Sương đêm về nặng nề, quắc mắt nhìn kỹ càng nhất cũng không thấy nổi hàng cây tùng xà ở cánh rừng cách chưa đầy một dặm. Ô Di Đạo cùng các huynh đài một bọn hai mươi ba người quây quần, đánh chén một bữa no say, nhưng lửa đốt cũng phải bịt sỏi đá kín mít để khói không bốc lên nhiều.
“Mấy hôm nay chúng ta đi săn còn phải hạn chế,” Ô Di Hà nói với Hoàn Thừa Lân, “Quân Mông Cổ đã biết vị trí của chúng ta ở đâu, bọn chúng đang cử trinh sát ráo riết, nếu không vì đại quân phải tiếp tục chinh chiến thì chúng ta đã vong mạng hết rồi. Kì thực là may mắn lắm mới gặp được thiếu hiệp.” Rồi tiếp lời, “Xin thiếu hiệp đừng khách sáo. Ni Kham kiếm pháp không thuộc chính tông nào, số lượng môn đệ thu nhất chỉ đếm trên đầu ngón tay, cũng tự cổ chí kim chưa bao giờ tham gia vào tranh chấp môn phái, nhưng không vì thế mà bọn ta khinh miệt. Giờ đây quốc gia lâm nguy, dù là người từ tông phái nào cũng có chung một kẻ thù. Nếu thiếu hiệp không chê bọn ta hạng tiểu tướng vô danh, thì xin cứ gọi bọn ta là huynh.”
Thừa Lân vội vàng tạ lễ, gật đầu đồng ý lập tức. Nghi thức kết huynh đệ của họ vô cùng đơn giản: với người Dã Nhân, mọi chuyện kết thân đều từ những bình túy tửu. Hai người họ tu hết một âu rượu, thế là thành huynh đệ.
Ô Di Hà trọng vọng Thừa Lân vô cùng, cho ngồi chung mâm với tứ chủ Thiết Lĩnh, gồm nhất ca Ô Di Hà, nhị ca Kiều Sinh Nhai, tam ca Cổ Mạnh Ninh và tứ ca Ô Di Đạo. Phần lớn người trong bọn Ô Di Hà đều xuất thân bần nông hoặc du mục, thậm chí có cả hai ba kẻ vốn phường sơn phỉ, nay cũng góp sức vì đại nghĩa. Khác với những người kia, bốn người này không từng làm tướng lĩnh triều đình thì cũng xuất thân từ Tắc Kỷ tông giáo từng tiếu ngạo khắp bình nguyên Bắc cực.
“Bọn ta đều theo Tắc Kỷ phải của tộc Dã Nhân. Kiếm, thương, cung, mâu, kích, bọn ta đều thành thục. Nhưng bản thân ta ưa thích nhất cây chiến phủ này.” Kiều Sinh Nhai khư khư cây rìu sắt bên mình, một cây rìu bằng bạc nặng trăm cân, trên cán khắc chữ Quần Nghi Phủ.
“Tại hạ nghe danh Tắc Kỷ đã lâu, quả nhiên tông môn Tắc Kỷ phái đều dũng mãnh, cầm trọng khí mà nhẹ bẫng như đoản kiếm, sức mạnh vô song.”
“Thiếu hiệp cứ quá khen,” Cổ Mạnh Ninh hồ hởi đáp. “Tắc Kỷ phái chúng ta tuyệt đại đa số chỉ rèn luyện ngoại công thể chất. Nội công của thiếu hiệp ta xem chừng mới ở tầng thứ nhất mà đã đáng gờm như vậy rồi, ắt hẳn là hạng có linh căn.”
Ô Di Hà ngoài mặt không nói một lời, nhưng bên trong còn nhiều điều suy xét. Thuấn bộ của Hà—thứ mà giúp cho đôi chân của Hà giảo hoạt khôn cùng dù cho thân thể to lớn—không phải là võ công tộc Dã Nhân, cũng chẳng phải là bộ pháp của chính tông nào cả. Pho sách mà Hà tiếp nạp bộ pháp này, hắn cá chắc rằng trong thiên hạ số người đã đọc qua chỉ có trên đầu ngón tay. Vậy mà Thừa Lân chỉ mới nhìn qua hắn khinh công trên ngọn cây mà đã có thể bắt chước, mười phần giống năm, sáu phần.
Ngồi trong góc, Ô Di Đạo khề khà lấy tay không lau rượu trên môi. “Tiểu tử này tư chất khá, nhưng Cổ huynh nói như vậy thật quá lời! Nội công thì có gì mà cao siêu chứ? Ta ngồi nhà săn hươu bắt sói cũng khai mở tầng thứ hai rồi!”
