Kinh Thành Về Đêm (Dạ Lan Kinh Hoa)

Chương 36: Nhớ nhà cũng mong em (1)



Tạ Vụ Thanh bôn ba về Nam.

Lúc bước vào Quảng Tây, có người mang theo một phong thư, quyển sổ nhật ký cùng một chiếc đồng hồ đưa cho anh.

Đồng hồ vàng kiểu mới, cái hộp được cô dùng tơ đỏ quấn quanh mấy vòng, chắc vì lấy may mắn. Đây là thư nhà đầu tiên của cô, lưu lạc suốt hai tháng mới đến tay anh:

Anh Thanh,

Năm nay tuyết lớn, thật hối hận vì trước lúc anh đi không dẫn anh đến Điện Thái Hoà. Nơi ấy mấy năm gần đây không tổ chức điển lễ [1], cỏ dại mọc cao, khi trời đổ tuyết rất đẹp. Có điều từ lúc Hoàng đế Tốn Thanh rời đi, đã có người bắt đầu kiểm kê đồ đạc trong cung. Nghe bảo mùa thu sẽ cho xây dựng bảo tàng cổ vật và thư viện. Anh về trễ chút cũng được, vừa về kịp đến xem.

Một tướng quân, phải có đồng hồ tốt, dù va chạm thế nào cũng không hỏng, chiến cơ quan trọng, ăn uống cũng gấp gáp.

Thêm một quyển nhật ký để lại cho người thân. Ngoài ra, hải đường trong Bách Hoa Thâm Xử em đã mang về nhà rồi. Ông bác nói, tuỳ em xử lý. Mong anh cũng như hải đường, sau khi quay về, tuỳ em xử lý.

Em Vị Vị

Ngày 16 tháng Hai.

[1] Điển lễ là cách gọi những nghi thức long trọng, lễ nghi lớn được cử hành trong hoàng cung 

Thư cũng có hai mặt, ở mặt thứ hai có một hàng chữ:

Trong nhà bận rộn làm ăn, mỗi ngày gấp không thở được, hết ngày lại đêm đều bàn chuyện với bên ngoài, không nói được nhiều với anh. Mặt khác, hiện giờ thịnh hành bạch thoại [2], anh có thể thử xem, biết đâu tìm được điều thú vị mới.

[2] Bạch thoại là một hình thức sử dụng phương ngữ để viết thành văn

Tạ Vụ Thanh xoa mấy cái lên mặt sau thư, nhìn hồi lâu.

Cuối cùng cũng có một quan quân giải đáp thắc mắc của anh, quan quân tuổi trung niên kia là người chăm sóc anh lúc dưỡng thương tại Nam Dương, cũng từng nói chuyện yêu đương tân thời với con gái, bảo những sinh viên thích dùng thứ này bày tỏ nụ hôn môi.

“Ti chức chỉ từng nghe qua, đây là lần đầu nhìn thấy”. Quan quân nghiêm túc nói.

Tạ Vụ Thanh gấp thư cẩn thận.

Bằng sự hiểu biết của anh với Vị Vị, e là cô cũng có ý này.

Chỗ đóng quân của Tạ Vụ Thanh nằm trong núi.

Khi lộ trình cách nơi đóng quân chỉ còn hai giờ, xe chạy khó khăn, anh dẫn theo Bạch Cẩn Hành cùng các sĩ quan dọc theo đường núi đi bộ về phía trước, lại gặp tham mưu của trung đoàn Hai nôn nóng đuổi theo, mang đến một phần quân báo khẩn, chuẩn bị trình lên.

Nội dung quân báo ngắn gọn: Lâm Đông đích thân mang bảy vạn binh chủ lực, vây quanh khu vực rừng núi áp sát.

Tham mưu trung đoàn Hai không ngờ Tạ Vụ Thanh lại gấp quay về sớm như thế, nhất thời không biết nên vui hay buồn.

Vui chính là, thiếu tướng quân cuối cùng cũng trở lại, được cứu rồi; Buồn chính là, thiếu tướng quân đã bắt kịp kiếp nạn sinh tử.

Trận chiến lần này vô cùng hung hiểm.

Nơi đóng quân ở đây chỉ có bảy trung đoàn, không đến một vạn năm trăm binh lính, may mắn họ đều là quan quân nòng cốt tinh nhuệ, toàn bộ xuất thân từ học sinh ở giảng võ đường mà anh từng dạy, cũng xem như cấp dưới trực tiếp của Tạ Vụ Thanh.

Tạ Vụ Thanh giữ lại quân báo, nhờ tham mưu ra khỏi núi gửi một bức điện tín mới có nội dung tương tự như trên, thông báo đến những quân phiệt khu vực lân cận, nói rằng anh và Lâm Đông sẽ chiến một trận với nhau. Là trận chiến sinh tử.

“Bọn họ sẽ giúp cậu sao?” Bạch Cẩn Hành hỏi.

“Tất nhiên là không”, Tạ Vụ Thanh đáp lời, “Nhưng sẽ tranh nhau phân chia thành quả”.

Bọn họ sẽ chờ khi Tạ Vụ Thanh và Lâm Đông chiến đến ta chết ngươi sống mới đi lo liệu phân chia thành quả.

Tạ Vụ Thanh là một tướng lĩnh của quân cách mạng, không tiền nong, không mỏ dầu, không thuốc phiện, chỉ có súng pháo, nếu thất bại cùng lắm thuận lợi cho bọn họ bớt đi một người quấy nhiễu trồng thuốc phiện. Mà quân phiệt phương Nam đó giờ đều hiểu rõ đạo lý hôm nay hợp tác với quân cách mạng, ngày mai có thể trở mặt thành thù, cũng không cảm thấy tướng lĩnh cách mạng uy hiếp quá lớn. Nhưng Lâm Đông đối với bọn họ lại mang một tầng nghĩa khác, chỉ cần Lâm Đông bại trận, bất luận là binh lực hay tài sản trong phủ viện, ruộng thuốc phiện, còn có cả địa bàn chiếm đóng đều là miếng thịt béo bở người người muốn tranh.

Tạ Vụ Thanh không thể tiêu diệt hoàn toàn binh lực của Lâm Đông ngay ngày mai. Anh cần người chia chác thành quả, chặt đứt hết thảy đường lui của Lâm Đông.

Tạ Vụ Thanh đến nơi đóng quân, những trung đoàn trưởng trông thấy anh đều hoảng hốt, tranh nhau hỏi anh vì sao lại quay về?

Trận chiến này ác liệt ai nấy đều hiểu, họ nhìn Tạ Vụ Thanh tự xông vào tình thế hiểm nguy, không khỏi sốt ruột.

Tạ Vụ Thanh không nhiều lời, dẫn mọi người vào lều trại, đêm khuya thắp đèn.

Từng trung đoàn trưởng báo cáo tình hình lộ binh của quân địch. Trọng điểm là đối phương mang theo một trung đoàn pháo binh có mười tám khẩu đại pháo. Mà họ nơi này chỉ có một tiểu đoàn tầm sáu khẩu.

“Hiện tại họ đóng quân ở đâu?” Tạ Vụ Thanh hỏi.

“Bên kia bờ sông”.

