“Herbert!”
“Đi đi, Alfred, anh không muốn nói chuyện.”
Lần đầu tiên Herbert cất giọng cục cằn với người yêu mình, gần như quát nạt Alfred mà ngay cả bản thân cậu ta còn lấy làm ngạc nhiên. Bực mình, Herbert lèm bèm hai tiếng “xin lỗi”, trước khi quấn chiếc khăn choàng cổ che kín mũi, che cả cái nét cau có trên mặt rồi cứ thế rảo bước đi, cậu ta riết lấy tấm áo bông quanh mình như thể tự ôm ấp an ủi. Alfred hấp tấp chạy theo sau, vội siết chặt tay áo Herbert khi cậu đuổi kịp.
“Herbert…” Alfred lại gọi, nhưng Herbert chỉ vùng vằng:
“Không ích gì đâu, Alfred. Bây giờ em có nói gì thì anh cũng không cảm thấy khá hơn đâu.”
Nói đoạn, cậu ta đá một đụn tuyết ven đường, lèm bèm vài câu từ chẳng rõ rồi lại đút tay vào túi áo. Alfred buồn bã nhìn cậu, trả lời, “Anh không muốn em nói gì cũng được. Em hiểu mà.”
“Vậy em còn tốn công theo anh làm gì?”
“Em nghĩ anh sẽ cần một người để lắng nghe.” Alfred nhỏ nhẹ. “Nếu như anh muốn tâm sự…”
“Ồ…” Herbert hơi chững lại. “Cảm ơn em.”
Cậu ta đáp, rồi cứ thế bước đi.
Họ đi cùng nhau trong im lặng mất một lúc, băng qua các con đường vắng vẻ của đêm muộn mà chẳng rõ phải về đâu. Sự im lặng bao trùm trở nên ngột ngạt. Rồi, Herbert bất chợt lại cất tiếng, “Em nghĩ anh nên làm gì?”
“Suy nghĩ thật lòng?” Alfred không chắc. Herbert gật đầu.
“Ừm… Anh muốn biết em nghĩ gì.” Cậu ta ngoái nhìn xuống Alfred một cái. “Anh nghĩ em sẽ sáng suốt hơn anh.”
Hít một hơi sâu, Alfred trả lời, “Em nghĩ rằng anh cần nói chuyện rõ ràng với cha.”
“Để làm gì?”
“Để gỡ rối.”
Herbert lại lập tức trở nên khó chịu. “Anh không thấy gì rối ở đây cả, em cũng nghe họ nói gì với nhau rồi.”
“Em nghĩ cha có lý do của mình, và những gì chúng ta nghe được chỉ là bề nổi của tảng băng.” Alfred giải thích. Thật sự Herbert đã suy ngẫm ít giây, thế nhưng bản tính nóng nảy lẫn lòng tự tôn thái quá khiến cậu ta trở nên cứng đầu.
“Anh không biết.” Cậu ta bực tức. “Chuyện như vậy đáng lẽ ra anh phải được biết từ rất lâu rồi.”
“Em xin lỗi.”
“Cha làm anh đau lắm.” Cậu ta tiếp tục. “Thất vọng vô cùng. Anh đã nghĩ cha và anh đủ thân thiết với nhau. Anh đã nghĩ cha đủ tin tưởng anh để kể ra những chuyện về mẹ. Anh đã luôn nghĩ ông ấy là một người tốt.” Nói rồi, cậu ta vò đầu, thở dài ngao ngán, giọng mệt mỏi hẳn đi. “Không phải như thế này… Cha làm anh buồn lắm.” Cậu ta nhắc lại. “Anh… anh muốn ở một mình.”
“Ồ… Được thôi…” Alfred thỏ thẻ. Nhưng Herbert vội nắm lấy tay cậu kéo theo, dù nét mặt thì vẫn chưa hết cau có.
“Em đi cùng anh cũng được.”
“Ừm… Được.” Người kia dễ chịu đáp. “Anh muốn đi đâu?”
“Anh không biết nữa.” Herbert lắc đầu. “Anh chỉ muốn đi dạo cho khuây khỏa thôi, anh không cần biết đích đến là gì. Có thể… có thể sau khi tản bộ, anh sẽ bình tĩnh lại một chút.”
Alfred không biết nói gì để an ủi người kia, hay ít nhất giúp Herbert tạm quên đi mối bận tâm đang làm phiền tâm trí, vì vậy, họ đã đi cùng nhau trong im lặng suốt một quãng đường dài. Nỗi buồn khiến thời gian kéo dài lê thê, Herbert nghĩ mình đã lang thang rất lâu, nhưng tháp đồng hồ từ một nhà thờ gần đó cũng chỉ vừa gõ chín tiếng. Có lẽ sự thiếu vắng hình bóng của con người khiến cả hai sinh lầm tưởng rằng thì giờ đã rất muộn, song sự thật chỉ là, họ đã đưa chân đến vùng ngoại ô, nơi bao quanh chỉ có những rừng cây trơ trọi phủ tuyết, những căn nhà thưa đã tắt ánh đèn, và một dòng sông băng.
