Kẻ Dẫn Hồn

Chương 7: Phù thủy luyện vong



Thế nào hả anh? Anh đã thấy những câu chuyện em kể anh nghe đã nhàm chán chưa nào.. Anh có còn muốn nghe thêm một câu chuyện nữa cũng có liên quan về làng ma của chúng ta không?

– Có mà.. anh đang vô cùng háo hức đây này, em kể tiếp cho anh nghe đi.

– Gớm thật!.. anh đúng thực cứ như cái thùng không đáy vậy. Bao năm rồi không chừa được thói ấy, cứ hễ nhắc những gì liên quan đến kinh dị ghê rợn hay ma mốc gì đó là sừng sực lên.

Thôi được rồi.. thế để em kể tiếp cho anh nghe một chuyện nữa, cho anh đỡ buồn ngủ. Có đả động nhắc đến bản “cọn”, và cũng vẫn liên quan về loài “Ma Gianh” đấy nhé.

Buổi sáng hôm ấy tại bản “Cọn” rất vui, chẳng khác chi như những ngày bản làng mở hội. Vì đã rất lâu rồi chưa có đoàn quan quân đi xứ cống nạp nào lại đông đảo đến thế. Kiệu quan đi trước, đồ đoàn cống lễ và đám quan binh hộ tống với đủ các loại gươm giáo tua tủa sáng loáng lũ lượt theo sau.

À.. thì ra đoàn nhân mã quan quân cống phẩm xứ Tàu, quan lớn Tuần Phủ Đặng Hà Long người trấn Bắc Bình bên mãi miệt đất Phong Châu. Quan Tuần Phủ thì đã có tiếng là đức độ nhất vùng, ấy vậy mà lại hiếm muộn đến mãi về già cũng chẳng có lấy mụn con.

Năm đó nhân một chuyến công xứ đất người đã có cơ duyên gặp được phù thuỷ cao tay ấn Tào Miêu Trạch, lại được thầy làm phép mở ra con đường quan lộ thênh thang cùng hóa giải cho việc gia đạo hiếm muộn. Quả nhiên cuối năm đó vợ quan liền hạ sinh ra được một cậu quý tử, lại được phù thuỷ định trước cho một cái tên Đặng Tử Hiến. Từ ấy quan lớn càng thêm tâm phục khẩu phục sát đất lão phù thuỷ, đêm ngày không khi nào thôi mong nhớ. Thời gian sau còn cho người sang tận xứ Tàu, tìm mời thầy về phủ cho bằng được.

* * *

Trước hết thì phải kể về thân thế phù thuỷ Tào Miêu Trạch cái đã, từ nhỏ lão đã là đứa trẻ thông minh lanh lợi hết mức, còn được sinh ra trong đại gia tộc quyền thế chuyên nghề phù thuỷ huyền thuật nổi danh bậc nhất trên đất Trung Hoa lúc bấy giờ. Khi mới lên bốn lên năm tuổi lại được gửi vào trong núi khổ tu, còn được Phổ Hoằng đại sư thu nhận làm môn đồ thứ sáu truyền dạy đạo pháp huyền thuật.

Quả nhiên Tào Miêu Trạch thiên tư trác tuyệt học một hiểu mười, chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi tầm sư học đạo mà đã lĩnh ngộ gần hết sở học từ thầy, về sau khả năng còn được truyền lại y bác trở thành đại trưởng môn đời thứ chín môn phái Mai Hoa Hỏa thuật. Về sau chẳng ngờ Tào Miêu Trạch lại là hạng người “Tâm Cơ Bất Chính”, luôn luôn ganh ghét đồng môn cùng có thói tham lam vô độ không biết điểm dừng. Phổ Hoằng đại sư năm đó lúc thu nhận môn đồ cũng đã nhìn rõ việc ấy, nhưng người vẫn chọn vì hai chữ “duyên nghiệp”, hy vọng theo năm tháng khổ tu có thể giúp cho vị tiểu đồ đệ này thay đổi tâm tính. Tuy nhiên mọi kỳ vọng ấy đã hoàn toàn thất bại, năm đó Phổ Hoằng đại sư buộc phải gạt nước mắt trục xuất đệ tử yêu dấu ra khỏi sư môn. Vì rằng Tào Miêu Trạch đã gây ra quá nhiều tai ương trên chốn giang hồ, chẳng những không có tâm hối cải hướng thiện mà ngày lại theo ngày mỗi lúc thêm lún sâu trầm luân vào ma đạo.