“Lâm Đông là người cẩn thận, khi đến chỗ không quen thuộc, tất sẽ chờ rạng sáng mới tiếp tục hành quân”, Tạ Vụ Thanh gọi mọi người đến cạnh sa bàn, “Trước khi trời sáng, chúng ta phải vượt sông, cướp được tiên cơ”.

“Tôi cho cậu ba trung đoàn binh trấn giữ”, Tạ Vụ Thanh nói với Bạch Cẩn Hành trước, “Nắm lấy hai vạn binh ở cánh tả của Lâm Đông”, anh chỉ vào chỗ rừng núi trên sa bàn, “Không cần trực diện đối địch, cứ bám theo bọn họ. Cậu mang một trung đoàn tham mưu đi, họ quen thuộc nhất là địa hình rừng núi. Rừng chỗ này chướng khí mù mịt, nghĩ cách dẫn dụ bọn người kia vào”.

“Còn có cả trận pháp khí độc?” Bạch Cẩn Hành bất ngờ với phương pháp đánh giặc đa dạng của người phương Nam. 

Tạ Vụ Thanh cười cười: “Lần này mệnh chúng ta tốt, chướng khí âm u trong rừng núi chỉ xuất hiện sau thanh minh mỗi năm, tiết sương giá vừa buông, hiện giờ đúng lúc cần dùng”. Tết Thanh minh vừa đi qua, đúng là thời điểm chướng khí nặng nề.

Tạ Vụ Thanh sai người mang toàn bộ trang bị chống độc giao cho Bạch Cẩn Hành.

Trước khi kiểm kê trang bị, Bạch Cẩn Hành còn cảm thấy kỳ quái vì sao tạ Vụ Thanh không cho rút binh, đến khi xem xét trang bị chống độc, hắn đã hiểu, hết thảy trang bị cũng chỉ đủ cho hai trung đoàn sử dụng.

Con đường sau lưng là vách đá cheo leo, mặt bên là rừng núi chướng khí dày đặc. Phía trước đã bị Lâm Đông chặn đứng, chỉ còn cách đối mặt với trận chiến này.

“Ba giờ chiều, cậu dẫn theo một trung đoàn rút về, từ phía sau tập kích Lâm Đông”. Tay Tạ Vụ Thanh đè chặt lên vai Bạch Cẩn Hành, “Trước lúc mặt trời lặn, tất cả chúng ta, hoặc là cùng nhau chết, hoặc cùng nhau ăn mừng”.

Bạch Cẩn Hành cười đáp: “Tôi không muốn chết cùng cậu, cậu có người mình muốn hợp táng, tôi cũng có của riêng mình”.

Tạ Vụ Thanh hơi bất ngờ, nhìn về hắn.

Từ hai năm trước, Bạch Cẩn Hành đã biết Hà Vị và Tạ Vụ Thanh yêu nhau, mà ý trung nhân của bị lão huynh này, ngược lại chưa nghe nhắc bao giờ.

“Hơn tôi mười tuổi, đang chờ ở Nam Kinh”, Bạch Cẩn Hành cười nói, “Những thứ khác, đợi quay về rồi nói”.

Tạ Vụ Thanh gật đầu. Anh tháo đồng hồ trên cổ tay xuống, ước lượng chính xác thời gian cùng Bạch Cẩn Hành.

Bạch Cẩn Hành trịnh trọng cúi chào, quyết đoán rời đi.

Tạ Vụ Thanh cũng đáp lại bằng quân lễ nghiêm trang, nhìn hắn cất bước.

Anh gọi một đoàn tham mưu đang định ra ngoài, thấp giọng dặn dò, nếu trước ba giờ chiều đối mặt với quân địch thất bại, pháo binh sẽ phát tín hiệu. Đến lúc đó nhờ tham mưu ngăn cản Bạch Cẩn Hành, không cần quay lại cứu người: “Đưa hắn cùng các anh em còn lại theo hướng rừng núi rậm rạp trốn đi, nếu trang bị chống độc không đủ, còn có mấy hang động đá vôi nhỏ có thể ẩn nấp mấy trăm người”.

Một đoàn tham mưu nhận quân lệnh, hành quân lễ đầy kính trọng với Tạ Vụ Thanh, nhìn thoáng qua từng vị đoàn trưởng trong đội của mình, khổ sở quay đầu.

“Nhìn dáng vẻ lưu luyến không rời kìa”, đoàn trưởng trung đoàn Hai cười giễu từng người, “Đó là tham mưu hay là vợ chúng ta vậy”.

“Có thể lựa lời nói dễ nghe chút không?” Một trung đoàn trưởng cười mắng.

Bạch Cẩn Hành vừa đi, Tạ Vụ Thanh không cười nữa, anh nhìn thuộc cấp còn lại của mình.

Bốn trung đoàn, tổng cộng tám ngàn người, phải nghênh đón năm vạn quân chủ lực của Lâm Đông. Phần thắng cao nhất cũng chỉ được năm – năm, năm phần tự tin này xuất phát từ những sĩ quan trung cấp nhận được sự giáo dục của nền quân sự hiện đại. 

“Lúc này là một giờ sáng, mười phút sau chúng ta xuất phát. Đến sáu giờ, binh đoàn Bốn vòng đến đây”, Tạ Vụ Thanh kiểm tra bên ngoài thôn xóm Giang Đông không người ở trên sa bàn, “Bọc lốp đánh họ từ cánh phải, giữ chân một vạn quân. Lâm Kiêu dẫn theo trung đoàn Ba, đúng sáu giờ, tập kích tại nơi này, ngăn chặn một vạn quân khác”.

Tạ Vụ Thanh hạ tối hậu thư: “Tôi cùng trung đoàn Hai, qua sông, trực diện đối địch”.

Các tướng lĩnh tuân lệnh, đồng thời cúi chào rời đi chuẩn bị.

Tạ Vụ Thanh đeo đồng hồ, bên người chỉ còn sót lại Vương Cẩn.

Anh lấy từ túi quần hai cái bánh khô quân dụng được nén nhỏ, đưa cho Vương Cẩn một cái: “Có thể chết trận nhưng để đói chết thì thật không đáng”.

Trên người anh thường mang theo lương khô dạng này hoặc những thanh chocolate, nhiều thứ ăn không được, nhiệt độ lại cao, dễ chịu đói.

Vương Cẩn ngẩn người, đáy mắt bất chợt đỏ, nửa ngày trước lúc bọn họ ngồi xe, vì đường núi xóc nảy nên vị phó quan nhỏ tuổi này cảm thấy buồn nôn, không ăn được gì. Hắn không ngờ Tạ Vụ Thanh còn để tâm đến cả chuyện đó…

Tạ Vụ Thanh tự rót cho mình một cốc nước ấm, bảo Vương Cẩn ra ngoài báo cho các trung đoàn tập hợp ngoài trướng.

Anh ở lại lều trại im ắng, mở quyển nhật ký còn chưa kịp viết gì, tìm thấy bút máy, đầu bút dừng lại hồi lâu trên mặt giấy, nghĩ xem nên viết thế nào.