Một thứ gì chuyển động bên dưới mặt băng thu hút sự chú ý của Herbert, khiến cậu ta dừng lại và thôi thúc cậu bước lại bờ sông để nhìn cho rõ hơn. “Trông như một con vật đang mắc kẹt.” Herbert nói với Alfred – người vẫn đang cố nheo mắt nhìn – trước khi vội vàng đặt chân xuống nền băng. “Anh phải giúp nó.”
“Cẩn thận đấy!”
Alfred nói to, giọng nói lên cao thành một tiếng thét khi lớp băng bất chợt nứt ra và trong tích tắc Herbert đã ngã ùm xuống nước. “Herbert!” Alfred gọi, căng mắt quan sát mặt băng, từ lỗ thủng gây ra bởi vết nứt chỉ thấy một màu đen ngòm. Nhưng rồi mặt nước bắt đầu sủi bọt, và Herbert nhanh chóng trồi lên trong tiếng thở phào của Alfred, trên tay cậu ta là một con mèo đen.
Con mèo lập tức nhảy khỏi vòng tay Herbert khi cậu ta đặt chân được lên bờ, ho khạc sặc sụa. Nó mặc kệ người vừa cứu mạng mình cứng đờ vì cóng mà thản nhiên giũ nước, rồi ngồi phịch xuống đất mà vô tư liếm lông. Cái lạnh cóng của nước sông mùa đông không khiến Herbert phải phiền hà, nhưng cậu ta khó chịu khi quần áo nhanh chóng bị đông cứng và lấm bẩn.
“Không cần phải cảm ơn đâu.”
Herbert bĩu môi, nói mát, lườm xuống con mèo vẫn đang chải chuốt trong khi Alfred nhóm lửa sưởi ấm cho cả ba. Ngọn lửa nhỏ, nhưng hơi ấm nó tỏa ra cũng dễ chịu phần nào, và Herbert cũng quyết định mình nên bỏ cuộc với con mèo xấu tính. Tuy vậy, cậu ta – cũng như Alfred – thật sự không rời mắt được khỏi nó, vì nó quá to so với một con mèo bình thường, với bộ lông đen trùi trũi hệt như bồ hóng. Nó cũng không thân thiện gì cho cam, nhe nanh và hằm hè khi Herbert toan nhấc nó, thế nhưng lại chịu để yên cho Alfred vuốt ve bộ lông dày.
“Mèo của ai đây nhỉ?”
Alfred vừa nựng nịu con mèo vừa hỏi, cười hì hì khi nó gừ lên mãn nguyện và nằm lăn ra. Herbert đảo mắt, chép miệng, xem chừng vẫn còn dỗi lắm:
“Nó không có thẻ tên hay vòng cổ à?”
“Không.” Alfred lắc đầu. “Nhưng em không nghĩ nó là mèo hoang. Nó quá sạch sẽ, và bộ vuốt của nó cũng được cắt tỉa gọn gàng.”
“Anh không thấy ngôi nhà nào ở gần đây.” Herbert nhìn ra xa xăm. Xung quanh họ chỉ là một cánh đồng tuyết trải dài bất tận, dấu hiệu duy nhất của nền văn minh chỉ là vài cỗ xe chở hàng đã mục nát bị vứt bỏ ven đường. “Có thể nó đi lạc.” Cậu ta ngán ngẩm nói.
“Vậy thì chúng ta nên đem nó theo.” Alfred trả lời, ôm gọn lấy con mèo trong tay. Nó có vẻ thích cậu, dụi đầu vào ngực áo mà kêu meo meo làm nũng. “Biết đâu nó sống ở khu dân cư gần nhất, và chủ của nó cũng đang đi tìm nó không chừng.”
Thế là họ quay trở về, con mèo có lẽ cũng đã thấm mệt mà nằm ngoan ngoãn trong tay Alfred, mặc dù nó vẫn mở mắt thao láo và ngước nhìn xung quanh, cặp mắt xanh của nó sáng quắc giữa bóng tối bao phủ. Trong ít lâu Herbert tạm quên đi nỗi buồn ban nãy, và cậu ta vừa đi vừa chăm chú nhìn Alfred với một con mèo đen trên tay.
Họ bắt gặp một người phụ nữ trên đường, bộ dạng hớt hải như đang tuyệt vọng tìm kiếm thứ gì đó. Cô ta nhỏ thó, với một mái tóc như được dệt từ vàng ròng, tuy vậy vẻ đẹp lại bị lấm lem khiến người ta không khỏi nghĩ rằng cô ta vừa trải qua một cuộc đời không mấy suôn sẻ. Cô ta tỏ rõ vẻ mừng húm khi bắt gặp hai người kia, vội vã chạy đến trước mặt Herbert và Alfred và hỏi họ với một vẻ đáng thương vô cùng:
“Hai cậu gì ơi, hai cậu có thấy một con mèo đen nào chạy qua đây không?”
Hiển nhiên Alfred hiểu ngay, liền chìa con mèo mình đang ôm ra mà hỏi:
“Có phải con mèo này không, thưa cô?”