Sau ngày bị trục xuất khỏi sư môn, lúc nào Miêu Trạch cũng mang tâm trạng xấu hổ phẫn uất đến cùng cực. Từ ngày ấy hắn thề rằng sẽ trả thù tất cả, sẽ một đường tu luyện để trở thành đệ nhất cao thủ trong giới huyền thuật, bất chấp tất cả không chừa thủ đoạn hiểm độc nào, miễn sao có thể đạt được mục đích.

Đêm hôm đó hắn tỉnh dậy thắp lên một cây đèn bão lớn, loại đèn rất sáng chuyên dùng trong những ngày gia tộc có chuyện lớn trọng đại. Chả là đã gần một năm nay Tào Miêu Trạch có trở lại gia tộc, hắn quyết rằng lần này cho dù thế nào cũng phải thật nhẫn tâm một lần, phải dứt khoát xuống tay vào đúng thời khắc quan trọng đã chọn. Đây là một ngày vô cùng trọng đại đối với cuộc đời hắn, mọi chuyện diễn ra hôm nay liền đã được Miêu Trạch chuẩn bị tính toán thật kỹ càng từ trước rồi.

Ngay lúc này đây trên tay hắn đang cầm một cuộn da Dê đã chuyển màu đục xỉn, nhìn hoen ố cũ bẩn lắm, mà bên trên còn được viết vẽ chi chít các loại văn tự cổ loằng ngoằng chả khác chi như Giun Dế. Hóa ra đây chính là một cuốn cổ thư chuyên về huyền thuật tà pháp, loại bí thuật ma đạo Tào Miêu Trạch đêm ngày vẫn mang theo bên mình không khi nào dám rời xa nửa bước. Hắn đã đọc đi đọc lại cả trăm, cả vạn lần rồi mà vẫn chưa thấy chán. Vậy mà hôm nay hắn vẫn muốn xem thêm một lần nữa, cũng là để xác định lại độ chính xác thêm một lần. Vì rằng trong ấy có ghi chép lại cách luyện chế một bí thuật cổ xưa vô cùng mạnh mẽ thần diệu.

Trong lòng Miêu Trạch đã có quyết đoán, hắn xăm xăm xách theo cây đèn bão tiến thẳng về phía căn phòng bí mật. Tại đây ở ngay chính giữa căn phòng hiện đang có đặt một chiếc giường trạm trổ hình rồng vô cùng kỳ dị, giường này được làm từ loại gỗ thơm với tên gọi “Hắc Tử Kỳ Đàn” quanh năm hấp nạp âm khí rất nặng, cũng đã tuyệt tích từ lâu không còn thấy xuất hiện trên thế gian này nữa. Chiếc giường rồng này còn có thêm một tên gọi khác, chính là “Huyết Ấn Long Sàng Trấn Hồn Thi”. Để có được loại giường trấn hồn này không hề dễ dàng, phù thuỷ phải nhiều lần dùng tới tinh huyết của bản thân đem ra tế luyện, chỉ cần sai sót một chút thôi cũng coi như công cốc mọi nỗ lực cố gắng đều đổ sông đổ bể. Một khi thành công liền có thể sử dụng cho việc giam hãm, hay nuôi dưỡng các loại hồn phách thuộc hàng cực hung cực tà.

Từ nơi chiếc giường rồng vẫn đang không ngừng chờn vờn bốc lên những màn tử khí đặc quánh đen kịt, bên trên chiếc giường có một thai phụ đang bị trói nghiến. Qua từng hơi thở gấp gáp phập phồng cũng đủ biết rằng thai phụ này chắc đã sắp sinh, khả năng đã đến tháng thứ tám thứ chín thì phải.