Ngày thường anh luôn cẩn thận, ngoại trừ điện báo phải viết khá nhiều, anh luôn cho rằng từ ngữ câu văn của một người đều có thể để lộ thông tin che giấu, thế nên Tạ Vụ Thanh không thích viết chữ, không muốn để người ta tìm được chút manh mối nào từ bản thân.

Anh nhấp ngụm nước ấm, dùng hình thức bạch thoại mà Hà Vị thích, viết vài chữ đơn giản:

Ngày 16 tháng Tư, trước đêm chiến đấu với Lâm Đông. Chân núi vô cùng ẩm ướt, đang vào mùa mưa, sợ rằng ngày mai trước khi vượt sông trời mưa lớn, nếu nước dâng cao, sẽ ảnh hưởng đến thời gian qua sông. Thanh Minh vừa qua, trận chiến này nếu có thể thắng, cũng xem như an ủi phần nào vong linh của các tướng sĩ đã chôn thây nơi núi rừng.

Tạ Vụ Thanh đóng quyển nhật ký lại, thay một bộ quân trang gọn nhẹ, kiểm tra thanh chuỷ thủ, súng lục của mình rồi mới ra khỏi lều lớn.

Ngoài trướng, đã có mấy chục sĩ quan đứng sẵn.

Tạ Vụ Thanh nương theo ánh trăng quan sát từng khuôn mặt của những tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng và các tham mưu: “Liệt vị. Trận chiến hôm nay, trung đoàn Một và trung đoàn Hai là quân chủ lực. Chúng ta bốn ngàn người cùng một đội pháo binh, đối phương có ba vạn quân cùng một đoàn pháo binh”.

Anh nghiêm túc nhìn mọi người: “Các vị đều là tinh nhuệ nhất trong quân đội, và sắp đối mặt với quân địch cũng thuộc loại tinh nhuệ nhất. Đây là một trận chiến có ý nghĩa quyết định, nếu thành công, tất sẽ thừa thắng xông lên, tiêu diệt toàn bộ quân phiệt Lâm Đông. Nếu thất bại, thì tất cả năm binh đoàn yểm hộ của chúng ta, đều phải chôn thây. Trung đoàn Một Hai đều là quân tinh nhuệ, cũng là anh em của năm trung đoàn chúng ta, nhất định phải nắm chắt trận chiến này!”

Mọi người nghiêm thẳng, không đáp một lời.

Cuối cùng Tạ Vụ Thanh nói: “Đi chuẩn bị đi, đúng sáu giờ vượt sông”.

5 giờ 30 phút sáng, mưa to tầm tã.

Tạ Vụ Thanh lo lắng nước dâng cao, trước nửa giờ vượt sông, tìm được nửa căn nhà bỏ hoang, dựng tạm bộ chỉ huy. Bảy giờ sáng, đã nhìn thấy quân địch bố trí phòng thủ, trung đoàn Ba truyền đến tin tức xấu: Gặp mai phục, không địch nổi.

Nhiệm vụ yểm trợ của trung đoàn Ba thất bại.

Nói cách khác, quân địch bên bờ sông đã tăng đến bốn vạn người.

“Nói với tiểu đoàn trưởng của trung đoàn Hai, quân địch tăng thêm một vạn binh”, Tạ Vụ Thanh dặn dò người liên lạc, “Tôi sẽ cho họ thêm một tiểu đoàn, năm trăm người”.

Nói đoạn, anh tiếp tục: “Báo thêm với tiểu đoàn trưởng trung đoàn Hai, kéo dài đến chính ngọ [3], nhất định sẽ có tiếp viện”.

[3] Chính ngọ: Giữa trưa 12 giờ

Bình minh lên, đại chiến bắt đầu sau phát súng thứ nhất nổ ra tại một thôn làng hoang vắng.

Tiểu đoàn Một trung đoàn Một cùng tiểu đoàn Một, tiểu đoàn Hai trung đoàn Hai đồng thời xuất kích, hai bên trận thế rất nhanh đã giao hoả, chỉ trong vòng nửa giờ đã bắt đầu đao thương chém giết.

Thừa dịp những anh em của mình dùng thân thể máu thịt để tranh thủ từng giây từng phút, tiểu đoàn Ba của trung đoàn Một chiếm giữ vị trí đất cao của địch, quân chủ lực Lâm Đông bị bức lui về phía Đông.

“Nã pháo!” Pháo binh nhìn thấy quân địch liên tục tiến vào tầm ngắm, thay phiên nhau khai hoả. 

Tiếng đạn pháo oanh tạc khắp nơi, chấn động cả đất trời.

Trong tiếng pháo nổ đinh tai nhức óc, hai tiểu đoàn binh của địch tan tác.

Lâm Đông vốn định đánh nhanh thắng nhanh, không ngờ sau mấy lần xung phong tiến quân đều không thành, còn bị mất một chỗ đất cao, ông ta càng tức tối, nhanh chóng tăng thêm binh lực. Mỗi lần quân địch tăng thêm hơn một ngàn người, mà bên Tạ Vụ Thanh mỗi lần thêm người chỉ có thể được vài chục… Số lượng quân địch áp đảo chiếm ưu thế, tuy nói Tạ Vụ Thanh cùng quan quân thuộc nhóm tinh nhuệ lấy một địch mười, nhưng vì đối phương không ngừng bổ sung nên quân số cũng bị bức ép gắt gao.

Hai giờ sau, bốn tiểu đoàn của trung đoàn Hai đều xông pha chiến trường, trung đoàn Một cũng chỉ còn sót lại một tiểu đoàn súng lục quân chờ lệnh.

Khắp nơi trên tiền tuyến nhuốm máu đỏ thẫm và những con người không ngừng điên cuồng vật lộn.

Trong suốt buổi sáng, hết lần này đến lần khác xuất kích, bọn họ đã trải qua thời khắc dài đằng đẵng nhất cuộc đời, đối diện với quân địch gấp mười lần mình, cật lực chống đỡ…

Mười hai giờ trưa.

Cánh trái bất ngờ xuất hiện một cỗ xe tăng, là trung đoàn Ba. Cuối cùng Lâm Kiêu cũng mang theo hai ngàn người quay về.

Trung đoàn Ba tiếp viện bước vào trận chiến, vừa nhìn thấy thi thể chất đầy đất của các anh em trung đoàn Hai, đôi mắt đỏ quạch, không ngừng triển khai phản công như muốn báo thù quân địch. Lâm Đông sau cùng bị bức đến phải rút lui triệt để.

Tạ Vụ Thanh từng ra lệnh cho trung đoàn Ba và trung đoàn Bốn, nếu có biến cố xảy ra, không cần kéo dài, lập tức rút quân, nghĩ cách vòng về từ trên núi. Đúng mười hai giờ trưa là tử lệnh, cho dù bò lết cũng nhất định phải quay lại.

Nhiệm vụ đầu tiên sau khi trở về là phải bắt được tiểu đoàn pháo binh của quân địch.

Lâm Kiêu để lại hai tiểu đoàn thuộc trung đoàn Ba để hỗ trợ Tạ Vụ Thanh, bản thân dẫn theo những người còn lại tấn công tiểu đoàn pháo binh. Mười tám khẩu đại pháo là trọng yếu, cho dù không đoạt được, nổ mất xác cũng phải phá nát những khẩu pháo kia.

