Đặng Nguyên Sơ bước vào, nhẹ giọng nói: “Anh Thanh sợ cô đau lòng nên bảo tôi đến ngồi cùng cô một lát”.
Hà Vị cầm danh sách liệt kê những loại mứt khô, đặt tờ hôn thư ở giữa, sợ chốc lát lấy ra bị người khác chú ý. Chuyện kia cũng thường thấy… ít nhất là mỗi lão nhân gia chỗ này đều từng chứng kiến hay trải qua.
Cô biết Tạ Vụ Thanh vẫn còn trong toà lâu, không thể vừa ra khỏi phòng riêng đã biến mất, cần phải vượt qua nhiều đường. Cũng không biết trong tràng cười đùa ồn ào xung quanh, nơi nào có anh.
“Anh Thanh là người dạy tiết học đầu tiên của tôi ở Bảo Định”, Đặng Nguyên Sơ ngồi trước mành trúc, tán gẫu với cô, giúp cô giảm bớt tâm sự trong lòng. “Bài đó nói rằng, ở trên chiến trường cần phải có lòng dũng cảm không tiếc hy sinh thân mình vì nước, cũng nên biết trước, vì đại cục, vì đồng bào, vì cuộc sống an ổn, lúc nào cũng có thể bị bỏ rơi. Nhiều khi vì bảo toàn chuyện lớn, đúng lúc ở nơi không thể tiếp viện, đánh đến cuối chỉ còn lại một mình, sau đó là chết trận”, hắn ngừng một lát nói tiếp, “Những thứ kia, cần phải nhìn thấu mới có thể đến chết không hối tiếc”.
Cô bỗng nhớ đến anh từng nói “Quốc gia cùng người, đều có thể phụ tôi”… Chung quy từ đó mà ra.
“Khi ấy tôi đã nghĩ, thầy giáo này rốt cuộc có gì chứ. Không chỉ dựa vào chiến công mới được giữ lại trường”.
“Tiết thứ hai là gì?” Cô muốn biết chuyện quá khứ của anh, càng nhiều càng tốt.
“Tiết thứ hai…” Đặng Nguyên Sơ nhớ lại, “Giảng về — thượng binh phạt mưu [1], tiếp đến là phạt giao, rồi lại phạt binh [2], sau cùng hạ thành”.
[1] Thượng binh phạt mưu, ý chỉ dùng mưu kế, sách lược để đánh hạ kẻ địch.
[2] Phạt giao, ý chỉ phá vỡ sự liên kết của kẻ thù với xung quanh; Phạt binh, ý chỉ phá tan phòng tuyến của binh lính giặc
Đặng Nguyên Sơ nhớ đến liền cười: “Nghe anh ấy giảng xong, tôi liền biết bài học này. Năm đó tôi hỏi anh ấy, liệu tôi có năng lực đến làm việc ở Bộ Ngoại giao không, anh ấy trả lời là, ‘Những người từng lãnh binh đánh trận đều hiểu được đạo lý, mưu trước giao sau, tiếp đến mới dụng binh, đây vốn là môn học bắt buộc, có gì không thể?”
Hắn lại nói: “Giao tiếp để giành lấy hoà bình, là một loại năng lực mà những tướng lĩnh cấp cao cần phải có. Nếu không giỏi chuyện này, cũng không xứng làm học trò của Tạ Vụ Thanh. Cho tới bây giờ, anh Thanh trên chiến trường luôn là một lão hồ ly, so với những kẻ ngày xưa giam lỏng anh ấy ở đây không biết cao hơn bao nhiêu bậc, đúng thật là tính kế tàn nhẫn”.
Hà Vị cười, mọi khổ sở trong lòng đều bị lời này xua tan hết.
“Vẫn là anh ấy hiểu anh”, cô hỏi Đặng Nguyên Sơ, “Chuẩn bị quay về Bộ Ngoại giao sao?”
Đặng Nguyên Sơ ngầm thừa nhận.
“Bác Tấn không con không cái, nhưng quan hệ rộng khắp, cũng rất thích anh. Chú chín đã trở lại, để tôi bảo chú ấy thay hai người làm chứng, giúp anh nhận cha nuôi. Đây cũng là ý định của bác Tấn, ông muốn để lại các mối quan hệ của mình cho anh. Nếu anh còn muốn làm ngoại giao —”
Rèm cửa được vén lên, cô dừng lại.
Có quan quân tiến vào, lấy rương quân trang của Tạ Vụ Thanh đi, đây đều là đồ Tạ Vụ Thanh phải thay khi ra khỏi thành.
“Thay tôi nhắn với tướng quân”, cô nhẹ giọng nhắc nhở, “Sau khi Liên Xô thành lập luôn bị các quốc gia khác cô lập, đường biển sang đó không dễ đi chút nào. Hơn nữa giờ đang là mùa đông, không thể đi được. Hà gia sẽ mở chuyến tàu sớm nhất, vào tháng Ba”.
“Ti chức hiểu ạ”.
Quan quân thẳng lưng, chào theo kiểu quân lễ với cô rồi mang rương da ra ngoài.
Dưới lầu vô cùng náo nhiệt, là cô đào sắp sửa diễn áp trục tối nay bước ra, trang điểm kỹ càng, theo người giới thiệu đến chào các vị khách quý.
Cô đào này tên gọi Chúc Tiểu Bồi, cũng chính là người ở chung với Đặng Nguyên Sơ trong hội quán.
Hà Vị xuyên qua rèm cửa nhìn thấy ông chủ của Quảng Đức Lâu, còn có mấy người đàn ông không biết mặt đứng phía trên, bọn họ hộ tống Tạ Vụ Thanh đi ra sau sân khấu… Thiếu tướng quân của cô, đi thật rồi.
—
Năm mới này, phòng hai và phòng chín ở cùng nhau.
Hai anh em thân thiết sau khi uống rượu một hồi liền ngủ gà ngủ gật. Thím lớn thím nhỏ cùng vô trở về phòng, ba người chen chúc trên cái giường Bạt Bộ, mở cái hộc tủ trên vách gỗ. Thím nhỏ lấy ra một cây nến sinh nhật, mỉm cười: “Mộc mạc thế”.
Thím lớn thấy lạ hỏi: “Cây nến này từng đốt chưa?” Đỉnh lõi bông vẫn còn vệt màu đen.
Thím lớn theo thói quen định tìm cây kéo, muốn cắt đỉnh lõi bông nhòn nhọn kia.
Hà Vị vừa trông thấy đã đoạt lại: “Cái này không thể cắt đâu ạ”.
