Ngôn Băng Vân đã không còn nhớ rõ lần cuối cùng mình ngủ thẳng một giấc đến hừng đông là khi nào nữa. Những ngày đầu mới đến Kiến An, gần như đêm nào y cũng mất ngủ, chỉ cần nhắm mắt lại là sẽ thấy một mảnh máu tươi đỏ thẫm, đành phải ngồi một mình trong hoa viên ngắm trăng hoặc là thổi huân. Về sau khi thân thể đã điều dưỡng ổn rồi, bắt đầu theo Tạ Doãn ra ngoài đi ban sai, có nhiều việc phải làm ngược lại cũng khiến y phân tán tinh lực, dần dần bớt nghĩ đến chuyện phụ thân, sư phụ, và quân Ninh Viễn, ban đêm có thể ngủ được khoảng ba bốn canh giờ. Mỗi ngày cứ canh năm* Tạ Doãn sẽ thức giấc, rửa mặt chải đầu thay quần áo chuẩn bị vào triều, cho nên bình thường canh bốn* là Ngôn Băng Vân dậy rồi, nhanh chóng chỉnh đốn bản thân đâu ra đó, tiếp đến là đi tới tiền thính chờ Tạ Doãn.
(*Canh bốn: từ 1h đến 3h sáng.
*Canh năm: từ 3h sáng đến 5h sáng.)
Đây là lần đầu tiên, vừa mở mắt ra là đã thấy ánh bình minh mỏng manh lẻn vào trong phòng. Y bị hơi thở nóng rẫy cùng những nụ hôn nhẹ nhàng đánh thức, bởi vì quá ngứa, y xoay người lại, đón nhận ánh mắt vừa chăm chú vừa thâm tình của người kia. Một tay của Tạ Doãn đang chơi đùa với mái tóc của y, tay còn lại vẫn ôm chặt lấy vòng eo trần trụi như cũ, mặt y không khỏi ửng hồng lên, thấp giọng gọi một câu:
“A Doãn…”
Tạ Doãn lại có vẻ như cực kỳ thất vọng vậy, “Ơ kìa” một tiếng, thiếu niên bĩu môi nói tiếp:
“Vừa rồi ta còn đang đánh cuộc với chính mình, nhất định là sau khi huynh tỉnh dậy vẫn tiếp tục gọi ta là “Điện hạ”, nếu như vậy thì ta đây sẽ nghiêm túc dạy cho huynh một bài học. Thế mà lại đoán sai mất rồi…”
Bàn tay kia không ngừng truyền hơi ấm đến, Ngôn Băng Vân cảm thấy người mình cũng nóng hết cả lên rồi. Y ngập ngừng hỏi:
“Ngươi vẫn muốn ta gọi ngươi là “Điện hạ” như cũ sao?”
Tạ Doãn bỗng nhiên xoay người đè y xuống, đôi mắt rạng ngời chăm chú nhìn y,cười nói:
“Đồ ngốc, ta là muốn huynh cho ta cơ hội được dạy huynh một bài học đấy.”
Lời còn chưa dứt, hắn đã cúi đầu hôn xuống, không hề khách sáo rào trước đón sau cùng y, mà là quen đường quen lối một lần nữa xâm nhập thẳng vào lãnh địa đã thuộc về mình, quấn lấy đầu lưỡi của y rồi bá đạo mà liếm mút triền miên, bàn tay không ngừng vuốt ve thắt lưng y, đồng thời nâng mông y lên, để y có thể cảm nhận rõ ràng được phần khát vọng nóng bỏng kia của hắn.
Ngôn Băng Vân dùng một tay chống lên phần cơ ngực săn chắc của thiếu niên, cố gắng níu lấy một tia lý trí duy nhất còn sót lại mà khuyên nhủ trong tiếng thở dốc:
“A Doãn… Đừng lỡ giờ vào triều…”
Tạ Doãn thở hổn hển rồi cắn nhẹ lên vành tai y, giận dỗi nói:
“Ta đã nói rồi mà, làm quan chẳng có gì thú vị cả, làm Hoàng đế lại càng không có gì thú vị! Ta chỉ muốn đắm mình trong ôn nhu hương*, không muốn đi đâu hết.”
(*Ôn nhu hương (温柔乡): lấy từ câu Ôn nhu hương thị anh hùng trủng – Chốn dịu dàng là mộ anh hùng, ý nói bậc anh hùng cũng khó mà vượt qua được cạm bẫy dịu dàng mang tên sắc đẹp.)