“Tổng đội dự bị!” Tạ Vụ Thanh cởi áo ngoài quân trang ném lên ghế, rút súng.

Anh bước ra từ trại quân được dựng tạm bằng tấm vải rách, dẫn theo một tiểu đoàn súng lục quân cùng tổng đội dự bị, dọc theo bờ sông truy kích Lâm Đông. Súng lục quân vốn là lực lượng mũi nhọn, nhất định phải nhắm thẳng vào tim kẻ thù.

Mọi người xung quanh ngã xuống mảnh đất nhuốm máu.

Tạ Vụ Thanh giống như giết chóc đến đỏ mắt.

Một giờ tiếp theo, tiếng súng ầm ầm rền vang, truyền từ trận địa của pháo binh phía quân địch.

Tiểu đoàn pháo binh của quân địch bị bắt giữ.

Mất đi tiểu đoàn pháo binh, phòng tuyến tâm lý của Lâm Đông bị phá vỡ, ông ta hạ lệnh tạm thời rút lui.

Tạ Vụ Thanh truy đuổi không ngừng, không để Lâm Đông có cơ hội hít thở và lui binh…

Một bên rút lui rất nhanh, một bên truy sát còn nhanh hơn, không ngừng có binh lính ném vũ khí xuống đất, ngồi xổm đầu hàng. Tạ Vụ Thanh đuổi đến một thôn xóm hoang phế kế đó, hậu phương quân địch cuối cùng cũng truyền đến tiếng chém giết.

Ba giờ chiều, Bạch Cẩn Hành đích thân mang theo hai ngàn binh đúng hẹn quay về, xông thẳng vào phòng tuyến hậu phương của quân địch…

Trong tiếng giết chóc xa xôi, Tạ Vụ Thanh dẫn dắt súng lục quân lần nữa tiên phong. Dưới từng đợt lửa đạn mãnh liệt yểm trợ, không ngừng tiến lên. Lâm Đông bốn phía thụ địch, nghe tiếng pháo lửa liên miên, tâm thần đại loạn, hạ lệnh toàn bộ tiền tuyến rút về.

Chỉ cần vừa lui, dưới sự tấn công dồn dập từ pháo binh, quân chủ lực Lâm Đông tan rã thành cát.

Hoàng hôn hôm nay, trên mảnh đất nhuốm máu, tù binh ngồi xổm khắp nơi…

Trung đoàn tham mưu đỏ mắt quỳ xuống trước thi thể được che mặt của đoàn trưởng mình, khóc thành tiếng.

Trên quân trang của Tạ Vụ Thanh đều là máu, anh đứng cạnh bờ sông, nghe trung đoàn trưởng lần lượt báo cáo tình trạng thương vong. Đáy mắt anh cũng ửng hồng.

Có trung đoàn trưởng hy sinh trong trận chiến, còn tiểu đoàn trưởng chết hơn phân nửa, đại đội trưởng hy sinh hơn mười người, những sĩ quan, binh lính khác chôn thây vô số. Trải qua quá nhiều chiến tranh, đối với khung cảnh nơi tiền tuyến, giống như chỉ còn sót lại bốn chữ đầy bất lực – “Chiến trường tàn khốc”.

Sau trận này, thế lực Lâm Đông nhanh chóng bị tan rã và nuốt chửng.

Khi đại bản doanh bị quân bộ đội chủ lực của Tạ Vụ Thanh vây quét, Lâm Đông mang theo tàn binh giành giật suốt mấy tháng, sau đó bị tiêu diệt gần như toàn bộ, dùng súng tự sát.

Đầu năm 1926, sau hai lần đông chinh, toàn bộ Quảng Đông được thống nhất.

Tết Âm lịch vừa qua, Hà Vị lập tức xuôi Nam đến Hồng Kông.

Chuyến đi này vì để hoàn thành một chuyện xưa mà chú hai từng nhận lời với người Hà gia ở Hồng Kông.

Lúc trước Hà Vị được làm con thừa tự của một chi ở Hồng Kông, chú hai đã từng hứa hẹn, Hà Vị cũng sẽ nhận một đứa trẻ thừa tự ở đây để làm đáp lễ. Phía Hồng Kông bên kia cũng không đưa ra yêu cầu quá khắt khe với họ, gia tộc trọng nhân thân, phàm là người hưng thịnh đều nhận nuôi một đứa nhỏ nghèo trong tộc để báo đáp, chuyện lập con thừa tự cũng phổ biến thường thấy.

Trong một xấp ảnh đưa đến, Hà Vị chọn cô bé nhỏ nhất. Chỉ mới hai tuổi, dáng vẻ giống cô.

Hà gia bên kia gửi điện báo xác nhận đáp lại, nói mẹ ruột của đứa bé này mắc bệnh mất vào năm ngoái. Đứa nhỏ sợ người lạ, hy vọng Hà Vị có thể đích thân đến đó, nhìn xem thử thật sự có duyên hay không.

Hà Vị sảng khoái đồng ý.

Lúc cô đến Hồng Kông, nhìn thấy một bé gái mặc váy áo màu xanh lá đứng trong hoa viên của toà nhà lớn, cô ngồi xổm xuống, mỉm cười với cô bé, thế nhưng đứa bé ấy lại chủ động đi đến ôm lấy cổ cô. Một người bên cạnh bảo bé gái gọi mẹ, bé gái ngơ ngác không lên tiếng.

Hà Vị cười, nói với người bên cạnh: “Gọi là cô nhỏ đi”.

Bản thân Hà Vị cũng như thế, chỉ khi có người ngoài mới gọi chú hai là cha. Nếu không quen gọi thì cũng không cần thiết sửa lại làm gì.

Bé gái tên Hà Tư Niên, mẹ ruột của bé họ Tư, thế nên chọn luôn tên này. Hà Vị cũng không thay đổi.

Hà Vị sợ hành trình bị lộ, trước lúc xuôi Nam không gửi điện báo cho Tạ Vụ Thanh, sau khi đến Hồng Kông mới dùng danh nghĩa công ty phát điện tín đến Quảng Châu. Cô dành một tuần ở Hồng Kông để xử lý giấy tờ pháp lý nhận con thừa tự, nhưng chờ mãi không thấy Tạ Vụ Thanh hồi âm.

Điều này nằm trong dự liệu của cô, mấy tháng nay Tạ Vụ Thanh vẫn luôn diệt phỉ ở ngoài.

Những năm qua, hầu hết những vùng đất bên ngoài phương Nam đều trở thành thuộc địa nước Pháp. Giữa người Pháp cùng dân bản địa tranh đấu không ngừng, kẻ nhập cư trái phép không ít, cùng với những người vì nội chiến loạn thế phải làm giặc cỏ lưu lạc đến vùng rừng núi biên cảnh, trở thành bọn phỉ hung hăng.

Thế nên, diệt phỉ cũng là chuyện mà Tạ Vụ Thanh phải làm mỗi năm.

Tuy vậy, Hà Vị vẫn ôm theo tia hy vọng, đến thành Quảng Châu.