Hai người thím của cô trước đây từng sống những ngày phải xem sắc mặt người ta để đoán ý, tất nhiên biết được nến sinh nhật này có liên quan đến vị Tạ thiếu tướng quân kia rồi.
Hà Vị gói kỹ nến sinh nhật trong khăn tay trả về chỗ cũ.
Thím lớn thím nhỏ uống chút rượu nên đi ngủ sớm, cô ngược lại ngủ không yên, bèn xuống giường ra ngoài dạo.
Trong phòng Tây, Khấu Thanh ôm quyển sách tiếng Anh đánh vần, ngẩng đầu trông thấy Hà Vị liền muốn hỏi han, nhưng cố gắng nhíu mày không lên tiếng, nghẹn một lúc lâu mới bật ra nửa câu: “Cô hai sao còn chưa ngủ ạ?”
Hiếm khi cô bé không nói lắp. Tật xấu này của Khấu Thanh vốn không phải bẩm sinh, lão trung y từng nói cô bé không có dị tật, chỉ do tâm bệnh, khi bản thân muốn sửa liền sửa được thôi. Vì thế đôi khi cô bé vẫn có thể nói một câu hoàn chỉnh không lắp bắp.
Nhưng tất nhiên, để nói được một câu trôi chảy như thế, Khấu Thanh đã sửa đi sửa lại suốt nửa tháng.
Mỗi lần đều nghẹn đến đỏ mặt…
“Em rốt cuộc bị thứ gì đả kích?” Cô xốc góc chăn, ngồi xuống cạnh Khấu Thanh, lưng tựa vào thành giường, “Sao bỗng nhiên muốn sửa vậy?”
Khấu Thanh lại nín thở.
Thôi được, cô kiên nhẫn chờ chút.
“Em, em nói lắp tiếp vậy… cái này cũng không thể một hai ngày là có thể sửa ngay”.
Quân Khương xoay người, ngồi trên giường đối diện lên tiếng: “Để em nói thay cho”.
Đêm giao thừa, mọi người đều không quen ngủ sớm, ai cũng tỉnh rụi.
“Có một lần Khấu Thanh nói chuyện cùng Lâm Kiêu, em ấy nghe Lâm Kiêu bảo, Tạ thiếu tướng quân mưu lược hơn người, không chuyện gì không giải quyết. Khấu Thanh liền chạy đi xin giúp đỡ, cầu mong Tạ thiếu tướng quân cho em ấy một lời khuyên, làm sao thoát khỏi tật xấu này”.
Hà Vị không nghĩ Tạ Vụ Thanh còn quản cả mấy chuyện kia.
“Tạ thiếu tướng quân nói với Khấu Thanh là, nếu sau này có một ngày cô hai của các cô phải lẩn trốn che giấu tung tích, mang theo cô sẽ vô cùng nguy hiểm. Vì đặc điểm nhận dạng của cô quá rõ ràng, dù có thay đổi khuôn mặt cũng vô ích”, Quân Khương ngồi dậy, chỉ vào Khấu Thanh, “Nha đầu này nghe thấy liền lập tức hạ quyết tâm”.
Khấu Thanh liên tục gật đầu.
Quân Khương nhớ lại: “Thiếu tướng quân lúc ấy còn nói, vì Khấu Thanh thật lòng thật dạ muốn đối tốt với cô hai, đây là động lực lớn nhất. Chỉ cần lòng người có chỗ hướng về, càng dễ thành công”.
Lòng người có chỗ hướng về, càng dễ thành công.
Cô lẩm bẩm những lời này, phảng phất như nhìn thấy bộ dáng của Tạ Vụ Thanh khi nói chuyện.
Quân Khương cũng chen vào: “Lúc nào cũng phản quân phiệt, phản quân phiệt, thật ra em không hiểu lắm. Thiếu tướng quân rốt cuộc vì cái gì liều mạng như vậy?”
Hà Vị cười khổ.
Tạ Vụ Thanh là tướng quân, với anh mà nói, thời buổi loạn lạc bất kỳ ai cũng có thể cầm súng đứng lên, tuỳ lúc bỏ mạng.
Cô thấp giọng đáp: “Quân phiệt ở các tỉnh một khi giành thắng lợi liền thu thuế, nếu thua cuộc thì bắt trai tráng nhà dân đi lính. Rất nhiều gia đình không có tiền, cũng không có người lao động, toàn bộ đều phải ra ngoài đánh giặc…”
Mà Hà gia xuất thân là thương nhân, đối với chính sách thu thuế hiểu rõ nhất, trong chuyện này mọi người khổ đến thế nào.
Cô lại tiếp lời: “Anh trai trước kia từng làm ở Bộ Tài chính, chỉ có mấy tỉnh thành là thật sự nộp thuế, còn những quân phiệt các tỉnh còn lại vì xưng vua một cõi nên không chịu nộp thuế cho quốc gia. Đất nước làm cái gì cũng không đủ tiền, mà bọn họ lại rặt một đám phú khả địch quốc [3], ở các tỉnh đó, cái gì cũng có thể đánh thuế được, chỉ có chuyện các em không tưởng nổi chứ không có chuyện bọn họ không dám làm. Nếu thu thuế lương thực không đủ, vậy thì nộp thêm thuế cày cuốc, đến cả việc lên núi hốt phân súc vật mang về bón cây cũng bắt nộp thuế phân. Chưa kể còn có các loại quyên tiền, nào là quyên tiền kết hôn, quyên tiền uống trà, quyên tiền xem kịch, làm hoà thượng cũng phải quyên tiền. Những tư lệnh đó còn sợ không đủ, bắt phải thu thuế trước và sau mấy chục năm, có quân phiệt một lần thu đến năm 2050, thuế của một trăm năm sau đều thu xong hết rồi. Nếu không thể nộp thuế thì làm sao bây giờ? Chỉ còn cách bán con bán cái, cả nhà đói chết la liệt đầu đường”.
[3] Phú khả địch quốc, ý chỉ một người/hộ/nhóm giàu ngang ngửa một quốc gia
Thậm chí có thứ còn khủng khiếp hơn, chính là thuốc phiện. Đây cũng là điều khiến cô và Tạ Vụ Thanh thống hận nhất.