Miêu Trạch vẫn đứng đó quan sát thiếu phụ ấy rất lâu, hắn cố hít thêm một hơi thật sâu nữa như để tăng thêm dũng khí tự cổ xuý cho lần hành động có thể nói là tàn độc, “thương thiên hại lý” nhất trần đời này. Hắn còn phải đợi cho thai phụ kia tỉnh lại, thai phụ đang nằm trên giường ấy chính là chị Dâu của hắn, còn bào thai chưa chào đời trong bụng kia cũng chính là giọt máu oan nghiệt của mối tình loạn luân ấy. Thì ra hắn và chị Dâu từ nhỏ đã là một đôi thanh mai trúc mã, họ yêu nhau rồi đã từng thề non hẹn biển sống chết cho đến trọn đời. Thế nhưng chuyện đời đâu như ước nguyện, lúc Miêu Trạch ở bên ngoài thì cô gái kia đã được mua về ép gả cho vị đại thiếu gia Miêu Vĩnh, là kẻ khù khờ ngốc nghếch đệ nhất thế gian.

Người chị Dâu còn đang say ngủ mê mệt, chắc do ngấm thuốc từ chiều. Mất một lúc khá lâu mới dần cựa mình tỉnh dậy, cảm nhận chân tay vướng víu tê cứng hết cả, mở mắt ra lại nhìn thấy Miêu Trạch thì vui mừng khôn xiết, khẽ cười nói:

– Chú Ba!.. À.. mà thiếp quên.. Sao đêm hôm khuya khoắt thế này mà chàng còn chưa đi ngủ?

Phù thuỷ Tào vẫn lặng thinh, hắn chăm chú nhìn nàng ta thêm một lúc nữa. Cuối cùng thì quay ngoắt lặng lẽ đi về cuối căn phòng, lại thắp thêm một vài cây đèn bão nữa. Lúc này toàn căn phòng đã sáng rực, cho dù có đánh rơi cây Kim nhỏ mấy cũng vẫn dễ dàng tìm được. Từ trong người Miêu Trạch vội rút ra một thứ, qua ánh đèn soi tỏ vật này lóe sáng lên một màu xanh biếc lạnh toát cả da đầu, thì ra là một con dao nhỏ sắc chọn được trạm trổ lên nó rất nhiều thứ hoa văn cùng cổ tự rất lạ.

Thai phụ này vẫn đang trong cơn say ngủ, chưa ý thức được mối họa sát thân đã sắp sửa đổ ập xuống đầu. Đến khi giật mình bừng tỉnh thì đã thấy Miêu Trạch đứng sững trước người.

Ối trời!.. làm sao mà mình lại bị trói cứng thế này cơ chứ?

Thoáng thấy có chút bất an, thai phụ ngơ ngác liền mở miệng hỏi lại:

– Chàng.. Chàng muốn làm gì thiếp thế này?

Bấy giờ Miêu Trạch mới chậm rãi nói:

– Ta.. Ta cũng không muốn làm vậy đâu, nhưng đã tới bước này rồi cũng không thể không làm được. Thôi thì mẹ con nàng hãy sớm thành toàn cho tâm nguyện cả đời của ta.. cả đời này ta sẽ luôn tưởng nhớ đến các người.

Những lời nói ấy còn chưa kịp khô hết trên môi thì bỗng lưỡi dao sắc nhọn sáng loáng vừa được rút ra khi nãy đã ngay lập tức nhẫn tâm hạ xuống.. Thai phụ nọ chỉ kịp cảm nhận một đường lia dài mát lạnh, máu huyết chan hòa đã tuôn chảy thành dòng, cơ thể cũng thoáng chốc nhẹ bẫng. Còn chưa kịp hiểu hết chuyện gì thì nàng ta đã thấy Miêu Trạch cúi người lúi húi, đôi bàn tay hắn nhuộm máu đang không ngừng mò mẫm khua khoắng phần bụng dưới của nàng. Sau đấy liền từ từ cẩn thận nhấc lên một vật, vật ấy khiến cho thai phụ chết điếng. Hóa ra là một hài tử bé bỏng chưa rời lòng mẹ, nó vừa bị Miêu Trạch tàn nhẫn móc ra, sợi nhau nối liền cơ thể hai mẹ con hãy còn lòng thòng nhỏ máu.

Thai phụ từ đầu tới giờ vẫn luôn tỉnh táo, nàng mở to đôi mắt chứng kiến tất cả. Nàng đã thực sự kinh hoảng hết mức, chỉ kịp hét lên một tiếng yếu ớt nữa, toàn thân giật giật liên hồi mấy cái rồi ngoẹo đầu sang một bên bất động.