Người phụ nữ lập tức thở hắt ra vì vui mừng và lấy tay che miệng. “Đúng rồi!” Cô ta reo lên, đôi mắt hấp háy nhìn con vật. “Hai cậu tìm thấy nó ở đâu vậy?”
“Chúng tôi nhặt được nó ở bờ sông.” Herbert kể. “Nó đã suýt chết đuối đấy.”
“Ôi trời ạ, mèo con tội nghiệp, ta xin lỗi!” Người phụ nữ gần như mếu máo, giơ tay xin đón lấy con mèo. “Là tôi bất cẩn để lạc nó khi đi dạo, tôi tìm nó cả buổi tối!”
“Vậy chúng tôi trả nó cho cô.”
Alfred gật đầu, trao lại con mèo cho người phụ nữ. Song, nó bất chợt kích động lên, toàn bộ lông dựng ngược và nó rít một tiếng, trước khi nó bung vuốt mà bấu víu vào vải áo người đang bế mình. Bật cười, Alfred hỏi, “Sao vậy? Đến lúc về nhà rồi.”
“Thành thật xin lỗi, vì nó là một con mèo khá khó chịu, và thường không chịu rời khỏi ai mà nó có cảm tình.” Người phụ nữ đáp, và Herbert cũng gật gù theo. Cô ta phải tóm chặt gáy con mèo để bắt được nó về, ấy vậy mà nó vẫn ngoan cố nhe nanh ra, đòi cào cả cô ta khi họ nói lời tạm biệt. Herbert nói vọng theo trước khi cô ta khuất bóng:
“Nhớ giữ ấm cho nó đấy!”
“Tất nhiên rồi.” Người phụ nữ mỉm cười, thậm chí còn chẳng buồn ngoái lại. “Mèo con sẽ được sưởi ấm, rất ấm.”
Herbert và Alfred đã đứng nhìn cho đến khi người phụ nữ khuất bóng sau rặng cây. Rồi Herbert thở dài, chẳng biết phải làm gì tiếp, bởi bây giờ nếu tiếp tục đi, cậu ta sẽ lại phải trở về với vấn đề đang làm cậu bực tức. Thế nhưng họ còn chưa kịp nhấc chân, từ rặng cây phía xa đã vọng lại tiếng mèo gào, kéo theo là một tiếng thét chói tai, và rồi, Herbert và Alfred trông thấy con mèo quay trở về với họ.
Và vì Chúa, con mèo còn đang chạy bằng hai chi sau!
Như thể việc một con mèo có thể chạy bằng hai chi sau là chưa đủ, nó còn vội vã nấp sau lưng Herbert và van nài. Vì Chúa, nó biết nói!
“Làm ơn giúp tôi, bởi tôi chẳng phải mèo của ả đàn bà đó!”
Con mèo run rẩy và siết chặt lấy ống quần Herbert, nó rít lên khi người phụ nữ kia xuất hiện, nộ khí xung thiên. Ả ta chẳng cần tốn sức để tìm được con mèo, và, “Đồ phù thủy!”, con mèo la hét, chỉ tay về phía ả ta mà rống lên, “Cút đi! Ở đây chẳng có gì cho ngươi cả!”
Ả phù thủy sững người trước lời buộc tội của con mèo. Ánh mắt ả hiện rõ cơn thịnh nộ trước vẻ bàng hoàng của Herbert và Alfred, và ả nghiêng đầu qua một bên. Từng cột khói xanh rất mỏng tỏa ra từ người ả, ả nhấc một tay của mình lên, như thể ả đang nhấc một cây gậy vô hình, và ả chỉ tay về phía Herbert và Alfred. Trên tay ả, một thanh gươm bất ngờ xuất hiện.
“Xin lỗi nhé, không có tư thù gì đâu.” Ả cong khóe môi thành một nụ cười độc ác. “Nhưng các ngươi đã biết quá nhiều rồi. Thôi thì…” Ả chậc lưỡi. “Lỗi tại con mèo.”
Dứt lời, ả lao đến, vung tay, nhưng Herbert đẩy Alfred lẫn con mèo né được ra xa và lưỡi gươm chỉ sượt qua cánh tay cậu. Vết thương của Herbert ngay lập tức liền lại dưới ánh nhìn chòng chọc của ả phù thủy, cậu chẳng hiểu vì sao ả càng nổi điên hơn và hất hàm nhìn họ với đầy vẻ khinh miệt. “Thằng nhãi.” Ả nghiến răng, nhưng khóe miệng nhoẻn rộng ra tỏ vẻ thích chí như thể ả đã vớ được một món hời. “Mày cũng là ma cà rồng.”
“Thì?” Herbert bung móng vuốt và sẵn sàng nghênh chiến. Ả phù thủy chỉ ngửa mặt mà cười, buông lời phỉ nhổ:
“Tao lỡ mất một con vào ngày hôm kia… Nhưng có lẽ hôm nay tao được bù đắp rồi. Lũ sinh vật thảm hại.” Giọng ả trở nên đầy hận thù. “Chúng mày nên chết hết đi!”
Nói rồi, ả một lần nữa vung gươm, và ả lao đến Herbert với một tốc độ khủng khiếp.