Cô nhẹ nhàng nói: “Quân phiệt các nơi vì muốn mở rộng quân đội, nghĩ cách để nông dân trồng thuốc phiện. Anh Thanh nhiều năm chinh chiến bên ngoài, càng cảm nhận sâu sắc”, thế nên việc Tạ Vụ Thanh muốn cấm thuốc, quả thực là liếm máu trên mũi dao, Hà Vị có thể tưởng tượng được có biết bao kẻ ôm hận vì anh, bởi lẽ đây chính là nguồn thu huyết mạch của đám người đó, “Có quân phiệt còn phát minh ra thuế lười, chuyên trừng phạt những “người lười biếng” không chịu trồng thuốc phiện. Năm đầu tiên Dân quốc, thuốc phiện chỉ chiếm 3 phần đất canh tác, mà nay đã gấp năm, sáu lần”.
Có người đùa rằng, từ khi Dân quốc tới nay, cuộc chiến của quân phiệt là một phiên bản khác của chiến tranh thuốc phiện, các nhóm quân phiệt tranh đoạt đất đai, nhằm chiếm giữ đất canh tác trồng thuốc phiện, chỉ vì muốn thu được nhiều tiền, mua thật nhiều vũ khí tối tân…
Không một quốc gia nào có thể giàu mạnh trong tình cảnh như thế.
Cũng không một người dân thường nào lại muốn sống trong xã hội như vậy, nếu không phải bị bóc lột đến tiền của đời cháu chắt thì chính là chịu cảnh lúc nào cũng có thể bị người ta kéo ra ngoài đánh giặc, sau đó bị giết chết, bị nổ chết trên mảnh đất quê hương mình… Nếu không thì đem toàn bộ cương thổ của Hoa Hạ gieo trồng thuốc phiện.
Một khi không người quản thúc, đám quân phiệt này tương lai sẽ thành dạng gì?
Đều nói “nhất tướng công thành vạn cốt khô” [4], hài cốt ấy nên là thây xác của những kẻ xâm lấn lãnh thổ trên chiến trường, chứ không phải đạp lên tính mạng của người dân bình thường để xây dựng thành trì.
[4] Nghĩa đen là mỗi một vị tướng thành công đều phải đánh đổi bằng vạn bộ xương cốt của binh lính chết khô; nghĩa bóng là vinh quang của các bậc vua chúa tướng lĩnh đều phải trả giá bằng tính mạng của rất nhiều người.
—
Mùng Một Tết, Quân Khương mang đến một lá thư.
Hà Vị thấy Quân Khương nén cười, như đoán được điều gì đó, tim đập thình thịch.
Cô vội cướp lá thư từ tay Quân Khương, tìm một cây kéo bạc nhỏ, cẩn thận tỉ mỉ cắt bì dán.
Rút một tờ giấy được gấp làm bốn, cô chậm rãi mở ra, nhìn nét chữ là của Tạ Vụ Thanh:
Em thân yêu,
Nay đã đến nước ngoài, rất nhớ nhung. Mấy ngày gần đây lo lắng tình hình chiến sự phương Nam, ba đường hai ngả đông chinh đều là thuộc hạ cũ của quân phiệt, sợ rằng có dị tâm, cùng quân phản nghịch ngầm trao đổi tin tức. Nhưng, thân đang ở đất Bắc, bị bó buộc tay chân, chỉ đợi mùa đông qua lập tức có thể xuôi Nam. Đông chinh vì thống nhất toàn bộ Quảng Đông, một khi Quảng Đông được củng cố, mới có thể bắc phạt, vì vậy trận chiến này phải thắng, hơn nữa nhất định phải thắng lợi vẻ vang.
Nhớ lại ngày đó chú hai từng hỏi, về chuyện bắc phạt, rất nhanh sẽ đến. Nhiều năm nay tâm nguyện của Thanh chính là bắc phạt, nhưng cũng không chỉ có vậy.
Cường quốc dùng tô giới như một nước trên đất ta, ôm theo tâm tư lang sói, một ngày quốc thổ còn chưa vẹn toàn, thuốc phiện khó được diệt trừ, kéo dài như cá trong ấm nước chờ đun, ngày đêm bất an. Chí hướng trong lòng này, chưa bao giờ thay đổi, vì cứu nước độ dân là thiên chức của người hành quân, đến chết không hối hận. Mà anh độc thân hơn 30 năm, cuối cùng cũng có em làm tri kỷ, chắc vì cứu nước cứu dân, nên được trời xanh thương tình.
Ngày cuối năm, nhớ nhà cũng mong em.
Nhớ đến áo cơm của bốn trăm triệu đồng bào, cũng là nhớ chuyện cơm áo của em, mong cầu cho đất nước của bốn trăm triệu đồng bào, cũng cầu mong em tuổi mới vô ưu vô lo.
Thanh,
Ngày 13 tháng Một.
Cô phát hiện thư có hai mặt, mặt thứ hai chỉ có một hàng chữ:
Từ thời niên thiếu Thanh đã vào Liễu doanh, câu văn không giỏi, cầm bút chỉ viết chuyện chiến tranh, đặt bút chỉ lo bày binh bố trận. Bản thân trên chiến trường buồn chán không thú vị, may mắn có em thân yêu, không chê không bỏ.
Cô bất giác mỉm cười.
Dường như khi anh viết xong mặt trước, cảm thấy không ổn lắm, nên mới viết thêm một mặt nữa.
Cô cầm trên tay phong thư nhà đầu tiên anh gửi, xem đi xem lại đến khi trên mặt cảm giác lành lạnh, vừa ngẩng đầu mới biết là tuyết rơi rồi.
Hà Vị ngửa đầu cười, nhìn bông tuyết lả tả rơi xuống.
Nghe nói phương nam ít tuyết, cũng không biết có thể nhìn thấy tuyết lớn như thế không. Cô chưa từng đến Quảng Châu, nghe bảo ở đó điểm tâm sáng rất ngon. Còn có Quý Châu… Cô nhớ đến bình rượu Mao Đào pha lẫn với trà hoa quế, trước lúc kết hôn, cô nhất định phải đến quê hương anh một lần, tận mắt nhìn ngắm vùng đất anh lớn lên từ thuở bé xíu.
Cô lại nghĩ cái tên Tạ Khanh Hoài lừng danh ở phương nam, nghe bảo không phải trên chiến trường, mà chính là ở trường quân đội. Anh cũng lâu rồi không về quê cũ… Có điều đối với người như anh mà nói, quốc gia chính là quê hương. Bất kể đông tây nam bắc, dân tộc là nhà.
—
Ngày 1 tháng Hai, chính phủ của Đoàn Kỳ Thuỵ tổ chức thành công hội nghị khắc phục hậu quả sau chiến tranh.