Thiếu niên nói xong thì dường như có chút thấp thỏm mà hỏi y:
“Ta lòng không mang chí lớn như vậy, chẳng phải là huynh sẽ không thích ta nữa sao?”
Dòng suối ấm áp mang tên ngọt ngào bắt đầu chảy xuôi trong đáy lòng Ngôn Băng Vân, tựa như hòa tan hết thảy băng giác buốt lạnh. Y vươn tay chọc chọc lên khuôn mặt đang ra vẻ ấm ức tủi thân của đối phương, không nhịn được cười, nói:
“Thế để ta dán cho ngươi một cái nốt ruồi giữa ngực, vậy chẳng phải là Điện hạ cũng lòng mang chí lớn rồi sao?”
“Được, nhưng mà đừng chỉ dán mỗi trên ngực không thôi.” Tạ Doãn nắm lấy tay y kéo xuống sờ soạng nửa người dưới của hắn, “Bản vương “chí” ở bốn phương đấy.”
(*Ở đây hai người đang dùng lối chơi chữ đồng âm khác nghĩa, “志 chí – chí hướng” và *痣 chí – nốt ruồi” đều đọc là “zhi”, 胸 hung – có hai nghĩa là “ngực” và “lòng” – có liên quan đến tư tưởng, kiến thức. “Lòng mang chí lớn” và “Ngực có nốt ruồi lớn” phát âm như nhau.)
Ngôn Băng Vân cười đến đỏ cả mặt, dùng sức rút bàn tay đang dán vào thứ nóng bỏng kia ra:
“A Doãn, đừng nghịch nữa, nếu đi muộn sẽ bị Hoàng thượng trách tội đấy.”
Tạ Doãn lưu luyến không rời mà hôn lên môi y mấy phát, sau đó mới nói:
“Hôm nay ta dẫn theo Tần Xuyên vào cung, huynh ở nhà nghỉ ngơi nhiều chút.”
Nhưng đây dù sao cũng là phòng của Tạ Doãn, Ngôn Băng Vân cũng không tiện nằm lại quá lâu, nhanh chóng mặc quần áo cẩn thận rồi đi ra. Tần Xuyên đi theo Tạ Doãn chuẩn bị ra ngoài, cái bánh bao trong tay vừa đưa lên miệng đã buông xuống, thắc mắc:
“Ngôn công tử, sao ngươi lại nghỉ ngơi ở Chính phòng? Nói đến mới nhớ, đêm qua ta ở Tây sương phòng nghe thấy một ít tiếng động…” Cậu trợn tròn hai mắt, nhìn nhìn Tạ Doãn đang lạnh lùng trừng mắt với mình, vốn dĩ còn cảm thấy kỳ lạ vì sao hôm nay cậu bị gọi đi theo vào cung, lúc này mới như bừng tỉnh đại ngộ, “À! Nhất định là ngươi và chủ tử đánh nhau!”
Ngôn Băng Vân bị sặc nước miếng, ho đến mức cả mặt đỏ bừng. Mi Nương bước đến lẳng lặng nhét cái bánh bao trên tay Tần Xuyên vào mồm cậu, nhưng vẫn chậm mất rồi, Tạ Doãn đen mặt dặn dò:
“Ngươi, sau này ngủ thì nhớ nhét bông vào hai lỗ tai ấy.”
Tần Xuyên vội la lên:
“Vậy thì thuộc hạ bảo vệ chủ tử thế nào được?”
“Khi nào đánh thắng được ta đi đã rồi bàn lại chuyện bảo vệ sau!”
Mặc dù Tạ Doãn đang xị mặt ra, nhưng sự vui sướng trong giọng điệu lại không thể nào mà giấu đi được. Hắn nói xong còn quay đầu lại nhìn thoáng qua người trong lòng, sau đó mới tung áo choàng sải bước ra ngoài.
Hoàng thượng vội vàng quay về kinh, ngoại trừ việc thu dọn cục diện hỗn loạn giúp Thái tử, thì còn một nguyên nhân khác cực kỳ quan trọng.