Cho tới lúc này thì phù thuỷ họ Tào cũng chỉ lãnh đạm nhìn lại người thai phụ ấy thêm lần nữa, hắn bỗng bật lên tràng cười man dại, cười thật sảng khoái sung sướng đến mức như sắp phát rồ. Vậy là mọi toan tính đã có thể thành công đến một nửa, thứ hắn đang cầm trên tay chính là một “quái thai”. Vừa mất đi sợi dây ràng buộc với thai phụ nó đã liền mở trừng đôi mắt ma mị, lại ngoác cái miệng rộng lệch sang một bên cười lên khành khạch đầy quái đản. Trong miệng quái thai răng đã mọc đầy đủ, chiếc nào chiếc nấy nhọn hoắt chả khác chi răng quỷ. Để có được “quái thai” này, trong nhiều tháng ròng phù thuỷ Tào Miêu Trạch đã phải động chân động tay vô cùng cực khổ. Thử hỏi làm sao hắn lại không sung sướng cơ chứ?

Việc tiếp theo phù thuỷ cần làm ngay bây giờ, chính là đem “quái thai” ấy vào một căn phòng tối đặc biệt, rồi từng bước luyện tế tiến cấp nó trở thành một loại bùa “Quái Vong Ma”, là một trong những loại “bùa hài nhi”, loại vũ khí phòng vệ vô hình đắc dụng nhất trong giới huyền thuật. Đầu tiên phù thuỷ sẽ bôi trát lên người “quái thai” loại bùn đất đen sì sì nhão nhoét, được gia giảm phối trộn từ tro than của nhiều loại bùa chú nhằm mục đích giam hãm linh hồn hài nhi ấy. Tiếp đến “quái thai” liền được đặt vào một khay ngọc đổ đầy dầu thơm, đưa lên giàn lửa nóng nướng khô từ từ trong nhiều ngày liên tiếp. Trong những ngày ấy yêu cầu thực hiện tế luyện cực kỳ khắt khe, phù thuỷ phải liên tục rút ra đại lượng máu huyết nhỏ lên thân thể “quái thai”, quá trình ấy tuyệt không được để cho “quái thai” chết sớm hơn so với trù liệu. Quả nhiên đúng vào thời khắc then chốt lúc chuyển giao kết thúc vào giờ “Hợi” của đêm thứ mười sáu, phù thuỷ Tào Miêu Trạch đã thành công luyện ra được quái vong “bùa hài nhi” cực kỳ mạnh mẽ.

* * *

Hóa ra toàn bộ quá trình giết người cướp lấy thai nhi cực kỳ man rợ này đều nằm trong kế hoạch định sẵn của phù thuỷ Tào Miêu Trạch. Khi bước chân ra chốn giang hồ hiểm ác bắt buộc con người ta phải tàn nhẫn, chỉ có thể tàn độc hơn kẻ khác mới sinh tồn được trong giới huyền thuật ấy. Những kẻ sở hữu được cho mình một con “Quái Vong Ma” mạnh mẽ, hay còn được gọi là “bùa hài nhi”, loại bùa cực mạnh vô cùng bá đạo. Thế nhưng chỉ có tác dụng phòng vệ chứ không hề mang ra sai sử giết chóc giống như âm binh được. Hài nhi khi vừa được móc ra từ bụng mẹ còn quá non nớt nên chưa biết thứ gì, chỉ vì có cùng huyết thống máu mủ nên nó luôn theo sát quấn quýt bên cạnh chủ nhân. Một khi chủ nhân bị kẻ địch tấn công, bị dồn vào hiểm cảnh nó liền lập tức bạo phát ra nguồn sức mạnh khủng khiếp để bảo vệ.

