được hai ngụm lại nhếch miệng cười vui vẻ, ngẫm nghĩ một chút khoan khoái, ghé vào tai Hà Vị thủ thỉ: “So với ảnh chụp, thiếu tướng quân càng giống tướng quân hơn”.
Con bé ăn được vài miếng đào rồi trượt xuống ghế, đưa nửa quả thừa lại cho Khấu Thanh, lau sạch tay rồi cung kính cúi chào Tạ Vụ Thanh, kéo Khấu Thanh xuống lầu.
“Không ở thêm lát sao?” Hà Vị thấy lạ, cúi người thì thầm hỏi con, “Sợ à?”
Tư Niên mím môi cười, lắc đầu nói nhỏ: “Đêm nay mẹ đừng về nhà”.
Con bé nói xong, lui về sau hai bước rồi kéo Khấu Thanh xuống thang lầu.
Khấu Thanh và Lâm Kiêu hiểu, cô bé muốn nhường lại không gian riêng tư cho hai người kia.
Lâm Kiêu thức thời bế Tư Niên cùng Khấu Thanh hành lễ với Tạ Vụ Thanh rồi rời khỏi phòng riêng.
“Con bé rất giống em”. Tạ Vụ Thanh cầm lấy quả đào cuối cùng trong chậu đá, bóc vỏ ngoài.
Anh đưa quả đào đã bóc sạch cho cô.
Từ khi biết nhau đến nay, hai người họ hiếm khi tận hưởng cảm giác mỗi ngày kề cận, không lo chia lìa thế này.
Tạ Vụ Thanh để cô ngồi chờ trong rèm trúc, bản thân anh ra trước gặp khách.
Tạ Vụ Thanh vừa xuất hiện, cố nhân cũng thay nhau đến thăm, đó không phải trùng hợp, mà là tất yếu.
Tạ Vụ Thanh đến từ phương Nam, trong tay nắm giữ mối quan hệ rộng khắp mà bọn họ không có, không ai không muốn nghe ngóng tin tức từ anh. Còn Tạ Vụ Thanh lại muốn mượn tay bọn họ để cứu những người làm cách mạng giống mình đến nay vẫn còn bị tống giam.
Sau khi tiễn mấy nhóm khách khứa đi rồi, anh ngồi nghỉ ngơi một chút, sai người vén rèm trúc lên.
“Lát nữa, em sẽ được gặp một người bạn cũ”, anh ra vẻ thần bí, “Cậu ta từ sân ga Thiên Tân đến đây”.
Tâm tình Tạ Vụ Thanh như thể rất sảng khoái, tay tì lên bàn, nhìn về cửa sổ.
“Người nào vậy, khiến anh mong chờ như thế?” Cô tò mò.
Tạ Vụ Thanh mỉm cười, chỉ dưới lầu.
Một người đàn ông tay xách vali bằng da, dáng vẻ phong trần mệt mỏi tháo kính râm xuống… Hắn vừa nới lỏng cổ áo sơ mi, vừa ngẩng đầu nhìn hai bên. Phía sau, một người theo hắn vào còn thong thả hơn nhiều, hai tay đút túi quần, hỏi gã sai vặt vị trí trên lầu.
Hà Vị dõi mắt nhìn hai người bước lên bậc thang, dọc theo hành lang gỗ son, dưới ánh đèn lồng đỏ thẫm tiến tới.
Cô quay đầu đối diện với khách đến.
Bạch Cẩn Hành mang theo vali da nâu bước vào phòng, chân đạp trên ván gỗ, giày da nhuộm xám đứng sững, cười nhìn về phía Hà Vị và Tạ Vụ Thanh: “Không biết nên chào hỏi vị nào trước đây?”
Đặng Nguyên Sơ lấy khăn tay lau mồ hôi trên mặt: “Cậu đi lên ôm vợ hắn một cái, hắn chẳng dám nói gì đâu”.
Tạ Vụ Thanh bật cười, tựa khung cửa sổ: “Chưa chắc”.
Hà Vị bị ba tên đàn ông trêu chọc cũng buồn cười, cô chủ động tiến lên trước, vươn tay phải về phía Bạch Cẩn Hành. Bạch Cẩn Hành cũng bắt tay cô, cảm kích vô cùng. Đợi khi Bạch Cẩn Hành buông tay ra mới nói rõ: “Năm ấy tôi ở châu Âu, đúng như lời cô nói, suýt nữa bị gạch tên khỏi hộ chiếu, may có lão Tấn giúp đỡ. Lần này tôi đến mang theo tấm lòng biết ơn, muốn nói tiếng cảm tạ cô”.
Ý cười trên mặt Hà Vị và Đặng Nguyên Sơ nhất thời nhạt đi.
“Anh chưa nói cho anh ấy biết?” Hà Vị hỏi Đặng Nguyên Sơ.
“Chúng tôi vừa gặp nhau ngoài cửa”, Đặng Nguyên Sơ giải thích, “Cô nói đi”.