Nạn tuyết ở phương bắc đợt đầu năm mặc dù đã yên ổn vượt qua, nhưng vẫn có một đám dân lưu lạc chạy trốn xuống phía nam, dọc đường vì muốn sống mà bị ép trở thành thổ phỉ. Mới đầu ai cũng nghĩ rằng bọn chúng chẳng quấy lên được bọt sóng gì, quan viên địa phương lại sợ bị chất vấn chỉ trích, trong tấu chương dâng lên đều chỉ nhắc đến chuyện này một cách sơ sài, cho nên triều đình cũng không coi trọng. Ai mà tưởng tượng được rằng bọn chúng một đường xuôi nam, hàng ngũ thế nhưng dần dần lớn mạnh, kết nạp thêm mấy trăm người dân từng bị quan phủ áp bức hoặc phải chịu oan khuất, ngược lại biến thành một nhân tố không yên ổn vừa có quy mô vừa có tổ chức. Bọn chúng không hề cướp bóc tiền tài lương thực của dân chúng bình thường, chỉ lấy đám con buôn giàu có và quan viên làm mục tiêu, thậm chí tổ chức vài lần cướp của kẻ giàu chia cho người nghèo. Vì thế ngay cả dân chúng cũng khen ngợi đám thổ phỉ này không dứt lời, gọi bọn chúng là lục lâm hảo hán, cam tâm tình nguyện giúp đỡ bọn chúng chống lại quan phủ.
Tận đến khi đám thổ phỉ này bành trướng đến trấn Hoài Tây chỉ cách thành Kiến An không đến hai trăm dặm, dựng một doanh trại ở chỗ gọi là núi Tây Phong, mới chính thức gợi lên sự sợ hãi cho quan phủ. Một khi đám người này tấn công vào thành Kiến An, cho dù Hoàng thành tổn thất đến mức nào, quan viên địa phương của Hoài Tây đều không gánh nổi. Vậy nên bọn họ không dám giấu giếm nữa, chỉ đành bẩm báo tình hình thực tế, thỉnh cầu triều đình phái quân tiêu diệt.
Trong buổi lên triều Sùng Thanh đế nhắc đến việc này, tất cả mọi người đều hiểu triều đình phái binh nếu không phải Cẩm Y Vệ thì chính là Cấm quân. Cẩm Y Vệ lấy truy tung và ám sát làm sở trường, loại giao chiến cần có binh có tướng đao thật thương thật này, vẫn là để Cấm quân thì tốt hơn. Nhưng Thống lĩnh của Cấm quân chỉ có một, lại còn phải luôn luôn tọa trấn ở đại ban doanh, đề phòng có kẻ địch tập kích hoàng cung. Sùng Thanh đế chính là muốn hỏi ý kiến đám bề tôi, xem xem phái ai đi tiêu diệt thổ phỉ thì thích hợp hơn.
Trần Kế Viên cũng tự đề cử vài vị Phó thống lĩnh dưới trướng mình, nhưng đều bị bác bỏ hết, chỉ vì kinh nghiệm dẫn binh của bọn họ không đủ, cũng chưa từng tham dự thực chiến bao giờ. Cũng khó mà trách được, cánh Cấm quân này sau khi thay máu thì đa số là người trẻ tuổi, chính bản thân Trần Kế Viên cũng chưa qua ba mươi tuổi, thuộc hạ đương nhiên là còn trẻ hơn. Muốn chọn người lão luyện, lại không tìm được ai thích hợp.
Cuối cùng Thái tử đứng ra chủ động yêu cầu nhận trách nhiệm này, vì chuyện quan viên môn hạ tham ô, gã vừa mới bị Phụ hoàng trách mắng vài câu ngay trước mặt quần thần, dường như đến ngay cả Sùng Thanh đế cũng không đoán được gã lại có dũng khí gánh vác phần trách nhiệm này, chỉ thấy gã quỳ gối cúi đầu dưới điện, trong giọng điệu tràn ngập tự trách và hối hận.
“Nhi thần làm Thái tử mấy năm này, luôn thành sự không đủ bại sự có thừa, chẳng mấy khi làm tốt được việc gì, chỉ làm Phụ hoàng tức giận là nhiều, thật sự là cô phụ sự kỳ vọng của Phụ hoàng. Mỗi khi nghĩ đến, nhi thần đêm ngủ không ngon, ngày sống không yên. Lần này tiêu diệt thổ phỉ ở núi Tây Phong, nhi thần nguyện dốc toàn lực để phân ưu cùng Phụ hoàng. Trước đây nhi thần đã từng dẫn binh đến Tây Bắc một lần, cũng xem như là có chút kinh nghiệm, vẫn mong Phụ hoàng cho nhi thần một cơ hội, nhi thần nguyện thịt nát xương tan để báo đáp hoàng ân!”
Hoàng thượng im lặng một lúc lâu mới trầm giọng nói:
“Lần ngươi đến Tây Bắc kia, chỉ là Phó tướng, lần này là cần lựa chọn Chủ soái dẫn Cấm quân đi tiêu diệt thổ phỉ, chỉ cho phép thành công không được phép thất bại, ngươi thật sự nắm chắc sao?”