Cô nhờ bạn bè giúp mình che giấu thân phận đến Quảng Châu, sau đó phải theo bạn bè quay về Hồng Kông, cùng lắm chỉ có thể ở lại một đêm.

Trước khi đến, cô đã sớm hỏi thăm chỗ ở của tướng quân Tạ Khanh Hoài, dắt theo Tư Niên đến căn hộ nhỏ. Sau mấy lần ấn chuông, cuối cùng cũng có một ông bác đi tới mở khoá sắt, từ trong ô cửa nhìn ra. Hà Vị nói muốn gặp tướng quân Tạ Khanh Hoài, đối phương lắc đầu, nói tướng quân không có nhà, liền lập tức đóng cửa.

Tạ Vụ Thanh từng nhắc với cô, nói căn hộ ở Quảng Châu là của chị hai anh, người coi sóc cũng là của cô hai Tạ gia, Hà Vị hiểu người này nhất định biết Tạ Vụ Thanh cũng chính là Tạ Vụ Khanh Hoài. Cô lấy ra một quyển sổ cứng từ trong túi, đưa cho ông bác, nói dù anh không có ở nhà, đêm nay cô cũng muốn ở lại đây.

Ông bác khó hiểu, vừa lật quyển sổ kia ra thì sửng sốt, đúng là một bức hôn thư được ép lại bằng tờ nhựa, sau khi nhìn rõ chữ ký và con dấu ở góc trái dưới cùng, lúc này ông bác mới khép quyển sổ, lập tức mở xích khoá, hai tay dâng trả giấy tờ cho Hà Vị.

Hà Vị bế Tư Niên lên, nói với lái xe cùng thư ký đang chờ bên đường, sáng mai bảy giờ hãy đón.

Cô ôm bé gái, đi theo ông bác vào căn hộ.

Trước nay luôn là Tạ Vụ Thanh vào kinh, xâm nhập vào thế giới của cô, còn hôm nay, cô giống như bước vào vùng đất chỉ thuộc về riêng anh. Một căn hộ nho nhỏ, tầng một có phòng khách và thư phòng, tầng hai mới là phòng ngủ cùng một gian cho khách.

“Tướng quân thích hải đường, tôi không dám động vào… sợ nuôi không tốt sẽ chết hoa”, ông bác chỉ vào những chậu hải đường đặt trong thư phòng, không ngừng lẩm bẩm, “Trong nhà đã lâu không ai về, tôi không chăm sóc chúng… À, đúng rồi, tháng trước tướng quân có sai người từ Quảng Tây mang đến mấy túi cam quýt, vẫn còn, để tôi đi lấy. Cam quýt trồng trên núi, ngọt nước vô cùng”.

Hà Vị thả Tư Niên xuống đất, bị mấy tấm ảnh chụp trên kệ sách thu hút ánh nhìn.

Cô cầm lấy một bức ảnh Tạ Vụ Thanh diện quân trang kiểu cũ, nhìn qua, có lẽ là dáng vẻ anh lúc mới được xưng thiếu tướng quân, chỉ tầm mười bảy mười tám tuổi. Đây là lần đầu Hà Vị trông thấy Tạ Vụ Thanh thiếu niên, từ bức ảnh cũ kỹ có thể nhận ra ánh mắt sáng ngời của anh.

Có điều theo tuổi tác dần lớn, trải qua nhiều bận sinh tử, nguyên khí tổn hại nhiều, nếp gấp trên mí mắt sâu dần, hốc mắt cũng sâu hoắm, ánh sáng trong đáy mắt bị năm tháng che giấu, khuất lấp.

Tư Niên đến chỗ lạ cảm thấy sợ, hai cánh tay vòng qua đùi cô, ngửa đầu nhìn.

Cô ngồi xổm xuống, chỉ vào người đàn ông mặc quân trang áo cổ đứng, chân mang ủng quân đội trong bức ảnh, nói với Tư Niên: “Đây là dượng nhỏ”.

Tư Niên mở to đôi mắt tròn xoe nhìn chăm chú ảnh chụp.

Đây là cha ư.

Tư Niên nghĩ thế, càng nhìn kỹ lưỡng.

— HẾT CHƯƠNG 36 —


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.
Kinh Thành Về Đêm (Dạ Lan Kinh Hoa)

Chương 36: Trăng thành cổ thiên thu (2)



Đặng Nguyên Sơ bước vào, nhẹ giọng nói: “Anh Thanh sợ cô đau lòng nên bảo tôi đến ngồi cùng cô một lát”.

Hà Vị cầm danh sách liệt kê những loại mứt khô, đặt tờ hôn thư ở giữa, sợ chốc lát lấy ra bị người khác chú ý. Chuyện kia cũng thường thấy… ít nhất là mỗi lão nhân gia chỗ này đều từng chứng kiến hay trải qua.

Cô biết Tạ Vụ Thanh vẫn còn trong toà lâu, không thể vừa ra khỏi phòng riêng đã biến mất, cần phải vượt qua nhiều đường. Cũng không biết trong tràng cười đùa ồn ào xung quanh, nơi nào có anh.

“Anh Thanh là người dạy tiết học đầu tiên của tôi ở Bảo Định”, Đặng Nguyên Sơ ngồi trước mành trúc, tán gẫu với cô, giúp cô giảm bớt tâm sự trong lòng. “Bài đó nói rằng, ở trên chiến trường cần phải có lòng dũng cảm không tiếc hy sinh thân mình vì nước, cũng nên biết trước, vì đại cục, vì đồng bào, vì cuộc sống an ổn, lúc nào cũng có thể bị bỏ rơi. Nhiều khi vì bảo toàn chuyện lớn, đúng lúc ở nơi không thể tiếp viện, đánh đến cuối chỉ còn lại một mình, sau đó là chết trận”, hắn ngừng một lát nói tiếp, “Những thứ kia, cần phải nhìn thấu mới có thể đến chết không hối tiếc”.

Cô bỗng nhớ đến anh từng nói “Quốc gia cùng người, đều có thể phụ tôi”… Chung quy từ đó mà ra.

“Khi ấy tôi đã nghĩ, thầy giáo này rốt cuộc có gì chứ. Không chỉ dựa vào chiến công mới được giữ lại trường”.

“Tiết thứ hai là gì?” Cô muốn biết chuyện quá khứ của anh, càng nhiều càng tốt.

“Tiết thứ hai…” Đặng Nguyên Sơ nhớ lại, “Giảng về — thượng binh phạt mưu [1], tiếp đến là phạt giao, rồi lại phạt binh [2], sau cùng hạ thành”.

[1] Thượng binh phạt mưu, ý chỉ dùng mưu kế, sách lược để đánh hạ kẻ địch.

[2] Phạt giao, ý chỉ phá vỡ sự liên kết của kẻ thù với xung quanh; Phạt binh, ý chỉ phá tan phòng tuyến của binh lính giặc

Đặng Nguyên Sơ nhớ đến liền cười: “Nghe anh ấy giảng xong, tôi liền biết bài học này. Năm đó tôi hỏi anh ấy, liệu tôi có năng lực đến làm việc ở Bộ Ngoại giao không, anh ấy trả lời là, ‘Những người từng lãnh binh đánh trận đều hiểu được đạo lý, mưu trước giao sau, tiếp đến mới dụng binh, đây vốn là môn học bắt buộc, có gì không thể?”