Kể từ ngày Tào Miêu Trạch luyện thành “bùa hài nhi”, khi hành tẩu trên chốn giang hồ luôn trang bị bên mình một tấm khiên chắn vô hình mạnh mẽ, chính thế nên hắn đã chẳng còn coi ai ra gì nữa rồi. Mà đúng là phù thuỷ Miêu Trạch mạnh thật, năm đó khi đắc tội với hầu hết các môn các phái, lại bị quần hùng dốc ra toàn lực truy sát nhưng cuối cùng cũng không làm gì được hắn. Về sau lại dần hình thành thanh thế, thu hút được nhiều bè phái vây cánh theo về quy tụ dưới trướng trở thành thế lực lớn mạnh nhất cát cứ một vùng.

Thế nhưng người đời thường vẫn có câu: “Thiên ngoại hữu thiên, nhân ngoại hữu nhân”. Mặc dù Tào Miêu Trạch đã là kẻ xuất chúng đương thời, vậy mà vẫn thua chỉ trong một trận. Nhục nhã hơn nữa là hắn lại thua bởi một gã thiếu niên miệng còn hôi sữa, vắt mũi chưa sạch, thế mới đau cơ chứ. Chẳng ngờ tên này tuy còn nhỏ tuổi mà căn số huyễn thuật đã thực sự hùng hậu đến thế, cũng không rõ là gã sử ra thuật gì đã khiến Miêu Trạch suýt mất đi cái mạng, buộc phải dùng tới “huyết độn thuật” mới may mắn chạy thoát. Tuy là thoát được nhưng về sau cơ thể liền mất dần sinh khí, lão hóa héo mòn dần trở thành một lão già, niên thọ cũng vì thế chỉ còn lại trong khoảng mười mấy năm ngắn ngủi.

Sau lần tranh phong đầy nảy lửa ấy Tào Miêu Trạch đã phiền muộn mãi, nhưng không phải vì thế mà hắn mất đi hy vọng. Dựa vào cuốn bí thuật cổ tịch đã trộm đi của sư phụ lúc rời núi, hắn liền có được pháp quyết tu luyện một môn huyễn thuật thất truyền cực kỳ tà dị bá đạo “Trường Xuân Hoán Huyết Chuyển Luân Công”. Một khi luyện được thuật này có thể dễ dàng “hoán thai chuyển cốt”, tuỳ tiện “đoạt xá” huỷ đi thần trí rồi nghiễm nhiên cướp lấy thân xác những kẻ xấu số. Tuy nhiên việc làm này vô cùng tổn hại âm đức, đi ngược với thiên ý nên rất dễ bị trời phạt đánh xuống thiên hình lôi kiếp.

Phù thuỷ năm đó đánh ra một quẻ bói tiên thiên, dám cược vận mệnh của bản thân trong nước cờ sinh tử. Quả nhiên vợ chồng quan tuần phủ Đặng Hà Long chính là những nạn nhân xấu số, là Dê béo mà phù thuỷ Tào Miêu Trạch đã nhắm tới.

* * *

Sau ngày về phủ phù thuỷ Miêu Trạch liền một bước lên mây, địa vị liền cao ngất trở thành vị quân sư tâm phúc nhất nhì trung quân, mọi việc lớn nhỏ đều nhất nhất được quan lớn tín nhiệm giao phó. Có thể nói lúc này phù thuỷ họ Tào đã chả khác chi “chuột sa chĩnh gạo”, quyền uy lẫm lẫm dưới một người mà trên cả vạn người. Nhiều năm sau đấy còn được quan lớn giao cho việc kèm cặp dạy dỗ cậu quý tử Đặng Tử Hiến, mong một ngày không xa cậu chủ thành tài làm dạng danh dòng tộc.

Thế rồi thời gian thấm thoát thoi đưa, chẳng ngờ trong một đêm giông tố bão bùng cậu chủ nhỏ Đặng Tử Hiến lúc này đã lên chín lên mười. Đêm nay đột nhiên phát cơn bạo bệnh rồi cứ thế lặng lẽ nhắm mắt xuôi tay qua miền cực lạc, đã khiến vợ chồng quan lớn tuần phủ như chết lặng. Nỗi đau lớn lao ấy chả khác chi chiếc búa tạ đập thẳng xuống đầu vợ chồng quan, nhất lại là quan bà, tình yêu thương mẫu tử thiêng liêng dành cho con sâu nặng đã khiến bà trở bệnh mà ốm đến liệt giường suốt mấy tháng trường.