Tạ Tuấn khom lưng dập đầu, cao giọng nói:
“Nhi thần bằng lòng lập Quân lệnh trạng*!”
(*Quân lệnh trạng: là thuật ngữ liên quan đến hành quân tác chiến, viết giấy cam đoan sau khi nhận quân lệnh, nếu như không thể hoàn thành nhiệm vụ, sẽ chịu trừng phạt theo quân pháp. Mục đích là để tăng cường ý thức trách nhiệm của tướng chỉ huy, bảo đảm chiến đấu thắng lợi.)
Hoàng thượng hiếm khi thấy gã khí phách như vậy, trong lòng không khỏi vui mừng, cũng đồng ý:
“Nếu như thế, bèn phái thêm hai vị Phó tướng của Trần thống lĩnh theo ngươi, ngươi dẫn theo hai nghìn Vũ Lâm quân đến thẳng Hoài Tây tiêu diệt thổ phỉ.”
Dừng lại một chút, Hoàng thượng nhìn gã, trong mắt dường như lại xuất hiện phần sủng ái cùng kỳ vọng đã lâu rồi không thấy, chậm rãi nói:
“Trẫm chờ tin tốt của ngươi.”
Lúc hạ triều nhiều người mắt tạp, Yến vương chỉ kịp tìm Tạ Doãn nói buổi tối sẽ đến quý phủ thăm hỏi, sau đó tự mình rời đi. Nhưng lúc chạng vạng lại bắt đầu có mưa nhỏ, gió thổi cũng mạnh, Tạ Doãn nghĩ rằng hắn ta sẽ không đến, ấy thế mà Yến vương lại đội mưa ngược gió mà tới.
Tạ Doãn đương nhiên biết hắn ta đến vì cái gì, chuyện Thái tử dẫn binh đi tiêu diệt thổ phỉ làm cho Yến vương cảm thấy không yên, nhưng trên mặt từ đầu đến cuối vẫn chưa để lộ ra. Ngược lại khi Tạ Doãn hỏi hắn ta vì sao không ở nhà bầu bạn cùng thê tử thì hắn ta lại để lộ ra một ý cười sâu xa.
“Xem ra vi huynh đến không đúng lúc, quấy rầy Ngũ đệ rồi?” Tạ Ngật đưa mắt nhìn quanh, hỏi: “Tại sao không thấy Ngôn công tử?”
Hắn ta vừa dứt lời, Ngôn Băng Vân lập tức vén rèm bước vào, quỳ gối hành lễ:
“Bái kiến Vương gia.”
Tạ Ngật ra hiệu ý bảo y không cần khách khí, lại lấy một cái hộp bọc gấm trong tay áo ra đưa cho Tạ Doãn, nói:
“Đây là một phần tấm lòng của Thanh Âm, dù sao nàng cũng là nữ quyến, không tiện đến đây, bèn nhờ ta tặng đôi Hợp phù này cho Ngũ đệ cùng Ngôn công tử.”
Tạ Doãn mở nắp hộp ra, vừa liếc qua đã biết vật này vô cùng quý giá, đang định mở miệng từ chối thì lại bị Yến vương giành trước một bước, lên tiếng khuyên nhủ:
“Ta chỉ là người tặng thay thôi, nếu Ngũ đệ không nhận thì phải tự mình trả lại cho Hoàng tẩu của đệ, chớ làm khó đại ca.”
Đôi Bạch ngọc hợp phù kia, dùng phù văn khắc mờ để trang trí, trên mặt ngọc gần như nhẵn nhụi không chút tì vết, rực rỡ như sương đọng trên đóa ngọc quỳnh, chia thành hai miếng xuôi ngược, mỗi miếng đều tự có mộng ngàm ở bên trong, có thể ghép khít chặt với nhau, sau khi tách lại trở thành hai miếng ngọc bội độc lập. Tạ Doãn bị tấm lòng của vị Hoàng tẩu này làm cảm động, lập tức cười nói:
“Hoàng tẩu đã yêu thương như vậy, nếu thần đệ còn từ chối thì là bất kính. Đợi đến khi tiểu chất nhi ra đời, thần đệ nhất định sẽ tặng cho nó một phần lễ vật tốt nhất.”
Ngôn Băng Vân thấy Tạ Doãn đã quyết định nhận lấy, cũng nhanh chóng quỳ xuống tạ ơn. Yến vương tự mình đỡ y đứng dậy, giọng điệu ôn hòa mà nói:
“Cũng không muốn giấu giếm, trong lòng ta và Thanh Âm, đã sớm xem công tử như người trong nhà mà đối đãi. Sau này ta nghị sự cùng Ngũ đệ, công tử cũng không cần tránh đi.”