Thừa Lân không cho là vậy. Chàng phải khổ cực năm năm trời mới đả thông được kinh mạch. Để luyện lên tầng thứ hai, nếu dễ dàng tới vậy, chẳng phải nội tộc Dã Nhân ai cũng phải khai mở được rồi sao?
Thừa Lân hồi tưởng lại lời giảng giải của lão sư khi chàng mới nhập môn. “Khai phá nội công cũng có năm tầng. Khai mở tầng thứ nhất, con có thể sử dụng luân xa để khuếch đại ngoại lực, đả bại hai người cùng lúc. Khai mở tầng thứ hai, nội lực của con dồi dào hơn thập phần, con có thể đánh bại năm người. Khai mở tầng thứ ba, con có thể hoán chuyển nội công thành nguyên khí, dùng tay không thôi mà cả chục người cũng không lại được. Khai mở tầng thứ tư, nguyên khí của con có thể triệu hồi nội linh thú, ba chục người bao vây con cũng có thể phá vây. Khai mở tầng thứ năm, kinh mạch của con liên hợp với ngũ khí trời đất, một trăm tinh binh cũng khó lòng cản nổi.”
Chàng thắc mắc làm thế nào để một mình có thể đối đầu được cả một binh đoàn. Gia Tịnh nhấp chèn trà, lắc đầu khoan thai. “Một người diệt vạn quân chỉ có trong tiểu thuyết tu tiên mà thôi. Sinh thời ta chưa từng thấy ai sức mình đọ được vài trăm quân, chứ chưa nói tới một binh đoàn. Cả phụ thân ta cũng chưa thấy. Cả tổ phụ ta cũng chưa. Nếu Thành Cát Tư Hãn có thể tự lực diệt vạn địch, hắn đã không cần đến đặc chủng kỵ binh.”
Thừa Lân tỉnh khỏi dòng suy nghĩ thì bốn vị kia đã uống sạch một âu rượu rồi. Cổ Mạnh Ninh thấy Ô Di Đạo hống hách, mới nói, “Nếu Ô Di đệ tài năng vậy thì sao khi tướng Mông Cổ Húc Đồ Cung tới Liêu Dương, đệ mới đánh năm hiệp đã phải quay ngựa chạy?”
Nghe tới cái tên Húc Đồ Cung, Ô Di Đạo đã giật mình, đánh rơi cả chén rượu. “Huynh đi mà giáp chiến với hắn! Lúc đó rồi biết.”
“Cái tên Húc Đồ Cung ta mới nghe lần đầu, nhưng nghe nói hắn là một trong số Lục Đại Sát Khuyển của Mộc Hoa Lê,” Kiều Sinh Nhai phân bua. “Thực sự võ công của hắn không thể xem thường. Nghe đâu Chu Nhậm bị Húc Đồ Cung chặn đánh, chỉ chưa đầy mười hiệp đã bị hắn xả làm đôi.”
“Chỉ mới là phó tướng của Mộc Hoa Lê mà đã lợi hại như vậy, thế thì chủ tướng sẽ dũng mãnh tới nhường nào?” Cổ Mạnh Ninh trầm mặc đáp.
“Chu Nhậm sao?” Thừa Lân cả kinh. “Liệu có phải huynh đang nhắc tới Liêu Dương Đệ Nhất Kích Chu Nhậm?”
“Chính hắn,” Cổ Mạnh Ninh đáp.
Ô Di Đạo phủi tay. “Chu Nhậm tự xưng độc cô cầu bại xứ Liêu Dương, nhưng cả đời chưa bao giờ dám tỉ thí với danh tướng nào của triều đình, chứ chưa nói tới cao thủ võ lâm thiên hạ. Vậy thì thực sự trình độ của Nhậm là tới đâu?”
“Chắc chắn là hơn tiểu đệ rồi,” Cổ Mạnh Ninh nhún vai.
“Đệ nói cho huynh biết! Đệ mà lì lợm nghênh chiến, chắc chắn cũng phải đỡ được hơn mười chiêu của Đồ Cung!”
Ô Di Hà khoát tay cho tất cả dừng lại. “Không bàn chuyện đó nữa. Giờ đại quân của Húc Đồ Cung đã rút lui, chỉ còn hai tiểu trại đóng ở đây, không chịu rời đi. Trại của chúng quân số phải gấp bốn lần chúng ta, lại còn đã biết ta ở đâu, e rằng không ra tay trước tất tử. Giờ trong bốn người các đệ, có ai có ý kiến gì không?”
Ô Di Đạo ủng hộ nghênh chiến trực diện, Cổ Mạnh Ninh cho rằng nên rút lui lên Hồ Lý Cải. Ô Di Hà đều cho là hạ sách. Rốt cuộc không ai đưa ra được cao kiến.
Thừa Lân quan sát một hồi, rồi mới đặt chén rượu xuống, chắp tay cung kính, “Nếu các huynh không chê, đệ có một quyết sách.”