Tại hội nghị khắc phục hậu quả này, quân phiệt các tỉnh Tây Nam một lần nữa đưa ra chủ trương “tự trị liên tỉnh”, bắt chước phương Tây, thành lập một hệ thống nhà nước liên bang.
Đối với chuyện đó, Tấn lão từng đánh giá một câu với cô: “Chưa cần nói tốt xấu, chỉ nhìn từ đời Ngu Hạ Thương Chu, mấy ngàn năm qua chúng ta luôn kiên trì giữ vững bốn biển quy về một mối. Tự trị liên tỉnh ư? Nếu đúng thật thì chẳng ai có thể quản nổi bọn họ, toàn bộ đất nước này trên dưới đều là ruộng thuốc phiện”.
Ngày 1 tháng Ba, Hội nghị Quốc dân tổ chức tại Bắc Kinh.
Trên báo đăng rất nhiều người nổi tiếng đến tham dự hội nghị, ví như Lý Đại Chiêu, Vương Tẫn Mỹ, Triệu Thế Viêm.
—
Tết năm nay, Tạ Vụ Thanh ở Liên Xô.
Giữa tháng Ba, Tạ Vụ Thanh nhìn thấy Bạch Cẩn Hành du học nước ngoài mấy năm trời, đã nhiều năm không gặp, Bạch Cẩn Hành thành thục không ít. Hai người bạn cũ ôm chào nhau, sau đó buông ra đánh giá đối phương.
“Cậu đến đây khi nào?” Tạ Vụ Thanh hỏi hắn, ý bảo ngồi nói chuyện.
“Lúc ở châu Âu, rất nhiều du học sinh Trung Quốc bị khi dễ, bộ phận của chúng ta ở châu Âu đã giúp những du học sinh này đến Liên Xô, tôi cũng theo tới đây”. Bạch Cẩn Hành cười ngồi xuống.
Bạch Cẩn Hành được cô cả Tạ gia giới thiệu gia nhập Đảng, vừa gặp được Tạ Vụ Thanh càng có nhiều lời muốn nói.
Hai người nói từ chuyện đông chinh đến cuộc chiến bắc phạt sau này, không có hồi kết.
Kể từ lúc quốc cộng hợp tác, có rất nhiều người ở phe họ hoặc đang làm giáo viên, hoặc đang làm học sinh ở Học viện Quân sự Hoàng Phố, lập tức dẫn binh đông chinh, chiến đấu hăng hái vì Quảng Đông thống nhất, cũng là vì công tác chuẩn bị cho cuộc chiến bắc phạt trong tương lai.
Danh tướng như mây, mưu lược như mưa, không một ai cá biệt.
—
Đêm đó.
Tạ Vụ Thanh vốn đã thiếp đi, lại bị tiếng gõ cửa đánh thức, cấp dưới lúc nào cũng cố gắng đảm bảo việc nghỉ ngơi của anh, trừ phi có chuyện nguy hiểm đến tính mạng, bằng không sẽ không quấy rầy. Anh xoay người ngồi dậy, mở cửa, Bạch Cẩn Hành đứng bên ngoài đưa cho anh một phần điện báo.
Tôn Văn [5] bệnh chết ở kinh thành.
[5] Tôn Văn là tên gọi khác của Tôn Trung Sơn
Tạ Vụ Thanh nhìn mấy chữ ít ỏi, trong lúc đó nhớ lại rất nhiều chuyện. Đều là chuyện của quá khứ. Những người trong cuộc Cách mạng Tân Hợi lần lượt rời đi, năm tháng chiến đấu trên tiền tuyến đời trước của anh dường như trôi qua trước mắt.
Sau nhiều phút trầm mặc, anh gấp điện tín lại rồi ra ngoài.
Trong căn phòng tĩnh lặng đứng đầy tướng lĩnh, Tạ Vụ Thanh thấp giọng nói: “Đêm nay các vị thu dọn hành lý cẩn thận, chúng ta phải quay về rồi. Tìm cách đi đường bộ”.
Mà hành trình trên lưng ngựa chiến của anh nửa đời sau chỉ vừa mới bắt đầu.
Tình hình sau đó, giống như những lời Lý Đại Chiêu tiên sinh đã nói trong điếu văn:
“Trung Hoa là nơi mà các cường quốc thế giới đến tranh giành, từ châu Âu tới Nhật Bản, cướp đoạt chính trị, xâm lăng kinh tế, thậm chí âm mưu liên minh với nhau, chỉ để đoạt được đất nô lệ đem về làm trâu ngựa”.
Vô số tiền nhân đã ra đi, vô số hậu nhân hết người này đến người khác lần lượt ngã xuống.
Thử hỏi kế tiếp là ai? Ắt có người kế nghiệp của Hoa Hạ muôn đời hùng mạnh.
— HẾT CHƯƠNG 35 —
Lúc bọn họ về đến nhà, chú chín Hà đã chờ sẵn trong đông viện.
Nhà của Hà Tri Khanh trong thành Bắc Kinh không ai ở, ông cũng lười đến quét dọn, chỉ sai người sắp xếp lại thư phòng lớn của sân viện bên kia, định bụng ở lại Bắc Kinh qua mấy tháng. Chờ khi sóng gió Hà gia qua đi thì nói tiếp.
Khi người khác vừa đến, hai thím của cô cũng vào tới nơi, mang theo con mèo, có cả trà thơm. Chú chín bình thường thích rất nhiều thứ lặt vặt, toàn bộ đều được vận chuyển đến đây. Lúc Hà Vị bước vào thư phòng lớn, thím nhỏ cô vừa mới treo rèm châu ngày thường hay dùng…
Cô hơi hoảng hốt, nghĩ mình đang ở biệt thự Thiên Tân.
Hà Tri Khanh không tiện đi lại, ngồi xe lăn nhìn về phía cô: “Cháu rể chú đâu?”
Tạ Vụ Thanh đi theo Hà Vị vào phòng.
“Ta thật sự không nghĩ sẽ làm trưởng bối. Nếu không phải vì cậu định cưới cháu gái ta, thật muốn xưng hai tiếng anh em với cậu”, Hà Tri Khanh khẽ thở dài, “Chung quy cũng vì chúng ta không có duyên làm anh em của nhau”.
Thím lớn nghe không lọt tai nữa, đá một cái vào bánh trước xe lăn.
Ông bảo Tạ Vụ Thanh và Hà Vị ngồi xuống: “Chuyện của Hà gia là chuyện nhà, trong đó còn quanh co vòng vèo quá nhiều thứ, ta cũng lười nói tới. Có điều nếu ta đã ở đây, không thể loạn được”.