Hắn lại nói: “Giao tiếp để giành lấy hoà bình, là một loại năng lực mà những tướng lĩnh cấp cao cần phải có. Nếu không giỏi chuyện này, cũng không xứng làm học trò của Tạ Vụ Thanh. Cho tới bây giờ, anh Thanh trên chiến trường luôn là một lão hồ ly, so với những kẻ ngày xưa giam lỏng anh ấy ở đây không biết cao hơn bao nhiêu bậc, đúng thật là tính kế tàn nhẫn”.

Hà Vị cười, mọi khổ sở trong lòng đều bị lời này xua tan hết.

“Vẫn là anh ấy hiểu anh”, cô hỏi Đặng Nguyên Sơ, “Chuẩn bị quay về Bộ Ngoại giao sao?”

Đặng Nguyên Sơ ngầm thừa nhận.

“Bác Tấn không con không cái, nhưng quan hệ rộng khắp, cũng rất thích anh. Chú chín đã trở lại, để tôi bảo chú ấy thay hai người làm chứng, giúp anh nhận cha nuôi. Đây cũng là ý định của bác Tấn, ông muốn để lại các mối quan hệ của mình cho anh. Nếu anh còn muốn làm ngoại giao —”

Rèm cửa được vén lên, cô dừng lại.

Có quan quân tiến vào, lấy rương quân trang của Tạ Vụ Thanh đi, đây đều là đồ Tạ Vụ Thanh phải thay khi ra khỏi thành.

“Thay tôi nhắn với tướng quân”, cô nhẹ giọng nhắc nhở, “Sau khi Liên Xô thành lập luôn bị các quốc gia khác cô lập, đường biển sang đó không dễ đi chút nào. Hơn nữa giờ đang là mùa đông, không thể đi được. Hà gia sẽ mở chuyến tàu sớm nhất, vào tháng Ba”.

“Ti chức hiểu ạ”.

Quan quân thẳng lưng, chào theo kiểu quân lễ với cô rồi mang rương da ra ngoài.

Dưới lầu vô cùng náo nhiệt, là cô đào sắp sửa diễn áp trục tối nay bước ra, trang điểm kỹ càng, theo người giới thiệu đến chào các vị khách quý. 

Cô đào này tên gọi Chúc Tiểu Bồi, cũng chính là người ở chung với Đặng Nguyên Sơ trong hội quán.

Hà Vị xuyên qua rèm cửa nhìn thấy ông chủ của Quảng Đức Lâu, còn có mấy người đàn ông không biết mặt đứng phía trên, bọn họ hộ tống Tạ Vụ Thanh đi ra sau sân khấu… Thiếu tướng quân của cô, đi thật rồi.

Năm mới này, phòng hai và phòng chín ở cùng nhau.

Hai anh em thân thiết sau khi uống rượu một hồi liền ngủ gà ngủ gật. Thím lớn thím nhỏ cùng vô trở về phòng, ba người chen chúc trên cái giường Bạt Bộ, mở cái hộc tủ trên vách gỗ. Thím nhỏ lấy ra một cây nến sinh nhật, mỉm cười: “Mộc mạc thế”.

Thím lớn thấy lạ hỏi: “Cây nến này từng đốt chưa?” Đỉnh lõi bông vẫn còn vệt màu đen.

Thím lớn theo thói quen định tìm cây kéo, muốn cắt đỉnh lõi bông nhòn nhọn kia.

Hà Vị vừa trông thấy đã đoạt lại: “Cái này không thể cắt đâu ạ”.

Hai người thím của cô trước đây từng sống những ngày phải xem sắc mặt người ta để đoán ý, tất nhiên biết được nến sinh nhật này có liên quan đến vị Tạ thiếu tướng quân kia rồi. Tru𝒚ện‎ ha𝒚‎ luôn‎ có‎ tại‎ +‎ trù‎ mtru𝒚ện.𝘃n‎ +

Hà Vị gói kỹ nến sinh nhật trong khăn tay trả về chỗ cũ.

Thím lớn thím nhỏ uống chút rượu nên đi ngủ sớm, cô ngược lại ngủ không yên, bèn xuống giường ra ngoài dạo.

Trong phòng Tây, Khấu Thanh ôm quyển sách tiếng Anh đánh vần, ngẩng đầu trông thấy Hà Vị liền muốn hỏi han, nhưng cố gắng nhíu mày không lên tiếng, nghẹn một lúc lâu mới bật ra nửa câu: “Cô hai sao còn chưa ngủ ạ?”

Hiếm khi cô bé không nói lắp. Tật xấu này của Khấu Thanh vốn không phải bẩm sinh, lão trung y từng nói cô bé không có dị tật, chỉ do tâm bệnh, khi bản thân muốn sửa liền sửa được thôi. Vì thế đôi khi cô bé vẫn có thể nói một câu hoàn chỉnh không lắp bắp.

Nhưng tất nhiên, để nói được một câu trôi chảy như thế, Khấu Thanh đã sửa đi sửa lại suốt nửa tháng.

Mỗi lần đều nghẹn đến đỏ mặt…

“Em rốt cuộc bị thứ gì đả kích?” Cô xốc góc chăn, ngồi xuống cạnh Khấu Thanh, lưng tựa vào thành giường, “Sao bỗng nhiên muốn sửa vậy?”

Khấu Thanh lại nín thở.

Thôi được, cô kiên nhẫn chờ chút.

“Em, em nói lắp tiếp vậy… cái này cũng không thể một hai ngày là có thể sửa ngay”.

Quân Khương xoay người, ngồi trên giường đối diện lên tiếng: “Để em nói thay cho”.

Đêm giao thừa, mọi người đều không quen ngủ sớm, ai cũng tỉnh rụi.

“Có một lần Khấu Thanh nói chuyện cùng Lâm Kiêu, em ấy nghe Lâm Kiêu bảo, Tạ thiếu tướng quân mưu lược hơn người, không chuyện gì không giải quyết. Khấu Thanh liền chạy đi xin giúp đỡ, cầu mong Tạ thiếu tướng quân cho em ấy một lời khuyên, làm sao thoát khỏi tật xấu này”.

Hà Vị không nghĩ Tạ Vụ Thanh còn quản cả mấy chuyện kia.

“Tạ thiếu tướng quân nói với Khấu Thanh là, nếu sau này có một ngày cô hai của các cô phải lẩn trốn che giấu tung tích, mang theo cô sẽ vô cùng nguy hiểm. Vì đặc điểm nhận dạng của cô quá rõ ràng, dù có thay đổi khuôn mặt cũng vô ích”, Quân Khương ngồi dậy, chỉ vào Khấu Thanh, “Nha đầu này nghe thấy liền lập tức hạ quyết tâm”.

Khấu Thanh liên tục gật đầu.

Quân Khương nhớ lại: “Thiếu tướng quân lúc ấy còn nói, vì Khấu Thanh thật lòng thật dạ muốn đối tốt với cô hai, đây là động lực lớn nhất. Chỉ cần lòng người có chỗ hướng về, càng dễ thành công”.