Đến cuối năm ấy quan tuần phủ Đặng Hà Long có tráp triệu hồi vời kinh, theo hạn mười năm một lần ngài lại được nhà vua sai sứ hộ tống đoàn lễ vật triều cống xứ Tàu. Lệnh trên khó cưỡng, quan đi rồi sợ rằng ở nhà quan bà vì quá đau buồn mà chẳng may nghĩ quẩn. Bởi thế trong chuyến công du lần này quan dứt khoát dẫn theo phu nhân đi cùng, mặc cho quan bà đã mấy phen phản đối kịch liệt.

Vào gần trưa hôm ấy đoàn quan binh lúc đi ngang qua bản “Cọn” ngay chỗ gốc Đa cổ, đột nhiên từ trong kiệu lớn quan bà vén rèm rồi nhảy vụt xuống đường, trước sự ngỡ ngàng của biết bao con mắt. Quan bà không giữ nổi bình tĩnh nữa, nhằm một cậu bé bên đường lao tới ôm sầm lấy, cứ vậy lu loa tru tréo khóc lóc ầm lên, cũng không thiết giữ thể diện cho chồng nữa. Miệng thì không ngừng kêu gọi lớn:

– Ối giời đất ơi!.. Hiến con ơi.. Có đúng là con đấy không? Mẹ thương.. sao con chạy tới được đến đây để mẹ nhớ con quá..

Thế nhưng mặc cho quan bà có gọi thế nào thì cậu nhóc khờ vẫn cứ trơ trơ ra như gỗ đá. Cho tới lúc này thì quan lớn cũng đã chú ý đến cậu bé nọ, bản thân quan cũng tự giật mình kinh hãi. Chỉ biết lắc đầu ái ngại mà nghĩ thầm:

– Quái lạ thật!.. Sao trên đời này lại có người giống Tử Hiến của mình đến thế? Giống y như đúc thế này, bảo sao phu nhân lại chả kích động tới vậy.

Ngay lúc ấy đứng cách đó không xa, phù thuỷ Tào Miêu Trạch nội tâm cũng đang đấu tranh hết sức kịch liệt. Hắn vô cùng kinh ngạc, liên tục suy tính đặt ra những tình huống trong đầu:

– Giỏi!.. Giỏi thật.. Thần Hồn này quả nhiên mạnh mẽ.. Mặc dù đã bị ta phong ấn kỹ lưỡng là vậy mà vẫn có thể chạy thoát được tới chỗ này, còn có thể chiếm lĩnh một thân xác làm chỗ trú ngụ. Thôi được, đợi lão phu thu phục rồi luyện chế nhà ngươi thành ma đầu, xem sau này ngươi còn có thể bỏ chạy được nữa hay không.

* * *

Thì ra cái chết của tiểu thiếu gia Đặng Tử Hiến hoàn toàn có liên quan tới lão phù thuỷ họ Tào, lão đã phải nhẫn nhịn đợi chờ suốt mười năm dòng chỉ để trồng ra “Thần Noãn Mộc Tuỷ”. “Thần Noãn Mộc Tủy” thực chất chỉ là tên gọi của loại bí thuật “đoạt xá” trong giới huyền thuật, được sử dụng để chiếm lấy thân thể kẻ khác. Cũng bởi “đoạt xá” là nghịch thiên, do vậy kẻ luyện thuật phải làm từ từ để từng bước hoàn thành đại sự. Tuy nhiên vào thời khắc then chốt chẳng thể nào ngờ được “thần hồn” tiểu thiếu chủ Đặng Tử Hiến đột nhiên mở ra linh thức, chống cự vô cùng mãnh liệt. Thần thức ấy dứt khoát quyết đoán tự rời bỏ huỷ đi thân xác chứ không chịu để lại cho phù thuỷ chiếm đoạt, sau đấy lại theo phương thức kỳ bí nào đó mà phân tách ra vô số phần rồi trốn chạy. Tới địa phương này còn tự tìm được một thân xác tương đồng mà dung nạp vào.