Nói cho cùng, một chi nhỏ của Hà gia có thể lập nghiệp ở Bắc Kinh, chính nhờ nhà mẹ ruột của Hà Tri Khanh.
Mẹ Hà Tri Khanh sinh ra trong một gia đình phú quý, nhưng vì từng có con riêng với người ngoài nên không thể không gả cho Hà gia, của hồi môn của bà mang theo giúp Hà gia có của ăn của để, sau này mới sinh ra Hà Tri Khanh. Thế nên địa vị của phòng chín Hà gia từ trước đến nay luôn rất cao.
Thuở nhỏ Hà Tri Khanh được cha yêu thương hết mực, trước thời khắc lâm chung, ông từng đồng ý với cha, vì sự hưng thịnh của Hà gia tuyệt đối không tranh giành với phòng lớn, vì vậy nhiều năm trôi qua dù bị kìm kẹp tay chân, hay bị ép đến sống ở Thiên Tân, ông cũng cố nhẫn nhịn.
Hiện tại những trói buộc kia đều bị Tạ Vụ Thanh tháo gỡ.
“Thật ra những đứa cháu trai cháu gái này đối với ta mà nói, giống như lòng bàn tay mu bàn tay đều là thịt cả, cũng không chỉ vì lời dặn dò của cha trước lúc qua đời, ta nghĩ đến cảnh một khi Hà Tri Nghiễm rớt đài, những đứa trẻ của phòng lớn ấy…” Hà Tri Khanh thở dài, “Bất quá đó đều là những gì ông ấy đáng nhận. Cậu làm rất tốt, làm được chuyện quan trọng mà ta không thể làm bao lâu nay, những thứ khác đều là nhỏ nhặt”.
Trong mắt Hà Tri Khanh, những chuyện sau này đều không đáng nói, trước mắt ông lại quan tâm một thứ còn quan trọng hơn.
“Lúc ta từ Thiên Tân tới bị trễ một chuyến tàu, đã gặp người của Thanh bang [1]”, Hà Tri Khanh nói, “Bọn họ đến tìm ta, nói có tin tức liên quan đến cậu. Lại nói cậu phải cảm ơn Vị Vị đấy, nếu không phải bọn họ nghe thấy cậu và Vị Vị đang ở bên nhau, cũng không nghĩ đến chuyện dâng một đao đến Hà gia, bán tin tức này cho ta”.
[1] Thanh bang là tên của một tổ chức bí mật của Trung Quốc, sau này là tổ chức phản động, hay còn gọi là băng nhóm xã hội đen nổi danh ở Thượng Hải và Hồng Kông những năm Dân quốc.
Thế lực lớn nhất của Thanh bang nằm ở Bến Thượng Hải và Thiên Tân. Chính vì Thiên Tân là đầu mối giao đường thuỷ và đường bộ, bang hội ngoại trừ kinh doanh thuốc phiện kỹ viện cùng sòng bạc, thì phần lớn nguồn thu đều nhờ vào việc làm ăn của vận tải hàng hoá, ví như dỡ hàng ở bến tàu, dỡ hàng ở sân ga, còn có vận chuyển hàng hoá về kho chứa, thậm chí là bốc dỡ hàng hoá trong nhà xưởng, tất cả đều phải nộp tiền cho họ. Hà gia làm nghề vận chuyển, đương nhiên là miếng thịt mỡ quanh năm mà họ nhắm đến.
Mấy chuyện bề nổi này, vẫn là Hà Tri Khanh thay Hà Vị xử lý.
“Tạ tướng quân à”, chú chín Hà cười, nhẹ giọng nói, “Khách sạn Lục Quốc tối nay là chỗ chết của cậu”.
Hà Vị sửng sốt.
“Có quân phiệt ở phía nam mua đứt một tên sát thủ, sai người đó vào khách sạn Lục Quốc ám sát cậu. Cậu nghe ta nói một chút, kẻ này muốn xuống tay với cậu ngay khách sạn Lục Quốc, có thể thấy hận thù với cậu nhiều thế nào, đến cả việc mạo hiểm đắc tội với sáu nước cũng muốn cậu phải chết”. Chú chín Hà nhỏ giọng nói, “Cậu nên cảm ơn Vị Vị chúng ta, Thanh bang bọn họ vì muốn kiếm chút tiền từ nhà ta nên sẽ không động tay vào chỗ đó. Chỉ cần lúc này đổi thành cậu ngồi trong một khuê phòng của vị tiểu thư nào khác, e đã sớm nằm bất động trên giường đầu lìa khỏi thân rồi”.
Tạ Vụ Thanh mỉm cười.
“Ta hiểu mà, trong lòng cậu đang nghĩ, muốn giết cậu thật không dễ như thế”, chú chín Hà thay anh nói, “Nhưng cho dù là mèo, cũng chỉ có chín cái mạng. Cậu đã chết mấy lần rồi? Tự mình tính toán xem? Còn có thể chết được bao nhiêu lần nữa đây?”
Chú chín Hà ngừng lại nhìn Tạ Vụ Thanh, trên mặt vẫn trêu chọc không thôi, nhưng trong mắt ánh lên vẻ nghiêm túc quan tâm.
Lời vừa rồi ông nói là thật lòng, nếu không phải vì Hà Vị, ông thật sự sẽ xưng hô anh em bạn bè với Tạ Vụ Thanh.
Tạ Vụ Thanh đành phải nói thẳng: “Chuyện này cháu đã biết. Vốn định đêm qua sẽ rời đi, mục đích cũng vì tránh né buổi vũ hội ở khách sạn Lục Quốc này, nhưng hiện tại cháu còn ở Bắc Kinh, không lý gì không đến”.
Nếu anh không đi sẽ bị đối phương phát hiện, khi đó chờ đợi anh chính là đường chết liên tiếp. Lần này Thanh bang còn xem xét nể mặt Hà nhị gia, sau lỡ như trở mặt không quan tâm thể hiện Hà nhị gia nữa, nhất định sẽ liên luỵ đến Hà Vị.
“Tối nay ta sẽ đặt bàn ở Quảng Đức Lâu”, Hà Tri Khanh nói thẳng, “Khách sạn Lục Quốc là chỗ của người nước ngoài, hẻm Đông Giao Dân không phải nơi thuộc về chúng ta. Nhưng bên ngoài hẻm Đông Giao Dân, bên trong Tứ Cửu Thành, đều là đất của người Trung Quốc”.
Hà Tri Khanh dõng dạc nói: “Chú chín Hà gia quay về thành Bắc Kinh, đãi khách trong Tứ Cửu Thành. Mời Tạ thiếu tướng quân vui lòng đến dự”.
