Dịch: Liêu Lạc Hà Hy
Biên: Duẩn Duẩn
Đêm đó, tôi mơ một giấc mơ, thấy mình đang ở trong một căn nhà gỗ nhỏ bé thiếu ánh sáng.
Bàn ghế trong căn nhà đều được làm bằng gỗ, trên mặt đất bày đầy những khuôn nhạc với vài nét chữ nguệch ngoạc. Căn nhà không có đèn, cửa sổ trên gác mái khẽ mở, ánh trăng theo đó tràn vào như những gợn sóng ơ hờ. Chính giữa đặt một cây đại dương cầm màu đen. Một người đàn ông đang ngồi bên cây đàn, quay lưng về phía tôi. Anh ta có vẻ mệt mỏi, một tay ôm trán, tay kia chầm chậm ấn lên từng phím đàn.
Phong cách âm nhạc này, phong cách chơi đàn này… gần như ngay tức khắc, tôi đã biết người đang ngồi trước mặt mình là ai.
Erik.
Không biết có phải do ánh trăng quá sáng hay không mà tôi cảm thấy thái dương của chàng có chút nhợt nhạt và đôi vai không thẳng như mọi khi. Duy chỉ một thứ không hề thay đổi, đó là sự u ám, lạnh lùng tỏa ra từ con người chàng.
Tôi không khỏi sững sờ giây lát, đây thật sự chỉ là một giấc mơ?
Tại sao tôi lại mơ một giấc mơ thế này?
Đúng lúc đó, tiếng gõ cửa bỗng nhiên vang lên: “Chủ nhân.” Là giọng của một người hầu nam.
Erik lạnh nhạt nói: “Vào đi.”
Người hầu mở cửa bước vào, kính cẩn đưa cho Erik một bức thư viết trên tấm da dê. Bọn họ không hề biết đến sự tồn tại của tôi. Nhận ra mình giống như một người tàng hình, tôi mạnh dạn bước đến phía sau Erik và lén nhìn nội dung viết trên thư.
Theo lẽ thường, những thứ trong giấc mơ phải có vẻ mơ hồ, ví dụ như gương mặt người hoặc những dòng chữ trên giấy… nhưng giấc mơ này lại quá đỗi khác biệt, tôi có thể nhìn thấy rõ ràng từng chi tiết, kể cả những sợi tóc mai của Erik hay râu dưới cằm đều hiện ra rõ nét, cứ như chẳng phải mơ.
Nội dung ghi trên tấm da dê là danh sách của một cuộc đấu giá. Nhìn tên của những món đồ, tôi đoán chừng đây là những thứ mà Erik đã cất công sưu tầm, bao gồm đồ trang sức bằng vàng bạc, đồ cổ bằng sứ và một vài món đồ quý hiếm làm bằng gỗ… Tôi có phần không hiểu, tại sao chàng lại bán những thứ này.
Cuối danh sách, tôi nhìn thấy tên Tử tước Chagny, anh ta chụp một vài hình ảnh của các vở kịch Opera trên báo, cùng với một hộp nhạc có hình chú khỉ con đang gõ hai chiếc chũm chọe mang đậm phong cách Ba Tư. Một cảm giác khó diễn tả bỗng dâng lên và nghẹn ứ trong cổ họng, linh tính mách bảo tôi điều gì đó. Tôi bất giác nín thở, cuối cùng nhìn thấy tên mình đứng phía trên tên của Tử tước Chagny. Meg Giry – ảnh chụp với bộ váy khiêu vũ của vở kịch “Hannibal”.
Tôi cảm thấy hoang mang, không thể biết được đây thực sự là chuyện đã xảy ra ở kiếp trước hay chỉ là một giấc mơ mà tôi tự tạo ra.
Người hầu nam nhẹ giọng hỏi: “Ngài định làm gì với số tiền này?”
Erik không trả lời ngay, có vẻ như số tiền này chẳng mấy quan trọng đối với chàng. Một lúc sau, chàng mới hỏi lại: “Ngươi nghĩ thế nào?”
Người hầu nam bối rối: “Việc này… sao tôi có thể đưa ra quyết định thay ngài được chứ.”
Erik lắc đầu cười nhẹ. Ngay trong ngôi nhà gỗ có vẻ cũ nát thế này, trên người chàng vẫn toát ra sự độc tài chẳng thể kiểm soát: “Ai quyết định không quan trọng, dù sao số tiền này ta cũng chẳng thể mang theo được. Ngươi tự mình giải quyết lấy.”