Ngôn Băng Vân không hiểu vì sao chỉ mới qua một đêm thôi, mà giống như tất cả mọi người đều đã biết rõ chuyện của y với Tạ Doãn vậy. Y có chút thất thố mà nhìn về phía Tạ Doãn, vừa vặn đón được ý cười nhàn nhạt nhưng đầy dịu dàng của đối phương. Y lập tức đỏ mặt tránh đi, cúi đầu nói:
“Ty chức tạ ơn Vương gia ưu ái.”
Mi Nương sai Phó Cầm đến dâng trà rồi lui xuống, lúc này Yến vương mới nói vào vấn đề chính.
“Thái tử tự xin đến Hoài Tây tiêu diệt thổ phỉ, Ngũ đệ thấy thế nào?”
“Trong tấu chương của tuần phủ Hoài Tây có nói, bọn họ đã tính sơ bộ rằng đám thổ phỉ kia có trên dưới tám trăm ngươi, Phụ hoàng thế mà lại phái tận hai nghìn Cấm quân, lại cộng thêm hai vị Phó thống lĩnh cho gã, rõ ràng là muốn để gã dựa vào chuyện này Đông Sơn tái khởi.”
“Ngũ đệ và ta không mưu mà hợp.” Tạ Ngật cau mày thật chặt, tay nâng chén trà hồi lâu nhưng đã quên uống, “Ở trong triều Thái tử đã mất hết lòng người, Phụ hoàng đây là đang muốn giúp gã đứng vững gót chân một lần nữa. Nói cho cùng thì, Phụ hoàng vẫn không chịu mất hết hi vọng với gã.”
“Thái tử là do Phụ hoàng thân phong, sao có thể dễ dàng phế bỏ được?”
“Đúng vậy, nếu không sẽ làm tổn hại đến thể diện của Hoàng thất, Phụ hoàng cũng chẳng còn chút mặt mũi nào.” Trong mắt Tạ Ngật lóe lên sự sắc bén lạnh lẽo, cắn răng nói: “Bởi vậy nên cho dù thế nào đi chăng nữa chúng ta cũng không thể để Thái tử thắng được ván này.”
Tạ Doãn hỏi:
“Hoàng huynh dự định âm thầm cản trở chuyện tiêu diệt thổ phỉ này sao?”
Tạ Ngật cười lạnh nói:
“Ít nhất không thể để gã xong việc một cách quá thuận lợi được. Chuyện này phải làm lớn lên, ầm ĩ càng lớn càng tốt, thử nghĩ xem nếu hai nghìn Cấm quân lại không thể giết sạch được mấy trăm tên thổ phỉ cùng đường hết lối, Thái tử còn lấy đâu ra mặt mũi mà đứng trong triều đình nữa.”
“Nhưng mà…” Tạ Doãn lại nghĩ đến một khía cạnh khác, “Hoài Tây cách Kiến An rất gần, nhỡ may chọc giận đám thổ phỉ kia, làm bọn chúng chuyển hướng về phía kinh thành…”
“Vậy thì đúng là tốt đến không thể nào tốt hơn.” Tạ Ngật cười nói: “Ngũ đệ cứ yên tâm, Hoàng thành phòng thủ kiên cố, thổ phỉ sao dám tùy tiện khiêu chiến? Cùng lắm thì bọn chúng chỉ dám giết mấy tên con buôn giàu có trong kinh thành cho hả giận. Chỉ cần bọn chúng ồn ào đến tận thành Kiến An, thì cũng là lúc Thái tử không còn cơ hội xoay người.”
Tạ Doãn nhíu mi, trước sau vẫn cảm thấy làm như vậy không ổn lắm:
“Mặc dù trong cung an toàn, nhưng cũng có nhiều hoàng thân quốc thích ở ngoài cung, cho dù chỉ là con buôn bình thường, thì cũng không nên hi sinh người vô tội…”
“Ngũ đệ.” Tạ Ngật lẳng lặng nhìn hắn, ánh mắt sắc bén, trong đồng tử tăm tối như lóe lên hai đốm lửa nhỏ, đó chính là dã tâm đang bùng cháy hừng hực của hắn ta, “Người muốn thành việc lớn thì không thể có lòng dạ đàn bà được. Ta biết là đệ mềm lòng, cho nên việc này không cần Ngũ đệ lo lắng, cứ giao cho vi huynh là được.”