Đây là cái cớ để Tạ Vụ Thanh không đến vũ hội ở khách sạn Lục Quốc.
Ngược lại anh cũng không sợ đắc tội với chính phủ Đoàn thị [2], chuyến này trở về chính là ngày khai chiến, còn lo đắc tội hay không làm gì.
[2] Ý chỉ chính phủ lâm thời do Đoàn Kỳ Thuỵ đứng đầu vào giai đoạn này
“Còn một câu nữa ta phải nói”, Hà Tri Khanh tiếp lời, “Nếu xác định phải đi, vậy tối nay liền đi ngay, ông chủ rạp hát kia từng nợ ta một ân tình. Ta có thể bảo ông ấy hộ tống cậu ra khỏi thành. Con đường còn lại, ta tin Tạ thiếu tướng quân có thể tự lo liệu tốt hơn ta”.
Hà Vị đến giờ vẫn trầm mặc, cuối cùng cũng hiểu rõ ngọn nguồn, anh vốn phải rời đi vào tối qua, nhưng vì cô mới ở lại tận hôm nay.
“Ta nói xong rồi”, Hà Tri Khanh biết chuyện níu chân Tạ Vụ Thanh là gì, nháy mắt về Hà Vị, “Các cháu nói đi”.
Hà Tri Khanh cùng thím lớn rời khỏi phòng, nhường lại không gian cho họ trò chuyện.
Cô nhỏ giọng hỏi: “Vì sao không nói thật với em?”
Tạ Vụ Thanh định mở miệng.
“Để em nói trước đã”, cô chậm rãi tiếp lời, “Em biết khi đoàn đại biểu dừng chân ở Thượng Hải, từng bị nhà báo nước Anh gây khó dễ, sau còn bị cản lại không cho vào tô giới. Đến Thiên Tân, đoàn đại biểu gặp người trong Phụng hệ, nghe họ khuyên nên từ bỏ chủ trương… Em cũng biết, chính phủ lâm thời sai nhóm đại biểu tiếp đón qua loa cho có lệ với các anh, thật ra từ lâu đã bàn bạc ổn thoả với công sứ các nước”.
Toàn bộ cô đều biết được từ miệng người khác, anh thật không dễ dàng.
“Anh Thanh, em hy vọng sau này, đây là những điều do chính anh nói với em”, cô thì thầm, “Em cũng muốn biết chuyện trên chiến trường của anh, anh thắng ai, bị thương chỗ nào. Mỗi ngày anh đối mặt với điều gì, chỉ cần không phải chuyện cơ mật, cho dù cách xa mấy ngàn dặm, em đều muốn biết hết. Em không sợ biết mọi chuyện, điều em sợ nhất là mơ hồ không rõ… Cái gì cũng không biết đến khi anh biến mất không tăm hơi”.
Tạ Vụ Thanh nhìn cô chăm chú, không đáp một lời.
Cuối cùng cô nói xong, nhìn về phía anh: “Em đảm bảo với anh, em sẽ không vì anh chết mà chết theo anh. Cho dù anh thật sự hy sinh vì nước, em vẫn có thể tự sống tốt. Cùng lắm thì, kiếp sau em sẽ đến tìm anh”.
Tạ Vụ Thanh trầm mặc, đứng thẳng người bên cạnh cô.
Áo khoác quân phục trước đó đã được đưa cho phó quan, anh xốc rèm châu ra ngoài, tay cầm áo khoác trở về. Anh kéo một cái ghế cao đến trước cô, ngồi xuống mặt đối mặt với cô.
Từ trong túi áo khoác, anh lấy ra một hộp sứ trắng mà con gái hay dùng, trên mặt hộp phấn in hoa lá đỏ đỏ xanh xanh, giữa đám hoa lá vây quanh có một chữ “Hỉ” hồng rực.
“Hè năm ngoái, quân đội bạn lâm trận phản bội, anh dẫn theo người đột phá vòng vây, bị tách khỏi bộ đội chủ lực. Hơn một ngàn người, cuối cùng trở về chưa đầy một trăm”, anh cầm hộp sứ trắng kia, “Lúc đó trong doanh trại thương binh có hai nữ y tá, các cô ấy biết anh có bạn gái, lần nọ cải trang đến trấn lân cận mua thuốc trị thương, một trong hai người mang về thứ này đưa cho anh, nói là… đồ cô dâu hay dùng”.
Anh im lặng một lúc lại nói, “Sau đó, người ấy chết trận”. Chết trận như những binh lính bình thường khác.
Lúc ấy anh sai người bảo vệ hai nữ y tá đi trước, nhưng người y tá đó nói với anh, trước kia tướng quân không muốn thu nhận chúng tôi vào đội ngũ của mình, chỉ vì lo sợ chúng tôi là phụ nữ, dễ bị người khác bắt nạt khinh khi, luôn lo lắng chúng tôi rơi vào tay địch, nếu đến tận hôm nay tướng quân vẫn còn e ngại chúng tôi là phận con gái, ưu tiên để chúng tôi đi, vậy thì có khác gì chúng tôi trở thành gánh nặng của hơn một ngàn người nơi này. Bọn họ còn bảo, tướng quân từng nói chúng tôi là hai đấng cứu thế của những thương binh ấy, đấng cứu thế sao có thể bỏ đi được?
Mắt cô nóng lên: “Người còn lại còn sống không?”
“Đến học ở trường y tá rồi”.
Tạ Vụ Thanh kéo tay Hà Vị, đặt cái hộp sứ trắng vào lòng bàn tay cô.
“Chiến trường tàn nhẫn”, anh thấp giọng nói, “Sau này anh sẽ cố gắng viết thư nhà cho em”.
Cô nắm chặt hộp sứ trắng kia, gật nhẹ đầu.
Hai người bốn mắt nhìn nhau.
“Tối nay anh đi đi”, cô nhỏ giọng thủ thỉ, “Đây là cơ hội tốt nhất”.
Hà Vị gọi món chính từ tửu lầu, cùng với những hộp thức ăn mua sẵn bày đầy một bàn.
Món cơm mộc tê chú chín thích ăn nhất do đích thân cô xuống bếp chuẩn bị, thật ra là một phần cơm chiên trứng. Mộc tê vốn là hoa quế, vì trứng chiên lẫn trong cơm đẹp mắt, nhìn sắc trứng óng ánh nho nhỏ giống hệt quế hoa.