Chẳng biết vì sao câu nói này lại khiến người hầu nam rưng rưng nước mắt: “Chủ nhân…”
Erik không để ý đến anh ta, tùy tiện cầm lấy một khuôn nhạc trống, lấy bút máy viết ra một dòng chữ: “Còn nhớ những gì ta đã nói trước đây không?”
“…vẫn nhớ.”
“Cứ làm như vậy đi.”
Người hầu nam không nói gì nữa, Erik khoát tay, trực tiếp đuổi anh ta ra ngoài.
Chẳng mấy chốc, căn phòng lại trở nên tĩnh lặng. Tôi thấy chàng mang đến một chậu nước, lẳng lặng rửa mặt, dùng khăn lông lau khô, rồi dưới ánh trăng đêm lạnh lẽo, chàng lại tìm chiếc dao để cạo đi những sợi râu dưới cằm. Trong lúc đó, tôi luôn đứng bên cạnh Erik, nghiêng đầu nhìn theo những động tác của chàng. Tất nhiên chàng chẳng hề hay biết điều gì cả.
Tôi có một cảm giác rất lạ lùng, rằng Erik đã nhốt tôi vào chiếc lồng sắt ngoài đời thực khác với Erik đang xuất hiện trong giấc mơ của tôi. Không thể nói rằng họ là hai người khác nhau. Đến bản thân tôi cũng chẳng thể nói được giữa bọn họ cuối cùng khác nhau ở điểm nào.
Cạo râu xong, Erik mặc áo khoác, choàng khăn và đeo găng tay da, bước ra ngoài. Tôi cũng nhanh chóng đi theo chàng.
Erik dường như chẳng có điểm đến, chỉ đi lòng vòng xung quang. Không biết qua bao lâu, trời đã tờ mờ sáng, chúng tôi đi đến một mặt hồ xanh trong và phẳng lặng. Ánh bình minh len lỏi đánh thức những cành cây khô vẫn đang vùi mình trong giấc ngủ.
Erik ngồi bên bờ hồ một lúc.
Ánh ban mai mờ ảo, vài chú chim lướt trên mặt nước rồi bay vụt lên cao.
Tôi thấy Erik trầm ngâm nhìn theo những cánh chim đang bay về phía chân trời xa thẳm, trong mắt không có lấy một tia cảm xúc, như thể ánh mặt trời đang lên và sự sống lại của cỏ cây chẳng mảy may liên quan đến chàng.
Cuối cùng tôi đã biết được điểm khác nhau giữa bọn họ là gì: Erik ngoài đời thực luôn thờ ơ và đôi khi cực đoan, nhưng nội tâm lại rất mạnh mẽ, còn Erik trong giấc mơ này, dù vẻ ngoài chẳng khác biệt gì mấy, nhưng lại mang đến cho người khác một cảm giác khổ não như sắp chết… giống như một người biết mình sắp rời khỏi thế gian, cho nên những đẹp xấu nơi trần thế, sống chết của đời người cũng chẳng thể ảnh hưởng một chút nào đến cảm xúc của anh ta.
Nghĩ đến điều này, tôi bắt đầu cảm thấy nhớ Bóng ma… cho dù chàng có thô bạo và ngang ngược, nhưng ít nhất khi chàng nhìn tôi, tôi vẫn có thể thấy được tình yêu mãnh liệt và tràn trề sức sống trong đôi mắt của chàng. Không giống như người đang xuất hiện trong giấc mơ tôi đây, chỉ có vẻ vô hồn ngập ngụa trong đáy mắt.
Bình thường, nếu như người đang nằm mơ biết được họ đang mơ thì sẽ lập tức tỉnh lại, thế nhưng hiện giờ chẳng có điềm báo gì cho thấy tôi sắp tỉnh giấc cả.
Đi dạo xong, Erik trở lại căn nhà gỗ, treo áo khoác lên mắc áo và bắt đầu ngồi vào bàn viết nhạc, viết đến tối muộn cũng không thấy chàng ăn gì. Có lúc, chàng đứng dậy và chạm vào những tác phẩm điêu khắc nhỏ bằng gỗ, không ngoài dự liệu, đó đều là thứ điêu khắc lại dáng vẻ của Christine. Mỗi lần như vậy, tôi có cảm giác khá khó chịu. Sở dĩ chỉ là khá, vì bởi tôi có tức giận nhiều, chàng cũng chẳng thấy được, thế thì thà khỏi giận còn hơn.