Lòng người có chỗ hướng về, càng dễ thành công.

Cô lẩm bẩm những lời này, phảng phất như nhìn thấy bộ dáng của Tạ Vụ Thanh khi nói chuyện.

Quân Khương cũng chen vào: “Lúc nào cũng phản quân phiệt, phản quân phiệt, thật ra em không hiểu lắm. Thiếu tướng quân rốt cuộc vì cái gì liều mạng như vậy?”

Hà Vị cười khổ.

Tạ Vụ Thanh là tướng quân, với anh mà nói, thời buổi loạn lạc bất kỳ ai cũng có thể cầm súng đứng lên, tuỳ lúc bỏ mạng.

Cô thấp giọng đáp: “Quân phiệt ở các tỉnh một khi giành thắng lợi liền thu thuế, nếu thua cuộc thì bắt trai tráng nhà dân đi lính. Rất nhiều gia đình không có tiền, cũng không có người lao động, toàn bộ đều phải ra ngoài đánh giặc…”

Mà Hà gia xuất thân là thương nhân, đối với chính sách thu thuế hiểu rõ nhất, trong chuyện này mọi người khổ đến thế nào.

Cô lại tiếp lời: “Anh trai trước kia từng làm ở Bộ Tài chính, chỉ có mấy tỉnh thành là thật sự nộp thuế, còn những quân phiệt các tỉnh còn lại vì xưng vua một cõi nên không chịu nộp thuế cho quốc gia. Đất nước làm cái gì cũng không đủ tiền, mà bọn họ lại rặt một đám phú khả địch quốc [3], ở các tỉnh đó, cái gì cũng có thể đánh thuế được, chỉ có chuyện các em không tưởng nổi chứ không có chuyện bọn họ không dám làm. Nếu thu thuế lương thực không đủ, vậy thì nộp thêm thuế cày cuốc, đến cả việc lên núi hốt phân súc vật mang về bón cây cũng bắt nộp thuế phân. Chưa kể còn có các loại quyên tiền, nào là quyên tiền kết hôn, quyên tiền uống trà, quyên tiền xem kịch, làm hoà thượng cũng phải quyên tiền. Những tư lệnh đó còn sợ không đủ, bắt phải thu thuế trước và sau mấy chục năm, có quân phiệt một lần thu đến năm 2050, thuế của một trăm năm sau đều thu xong hết rồi. Nếu không thể nộp thuế thì làm sao bây giờ? Chỉ còn cách bán con bán cái, cả nhà đói chết la liệt đầu đường”.

[3] Phú khả địch quốc, ý chỉ một người/hộ/nhóm giàu ngang ngửa một quốc gia

Thậm chí có thứ còn khủng khiếp hơn, chính là thuốc phiện. Đây cũng là điều khiến cô và Tạ Vụ Thanh thống hận nhất.

Cô nhẹ nhàng nói: “Quân phiệt các nơi vì muốn mở rộng quân đội, nghĩ cách để nông dân trồng thuốc phiện. Anh Thanh nhiều năm chinh chiến bên ngoài, càng cảm nhận sâu sắc”, thế nên việc Tạ Vụ Thanh muốn cấm thuốc, quả thực là liếm máu trên mũi dao, Hà Vị có thể tưởng tượng được có biết bao kẻ ôm hận vì anh, bởi lẽ đây chính là nguồn thu huyết mạch của đám người đó, “Có quân phiệt còn phát minh ra thuế lười, chuyên trừng phạt những “người lười biếng” không chịu trồng thuốc phiện. Năm đầu tiên Dân quốc, thuốc phiện chỉ chiếm 3 phần đất canh tác, mà nay đã gấp năm, sáu lần”.

Có người đùa rằng, từ khi Dân quốc tới nay, cuộc chiến của quân phiệt là một phiên bản khác của chiến tranh thuốc phiện, các nhóm quân phiệt tranh đoạt đất đai, nhằm chiếm giữ đất canh tác trồng thuốc phiện, chỉ vì muốn thu được nhiều tiền, mua thật nhiều vũ khí tối tân…

Không một quốc gia nào có thể giàu mạnh trong tình cảnh như thế.

Cũng không một người dân thường nào lại muốn sống trong xã hội như vậy, nếu không phải bị bóc lột đến tiền của đời cháu chắt thì chính là chịu cảnh lúc nào cũng có thể bị người ta kéo ra ngoài đánh giặc, sau đó bị giết chết, bị nổ chết trên mảnh đất quê hương mình… Nếu không thì đem toàn bộ cương thổ của Hoa Hạ gieo trồng thuốc phiện.

Một khi không người quản thúc, đám quân phiệt này tương lai sẽ thành dạng gì?

Đều nói “nhất tướng công thành vạn cốt khô” [4], hài cốt ấy nên là thây xác của những kẻ xâm lấn lãnh thổ trên chiến trường, chứ không phải đạp lên tính mạng của người dân bình thường để xây dựng thành trì.

[4] Nghĩa đen là mỗi một vị tướng thành công đều phải đánh đổi bằng vạn bộ xương cốt của binh lính chết khô; nghĩa bóng là vinh quang của các bậc vua chúa tướng lĩnh đều phải trả giá bằng tính mạng của rất nhiều người.

Mùng Một Tết, Quân Khương mang đến một lá thư.

Hà Vị thấy Quân Khương nén cười, như đoán được điều gì đó, tim đập thình thịch.

Cô vội cướp lá thư từ tay Quân Khương, tìm một cây kéo bạc nhỏ, cẩn thận tỉ mỉ cắt bì dán.

Rút một tờ giấy được gấp làm bốn, cô chậm rãi mở ra, nhìn nét chữ là của Tạ Vụ Thanh:

Em thân yêu,

Nay đã đến nước ngoài, rất nhớ nhung. Mấy ngày gần đây lo lắng tình hình chiến sự phương Nam, ba đường hai ngả đông chinh đều là thuộc hạ cũ của quân phiệt, sợ rằng có dị tâm, cùng quân phản nghịch ngầm trao đổi tin tức. Nhưng, thân đang ở đất Bắc, bị bó buộc tay chân, chỉ đợi mùa đông qua lập tức có thể xuôi Nam. Đông chinh vì thống nhất toàn bộ Quảng Đông, một khi Quảng Đông được củng cố, mới có thể bắc phạt, vì vậy trận chiến này phải thắng, hơn nữa nhất định phải thắng lợi vẻ vang.

Nhớ lại ngày đó chú hai từng hỏi, về chuyện bắc phạt, rất nhanh sẽ đến. Nhiều năm nay tâm nguyện của Thanh chính là bắc phạt, nhưng cũng không chỉ có vậy.

Cường quốc dùng tô giới như một nước trên đất ta, ôm theo tâm tư lang sói, một ngày quốc thổ còn chưa vẹn toàn, thuốc phiện khó được diệt trừ, kéo dài như cá trong ấm nước chờ đun, ngày đêm bất an. Chí hướng trong lòng này, chưa bao giờ thay đổi, vì cứu nước độ dân là thiên chức của người hành quân, đến chết không hối hận. Mà anh độc thân hơn 30 năm, cuối cùng cũng có em làm tri kỷ, chắc vì cứu nước cứu dân, nên được trời xanh thương tình.