“Đây là món sở trường của Vị Vị, ngay cả tám đại lâu cũng không bằng”. Chú chín đắc ý nói.
Tạ Vụ Thanh cầm đũa, nhỏ giọng hỏi cô: “Thích hoa quế à?”
Lúc ở Ngọc Hồ Xuân, cô pha lẫn trà hoa quế cùng rượu Mao Đài.
Cô gật đầu: “Từ nhỏ đã thích rồi”.
Căn nhà này, từ lúc anh trai cô mất, đây là lần đầu tiên có nhiều người cùng vây quanh bàn cơm gia đình như thế.
Hà Vị đưa cho Tạ Vụ Thanh một bát cơm đơm đầy: “Anh ăn nhiều một chút, tối còn phải uống rượu”.
“Vị Vị làm riêng cho cậu đấy, cơm hấp mềm hơn”. Thím nhỏ nói.
Tạ Vụ Thanh dưới ánh mắt của cô, chậm rãi ăn hai đũa, hình như trong cơm mộc tê thoáng ngửi thấy mùi hoa quế.
Mấy phó quan của Tạ Vụ Thanh cũng được mời vào sương phòng dùng cơm. Những cô gái nhìn thẳng Lâm phó quan đã quen biết từ lâu và ‘Đọc sách’ trắng trẻo gọn gàng.
“Tên anh là gì?” Quân Khương hỏi ‘Đọc sách’.
“Vương… Cẩn”. ‘Đọc sách’ chưa bao giờ bước vào một căn nhà lớn thế này, cũng chưa từng gặp nhiều cô gái hiền lành xinh đẹp đến vậy.
“Khẩn trương gì chứ”, Quân Khương cười nói, “Sau này đều trở thành người một nhà”.
Chờ Quân Khương đi rồi, Vương Cẩn thấp giọng hỏi Lâm Kiêu: “Lâm phó quan… Mấy ngày nay tôi vẫn muốn hỏi ngài, gốc gác tướng quân rốt cuộc thế nào? Nhà vợ tương lai phú quý như vậy”.
Từ lúc Vương Cẩn đi theo Tạ thiếu tướng quân đã biết Tạ Khanh Hoài, nhưng không phải trên chiến trường, mà ở trường quân đội, cũng chưa từng đến căn hộ của anh hay thành Quảng Châu. Đến tận khi ra bắc mới biết tướng quân còn có một cái tên khác, thuộc về người nhà của anh. Tính ra hắn là người mới nhất bên cạnh Tạ Vụ Thanh, tuy mọi chuyện đều như sương mù, nhưng hắn không dám hỏi, sợ lỡ nói sai điều gì, chỉ dám suy đoán lung tung, nhịn đến hôm nay cuối cùng mới hỏi.
“Thiếu tướng quân”, Lâm Kiêu cười, “Là một công tử thế gia đàng hoàng, xứng đôi vừa lứa với cô hai”.
Vương Cẩn sửng sốt một lúc: “Ngài ấy thật biết đánh đàn dương cầm?”
“Tất nhiên rồi. Công tử gia đàn dương cầm, không chỉ dễ nghe, mà còn khá…”
Đẹp mắt.
—
Chú chín Hà từ thuở thiếu thời đã thích tự mình thiết tiệc lưu thuỷ [3] trong phủ, từ sáng sớm đến tận chiều tối, bày nào là rượu thơm cùng thức ăn ngon để chiêu đãi những người bôn ba xa xôi vào kinh vì tiền đồ, trong đó không thiếu văn nhân cùng võ tướng, có người bước ra từ giang hồ, cũng có người làm chính trị… Sự khẳng khái trước kia của chú chín xuất phát từ tấm lòng, mọi người đều nhận thấy và phân biệt rõ ràng, cũng vì thế nên bạn bè thân thiết thật tâm đối xử tốt với ông nhiều không kể xiết, có người đến giờ vẫn nghèo túng, nhưng nhiều nhất vẫn là những kẻ thăng quan tiến chức. Vừa nghe nói chú chín mở tiệc, có người tự bỏ tiền túi bao trọn cả căn Quảng Hoà Lâu bên cạnh, đón tiếp chú chín về kinh.
[3] Tiệc lưu thuỷ là tên gọi những bữa tiệc bày sẵn thức ăn, chờ khi khách đến đủ số người của một bàn thì bắt đầu nhập tiệc, cứ như vậy nối tiếp nhau.
Nhìn bề ngoài giống như mọi người đang chuẩn bị tẩy trần cho chú chín, thật ra là sắp xếp đường lui cho anh.
Phong quang vô hạn như thế, cũng xem là phù hợp với Tạ Vụ Thanh.
Cách tấm mành trúc, người đứng trên sân khấu kịch là một cô đào nổi tiếng, giọng hát ngọt ngào, đang diễn Hồng Nương của Tây Sương Ký [4].
[4] “Tây Sương Ký” tên gọi đầy đủ là “Thôi Oanh Oanh đãi nguyệt Tây Sương Ký” (tạm dịch: Truyện về Thôi Oanh Oanh chờ trăng dưới mái Tây), là một vở tạp kịch của Vương Thực Phủ, kể về câu chuyện tình yêu vượt mọi khuôn giáo môn đăng hộ đối và lễ nghi phong kiến giữa nàng Thôi Oanh Oanh và chàng thư sinh Trương Quân Thuỵ
Cô đào này là người nổi danh nhất kinh thành, có điều những người hôm nay có mặt ở đây không ai không tiếng tăm lừng lẫy, đều do nể mặt chú chín nên mới mời được. Những quan lại khách quý vì ủng hộ cô nên không ở phòng riêng, tất cả đều ngồi dưới khán đài…
Hà Vị nép sau mành trúc nhìn xuống sân khấu, đến tận khi Tạ Vụ Thanh đi một vòng tiếp rượu trở về.
Bên ngoài tiếng trầm trồ ngợi khen không ngừng vang lên, âm thanh như sóng triều khó dứt.
Sau khi bóng dáng anh khuất trong rèm châu, mành vải mới được buông xuống.
Tạ Vụ Thanh hơi chếnh choáng, anh cởi quân trang, chuẩn bị thay quần áo. Quân trang trên giá đỡ, còn cả bội đôi tuỳ thân, tất cả đều treo lên móc áo, chờ xếp gọn vào rương hành lý. Bên cạnh để sẵn bộ tây trang áo sơ mi được là ủi thẳng thớm.
Anh mặc sơ mi trắng, khoác thêm áo choàng, lần nữa đeo súng lên thắt lưng.