Thời gian trong giấc mơ trôi rất nhanh. Một buổi sáng nọ, tôi bước vào căn nhà gỗ, quang cảnh bên trong khiến tôi phải sựng lại.
Erik đã biến mất.
Bàn ghế bị lật úp xuống đất, duy chỉ cây đại dương cầm là đứng yên chỗ cũ.
Tim tôi đập thình thịch, trên mặt đất rải rác những bản nhạc còn đang dang dở. Một nốt nhạc bị chiếc bút máy thấm mực làm nhòe đi, giống như người đang sáng tác bỗng đột ngột kiệt sức và không làm chủ được ngòi bút.
Giống như để khẳng định cho suy đoán của tôi, cửa phòng bất thình lình bị mở ra, có hai người nhanh chóng bước vào. Một người là hầu nam mà tôi từng thấy, người còn lại đội chiếc mũ da màu nâu sẫm, bận chiếc áo choàng Ba Tư, nhìn dáng vẻ hẳn là một người Ba Tư chính hiệu.
Anh ta nhìn đồ đạc trong căn nhà, có vẻ ngạc nhiên vì nó đơn sơ đến như thế. Anh ta hỏi: “Erik có nói gì không?”
Người hầu nam thấp giọng đáp: “Ngài ấy chỉ nhắn lại… nơi chôn cất ngài ấy.”
Người Ba Tư im lặng hồi lâu, rồi cúi đầu thở dài: “Tôi hy vọng Chúa sẽ phù hộ cho anh ta sinh ra làm một người bình thường trong kiếp sau.”
Nếu chỉ là một người bình thường, cho dù không có vẻ ngoài tuấn tú, cũng không khiến người khác kinh ngạc vì tài hoa, thì ít nhất Erik sẽ không như bây giờ, chỉ có thể sống ẩn dật cho đến cuối đời.
Tôi không cách nào diễn tả được cảm giác phức tạp đan xen trong lòng mình giờ phút này… Tôi thậm chí còn mơ thấy cái chết của Erik, chỉ là không biết nó có đúng với sự thật hay không. Nhưng dù là thật hay giả, tôi cũng khó thoát khỏi nó và tìm lại tâm trí bình thường của mình.
Cuối giấc mơ, tôi nhìn thấy một tờ báo.
Một cáo phó nhỏ được đăng ở góc báo, ghi rằng:
Nhà từ thiện Erik đã qua đời (*)
Tôi đột nhiên tỉnh giấc. Vừa tỉnh dậy, tôi đã cảm thấy đầu đau nhức dữ dội, giống như bản thân đã va vào một thứ gì đó khi ngủ… sau đó, một cơn lạnh buốt chạy dọc khắp cơ thể.
Tôi thực sự đã ngủ quên trên bàn đạp của đàn organ, cũng chẳng biết đã ngủ bao lâu.
Mặc kệ cảm giác đau nhức khắp người, tôi khó khăn đứng dậy, muốn mau chóng đi tìm Bóng ma, xác nhận rằng những chuyện vừa qua thật sự chỉ là một giấc mơ. Ai biết được khi vừa quay người lại, đã lọt vào tầm mắt của chàng.
Đầu óc tôi trống rỗng, ngay giây phút đó, tôi bất giác nhớ lại tất cả mọi việc đã xảy ra trong giấc mơ. Chàng sáng tác, chơi đàn, ăn cơm, đi dạo một mình từ đêm đến rạng sáng và nhìn xuống mặt hồ vô tận với ánh mắt vô vọng đến xa xót.
Cho dù Bóng ma có thể hiện tình cảm của mình một cách kỳ lạ và vụng về, thì tôi cũng không muốn nhìn thấy chàng giống như trong giấc mơ – ra đi một cách đơn độc và đau thương.
Tôi không muốn nhìn thấy vẻ vô hồn trong mắt chàng thêm một lần nào nữa.
Có lẽ giấc mơ đó chỉ là chính tôi tự tạo ra, cho bản thân một lý do để tha thứ cho chàng; cũng có thể, những việc xảy ra trong mơ đều là sự thật, đều là những chuyện đã từng xảy ra ở kiếp trước. Dù sao, sống lại một kiếp khác tôi cũng đã trải qua, thì còn chuyện gì không thể được nữa chứ.
Sau một hồi lưỡng lự, tôi vén váy, trong khi ánh mắt chàng còn đầy hoài nghi và xa lánh, tôi chạy đến bổ nhào vào lòng chàng.
~~~
(*) Chú thích: Phỏng theo phần kết của The Phantom of The Opera