Hà Vị trầm mặc một lát, nói: “Lão Tấn mất rồi, mất khi Tế Nam xảy ra chuyện”.
Chuyện Tế Nam năm ấy, sau khi tin tức về một vị quan ngoại giao đến đàm phán bị móc mắt cắt lưỡi truyền tới Thiên Tân, người bệnh tật quanh năm như lão Tấn tức giận đến mức sốt cao không hạ, cháu gái chăm sóc bên giường bệnh ông nói với Hà Vị, mấy đêm rồi lão Tấn khóc không ngừng, so với chuyện Hội nghị Paris lúc trước còn thương tâm hơn, thử nghĩ quan ngoại giao bị sát hại tàn nhẫn trên chính mảnh đất quê hương mình, đó giờ mới thấy…
Sau đó có tin quân dân bị tàn sát truyền đến lại càng đả kích nặng nề.
Sức lực chống đỡ tinh thần của lão nhân gia kể từ ấy bắt đầu bay biến, ngay trong đêm cũng qua đời.
“Trước khi đi ông hỏi đi hỏi lại… tại sao”, cô nhỏ giọng kể, “Tại sao lại như vậy”.
Lão nhân gia không cam lòng, cả đời không cam lòng, tất cả đều dồn vào một câu bình thường thế.
Trận động đất ở Quan Đông khi đó, mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội đều ra tay cứu trợ, quyên góp giúp chống chọi với thiên tai, dường như chỉ mới hôm qua.
Mà hiện giờ, thiện ý của người Trung Quốc đã sớm bị bỏ mặc.
—
Từ lúc bình minh đến tối muộn, bên dưới náo nhiệt không ngừng.
Trên hành lang phòng riêng có người thắp từng ngọn đèn lồng, mọi người dùng cơm chiều xong mới biểu lộ ý tứ ra ngoài, bàn về chính sự.
Lần này Bạch Cẩn Hành đến là muốn nghĩ cách cứu đồng đội bị nhốt ở Thiên Tân, cần nhờ vả quan hệ của Tạ Vụ Thanh với Trịnh gia. Thứ hai là chuyện vận chuyển một lô súng ống mua từ Hồng Kông tiếp viện. “Lính của chúng ta phần lớn đều dùng lao và đao hồng anh”, Bạch Cẩn Hành nói, “Nếu có súng thì phải dùng, cho người có tài thiện xạ tốt nhất”.
Lô súng này dùng tiền trong nhà của mấy vị tướng lĩnh mua được, có điều vận chuyển không tiện, sợ bị ngăn cản.
Chuyện trọng đại không dám nói chi tiết trong điện báo, thế nên Bạch Cẩn Hành vừa nghe tin Tạ Vụ Thanh ra Bắc, đoán anh muốn gặp Hà Vị nên lập tức vội vàng khăn gói lên đường. “Nghe nói đường hàng hải Hà gia có quan hệ ở Trường Giang? Liệu an toàn không?” Bạch Cẩn Hành không khách sáo với Hà Vị, trực tiếp hỏi.
Hà Vị hơi suy tư: “Để tôi nghĩ cách giúp anh, một cách ổn thoả nhất”.
Bạch Cẩn Hành nghe Hà Vị đồng ý liền an tâm.
Bản lĩnh của Hà Vị, lúc hắn ở phương Nam từng nghe qua.
Hai người nhìn nhau cười.
Đột nhiên nhớ tới lần đầu gặp mặt ở hậu viện của Hà gia.
Bạch Cẩn Hành bình tĩnh, có ý trêu chọc, hắn nhấc tách trà hoa quế trên bàn, “Lâu rồi không uống trà”, hắn nhấp ngụm trà nóng, cười tủm tỉm nhìn Hà Vị, “Cô có từng nghĩ, lúc nào thì tôi biết trong lòng cậu ta có cô không?”
Cô lắc đầu, Tạ Vụ Thanh thì cười bất đắc dĩ.
Đặng Nguyên Sơ giữ bộ dáng “người ngoài cuộc”, e còn chưa đủ náo nhiệt, lập tức truy hỏi: “Lão Bạch, đừng úp úp mở mở nữa. Mau nói đi”.
“Nhớ ngày ấy, cậu ta đến gian phía tây ngồi, sau đó nha hoàn nhà cô ôm một cái bình tới báo lại, Tạ tiếu tướng quân muốn uống sữa cacao, tôi liền đoán được, tên nhóc này cả ngày thúc giục tôi vào kinh, có điều cũng là vận mệnh an bài, khiến tôi trở thành bà mối”.
Đặng Nguyên Sơ ban đầu kinh ngạc, sau lại bật cười: “Đạo lý này gọi là vỏ quýt dày có móng tay nhọn, xưa nay không đổi”.
Cả đám đều là anh em thân thiết nhiều năm, có ai không biết Tạ Vụ Thanh là người không thích đồ ăn có vị sữa.
Tất nhiên, cô hai Hà ngày đó cũng không biết.
— HẾT CHƯƠNG 45 —