Như thể cài cúc áo mãi không xong, từ sơ mi trong đến áo choàng, rồi đến áo khoác ngoài…
“Thiếu tướng quân không biết kiêng dè gì cả, thay quần áo ngay trước mặt cô gái chưa xuất giá”. Cô thủ thỉ trêu chọc anh.
Thời khắc chia tay sắp đến, cô cố gắng tỏ ra thoải mái, mỉm cười tiễn bước chân anh.
Anh cũng trêu ghẹo lại cô: “Mỗi lần cô hai gặp anh đều vào buổi đêm, e là muốn kiêng dè cũng khó”.
Anh cài từng cúc áo khoác ngoài tây trang, nhìn cô đứng bên cửa sổ. Hôm nay cô mặc một chiếc váy nhung trắng dài, sắc trắng trên thân dường như không giống nhau, dùng ngọc trai trắng và mã não cao thấp luân phiên thêu lên cổ áo, tay áo và vùng eo. Trên vai khoác một lớp lông hồ ly trắng mềm mại, là sắc trắng tinh khôi nhất, nhưng tất cả đều không thuần khiết bằng cổ thon mặt ngọc của cô.
Lần này ra đi không hẹn ngày về, không biết đến khi nào mới có thể nhìn thấy đôi mắt trong veo ánh nước của cô lần nữa.
Tạ Vụ Thanh đến gần, cô bỗng không thốt nổi lời vui đùa.
Chỉ nghĩ mình phải cố nhìn nhiều một chút, nhớ kỹ anh một chút.
Có tiếng gõ cửa, phía sau mành vải.
Ông chủ Quảng Đức Lâu tự mình mang đến một hộp lớn mứt hoa quả, ngầm ám chỉ đã đến lúc Tạ Vụ Thanh phải đi. Mí mắt ông chủ không buồn nhướng lên, cứ thế bước vào rồi lẳng lặng lui ra ngoài, chỉ để lại một câu: Đây là yêu cầu của thiếu tướng quân.
Tạ Vụ Thanh cầm lấy hộp mứt hoa quả ấy, bên dưới có tờ giấy đỏ, lại mở ra…
Là một tờ hôn thư bỏ trống.
“Bọn người Lâm Kiêu không quen thuộc chỗ này, chỉ đành nhờ ông chủ chuẩn bị”, anh lấy một cây bút máy từ trong túi ngoài tây trang, mở nắp bút, đặt tờ hôn thư lên bàn.
Hà Vị nhìn đầu bút máy: “Anh Thanh…”
Anh đặt bút phía dưới hai chữ “chú rể”, nhẹ nhàng như nước chảy mây trôi viết ra ba chữ “Tạ Vụ Thanh”.
Ký tên xong, anh lại lấy cái hộp kim loại nho nhỏ trong túi áo tây trang, mở nắp, là một con dấu vô cùng tinh xảo. Thứ này chỉ dùng cho những văn kiện trọng yếu, có thể điều động trọng binh hai tỉnh, còn có thuộc hạ cũ của cha anh… Ngoài hai lần ra bắc, Tạ Vụ Thanh phải xuất đầu lộ diện trước mọi người, còn lại hiếm khi anh dùng thân phận thật của mình để ra mặt, suốt mười mấy năm qua đều nhìn thấy văn tự như thấy người.
Con dấu nhẹ ấn, ngay phía trên ba chữ Tạ Vụ Thanh.
Một vết đỏ hình vuông nhỏ bé, như khảm sâu vào lòng.
Làm xong, anh cất con dấu cùng bút máy đi, đưa tờ hôn thư vẫn còn trống một chữ ký cho cô.
Anh thấp giọng bảo: “Nếu có chuyện nguy hiểm mạng sống, hãy lấy nó ra. Nếu vì anh mà liên luỵ em gặp hiểm cảnh đến tính mạng, hãy thiêu huỷ nó”.
Mắt cô ngần ngận đỏ.
Tạ Vụ Thanh đưa cho cô tờ hôn thư còn trống một chữ ký, lại nói với cô nếu không may gặp nguy thì đốt nó đi.
“Trong mắt của anh, em là người tham sống sợ chết như thế sao?” Cô nghẹn giọng hỏi.
“Là anh”, Tạ Vụ Thanh đáp, “Là Tạ Vụ Thanh này sợ em chết”.
Cô đỏ mắt, đối diện nhìn anh.
Anh trêu đùa cô: “Người theo đuổi cô hai vô số, Tạ Vụ Thanh chỉ là một trong số đó, không đáng để cô hai dùng nước mắt để tạm biệt”. Anh lúc nào cũng thế, dùng khuôn mặt vui vẻ nhất để chia ly, giống như sáng nay hai người đường chia đôi ngã, ngay ngày mai liền có thể gặp lại nhau.
Anh cười nói tiếp: “Anh dùng công danh nửa đời mình, cùng trọng binh hai tỉnh, lại không đổi được một cái gật đầu của em cùng anh xuôi nam, lần này là Tạ Vụ Thanh cầu mà không được”.
Cô bị anh nói đến nước mắt đong đầy trong mắt, cứ như đó là sự thật vậy.
Ngoài cửa lại vang lên tiếng gõ dồn dập.
Muốn giục anh nhanh lên đường.
Tạ Vụ Thanh phải đi rồi, Hà Vị nhỏ giọng gọi anh lại: “Anh Thanh”.
Yết hầu cô như bị cái gì nghẹn ứ.
Có người vén rèm giúp anh, ông chủ cười nói: “Vừa rồi vị khách kia thật bất cẩn, làm đổ đầy rượu lên quần áo của thiếu tướng quân. Cậu nhìn xem, thật là, còn phiền tướng quân phải vào trong thay bộ đồ khác”.
Đặng Nguyên Sơ đứng ngoài rèm chờ Tạ Vụ Thanh rời đi.
Cô cảm nhận được bàn tay Tạ Vụ Thanh chạm khẽ vào gò má mình, ngón tay anh chậm rãi vuốt ve mặt cô: “Bảo trọng”.
Sau khi Tạ Vụ Thanh ra ngoài, trong bóng rèm châu lắc lư, liếc mắt nhìn cô lần cuối.
Từng chuỗi hạt châu trắng ngần dưới bóng đèn cung đình mờ ảo, hắt lên khuôn mặt mơ hồ của anh, chỉ có đôi mắt kia vẫn hệt bóng đêm bên bờ Sát Hải, phảng phất như đong đầy ánh trăng sáng ngời của cả kinh hoa, phản chiếu lại bóng hình cô.
— HẾT CHƯƠNG 34 —