Ngày cuối năm, nhớ nhà cũng mong em.

Nhớ đến áo cơm của bốn trăm triệu đồng bào, cũng là nhớ chuyện cơm áo của em, mong cầu cho đất nước của bốn trăm triệu đồng bào, cũng cầu mong em tuổi mới vô ưu vô lo.

Thanh,

Ngày 13 tháng Một.

Cô phát hiện thư có hai mặt, mặt thứ hai chỉ có một hàng chữ:

Từ thời niên thiếu Thanh đã vào Liễu doanh, câu văn không giỏi, cầm bút chỉ viết chuyện chiến tranh, đặt bút chỉ lo bày binh bố trận. Bản thân trên chiến trường buồn chán không thú vị, may mắn có em thân yêu, không chê không bỏ. 

Cô bất giác mỉm cười.

Dường như khi anh viết xong mặt trước, cảm thấy không ổn lắm, nên mới viết thêm một mặt nữa.

Cô cầm trên tay phong thư nhà đầu tiên anh gửi, xem đi xem lại đến khi trên mặt cảm giác lành lạnh, vừa ngẩng đầu mới biết là tuyết rơi rồi.

Hà Vị ngửa đầu cười, nhìn bông tuyết lả tả rơi xuống.

Nghe nói phương nam ít tuyết, cũng không biết có thể nhìn thấy tuyết lớn như thế không. Cô chưa từng đến Quảng Châu, nghe bảo ở đó điểm tâm sáng rất ngon. Còn có Quý Châu… Cô nhớ đến bình rượu Mao Đào pha lẫn với trà hoa quế, trước lúc kết hôn, cô nhất định phải đến quê hương anh một lần, tận mắt nhìn ngắm vùng đất anh lớn lên từ thuở bé xíu. 

Cô lại nghĩ cái tên Tạ Khanh Hoài lừng danh ở phương nam, nghe bảo không phải trên chiến trường, mà chính là ở trường quân đội. Anh cũng lâu rồi không về quê cũ… Có điều đối với người như anh mà nói, quốc gia chính là quê hương. Bất kể đông tây nam bắc, dân tộc là nhà.

Ngày 1 tháng Hai, chính phủ của Đoàn Kỳ Thuỵ tổ chức thành công hội nghị khắc phục hậu quả sau chiến tranh.

Tại hội nghị khắc phục hậu quả này, quân phiệt các tỉnh Tây Nam một lần nữa đưa ra chủ trương “tự trị liên tỉnh”, bắt chước phương Tây, thành lập một hệ thống nhà nước liên bang.

Đối với chuyện đó, Tấn lão từng đánh giá một câu với cô: “Chưa cần nói tốt xấu, chỉ nhìn từ đời Ngu Hạ Thương Chu, mấy ngàn năm qua chúng ta luôn kiên trì giữ vững bốn biển quy về một mối. Tự trị liên tỉnh ư? Nếu đúng thật thì chẳng ai có thể quản nổi bọn họ, toàn bộ đất nước này trên dưới đều là ruộng thuốc phiện”.

Ngày 1 tháng Ba, Hội nghị Quốc dân tổ chức tại Bắc Kinh.

Trên báo đăng rất nhiều người nổi tiếng đến tham dự hội nghị, ví như Lý Đại Chiêu, Vương Tẫn Mỹ, Triệu Thế Viêm.

Tết năm nay, Tạ Vụ Thanh ở Liên Xô.

Giữa tháng Ba, Tạ Vụ Thanh nhìn thấy Bạch Cẩn Hành du học nước ngoài mấy năm trời, đã nhiều năm không gặp, Bạch Cẩn Hành thành thục không ít. Hai người bạn cũ ôm chào nhau, sau đó buông ra đánh giá đối phương.

“Cậu đến đây khi nào?” Tạ Vụ Thanh hỏi hắn, ý bảo ngồi nói chuyện.

“Lúc ở châu Âu, rất nhiều du học sinh Trung Quốc bị khi dễ, bộ phận của chúng ta ở châu Âu đã giúp những du học sinh này đến Liên Xô, tôi cũng theo tới đây”. Bạch Cẩn Hành cười ngồi xuống.

Bạch Cẩn Hành được cô cả Tạ gia giới thiệu gia nhập Đảng, vừa gặp được Tạ Vụ Thanh càng có nhiều lời muốn nói.

Hai người nói từ chuyện đông chinh đến cuộc chiến bắc phạt sau này, không có hồi kết.

Kể từ lúc quốc cộng hợp tác, có rất nhiều người ở phe họ hoặc đang làm giáo viên, hoặc đang làm học sinh ở Học viện Quân sự Hoàng Phố, lập tức dẫn binh đông chinh, chiến đấu hăng hái vì Quảng Đông thống nhất, cũng là vì công tác chuẩn bị cho cuộc chiến bắc phạt trong tương lai.

Danh tướng như mây, mưu lược như mưa, không một ai cá biệt.

Đêm đó.

Tạ Vụ Thanh vốn đã thiếp đi, lại bị tiếng gõ cửa đánh thức, cấp dưới lúc nào cũng cố gắng đảm bảo việc nghỉ ngơi của anh, trừ phi có chuyện nguy hiểm đến tính mạng, bằng không sẽ không quấy rầy. Anh xoay người ngồi dậy, mở cửa, Bạch Cẩn Hành đứng bên ngoài đưa cho anh một phần điện báo.

Tôn Văn [5] bệnh chết ở kinh thành.

[5] Tôn Văn là tên gọi khác của Tôn Trung Sơn

Tạ Vụ Thanh nhìn mấy chữ ít ỏi, trong lúc đó nhớ lại rất nhiều chuyện. Đều là chuyện của quá khứ. Những người trong cuộc Cách mạng Tân Hợi lần lượt rời đi, năm tháng chiến đấu trên tiền tuyến đời trước của anh dường như trôi qua trước mắt.

Sau nhiều phút trầm mặc, anh gấp điện tín lại rồi ra ngoài.

Trong căn phòng tĩnh lặng đứng đầy tướng lĩnh, Tạ Vụ Thanh thấp giọng nói: “Đêm nay các vị thu dọn hành lý cẩn thận, chúng ta phải quay về rồi. Tìm cách đi đường bộ”.

Mà hành trình trên lưng ngựa chiến của anh nửa đời sau chỉ vừa mới bắt đầu.

Tình hình sau đó, giống như những lời Lý Đại Chiêu tiên sinh đã nói trong điếu văn:

“Trung Hoa là nơi mà các cường quốc thế giới đến tranh giành, từ châu Âu tới Nhật Bản, cướp đoạt chính trị, xâm lăng kinh tế, thậm chí âm mưu liên minh với nhau, chỉ để đoạt được đất nô lệ đem về làm trâu ngựa”.

Vô số tiền nhân đã ra đi, vô số hậu nhân hết người này đến người khác lần lượt ngã xuống.

Thử hỏi kế tiếp là ai? Ắt có người kế nghiệp của Hoa Hạ muôn đời hùng mạnh.

— HẾT CHƯƠNG 35 —


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.