Tới đây thì lão phù thuỷ chỉ âm thầm cười mỉm một cái vô cùng thâm hiểm, trong lòng lúc này đã có bao toan tính mới. Lão nhanh chân tiến lại chỗ quan lớn, vội thốt lời:

– Dạ.. Bẩm chúa công!.. Lão đạo đây xin chúc mừng chúa công.. Nhờ hồng phúc tổ tiên mà vong linh cậu chủ đã hoàn dương sống lại, hiện đang ngụ trong thân xác tên ăn mày này. Linh hồn thì đã có thể quay lại nhưng thần trí hiện vẫn đang bị phong bế nên không thể nhớ gì và cũng không nhận ra bất kỳ ai. Tuy nhiên vấn đề này cũng không đáng ngại lắm, chỉ cần lão phu ra tay tất sẽ thành công trả về cho chúa công một thiếu chủ bằng xương bằng thịt hoàn toàn nguyên vẹn.

Vừa nghe thầy phù thuỷ nói có thể mang được cậu quý tử con mình trở về từ cõi chết, thì ngay lập tức quan tuần phủ đã không còn giữ nổi bình tĩnh nữa, quan lớn sung sướng hét ầm lên:

– Ối giời ạ.. thật vậy sao? Nếu quả thực là vậy thì còn gì tốt bằng.. Thật đúng là ông trời có mắt, vợ chồng ta cả đời xin được cung phụng cảm tạ quân sư ngài giống như thần phật vậy.

– Cầu.. cầu xin quân sư gia ân.. xin ngài làm phúc thi pháp một lần, hãy mang Tử Hiến về đây cho vợ chồng ta..

– Hầy à.. chuyện này tất nhiên là chức phận của bần đạo, cho dù thế nào thì lão đây cũng sẽ lo liệu giúp cho chúa công.

Chỉ là có điều..

– Sao.. sao vậy quân sư? Có điều chi quân sư xin cứ nói thẳng, quân sư ngài đâu phải chỗ người ngoài.

– Bẩm chúa công!.. Để tiểu chủ có thể hoàn toàn khai mở linh trí, điều cần thiết nhất lúc này chính là được sưởi ấm bằng tình thương người mẹ. Và tuyệt đối trong bẩy bẩy bốn chín ngày tới, không nên để tiểu chủ di chuyển qua những địa phương khác. Thời gian này lão phu cũng xin nguyện lưu lại lập đàn hộ pháp cho tiểu chủ, chúa công ngài cứ yên tâm gánh vác trọng trách công vụ mà tiếp tục lên đường.

Quả nhiên quan tuần phủ khi nghe được những lời trần tình ấy từ tay phù thuỷ tâm phúc, ngài lập tức tin ngay mà không ngờ được rằng bản thân mình đã giao trứng cho ác. Việc công vụ trên người không thể chậm trễ, quan tuần phủ liền tức tốc đốc thúc quân binh vội vã lên đường, phó thác lại vợ con cùng cấp cho phù thuỷ một món tiền rất vàng lớn để lão ta xử trí mọi chuyện giúp mình.

Ngay sau ngày đoàn quan quân rời khỏi, lập tức phù thuỷ họ Tào liền cho dựng lên một đàn tràng cao lớn bên cạnh gốc Đa, xung quanh bên ngoài còn được cho người che chắn bảo vệ rất kỹ, cấm tuyệt người làng không ai được bén mảng tới gần. Cũng trong đêm đó lão cho người âm thầm trở về cố quốc, ngấm ngầm thông đồng với toán cướp Lâu Lan khét tiếng đón đường mai phục giết chết quan tuần phủ, cướp lấy toàn bộ tài vật triều cống. Đồng thời trên đất Việt lão cũng ra tay sát hại luôn quan bà một cách dã man, dùng luôn phần máu huyết đó tế luyện trên thân thể gã ăn mày tội nghiệp. Quá trình huyết luyện này được lão phù thuỷ dày công thực hiện liên tiếp trong nhiều ngày liền. Phù thuỷ dựa vào cuốn bí pháp cổ tịch, mong rằng theo phương pháp ma đạo có thể thuận lợi đại thành “đoạt xá”. Đầu tiên lão xuất thần rồi nhanh chóng nhập vào thân thể của tên ăn mày, lại ỉ vào nguyên thần cường hãn của bản thân cứ thế cắn nuốt thần hồn vật chủ. Đợi đến lúc thần hồn ấy yếu nhược sẽ lập tức đánh bật ra và hoàn toàn chiếm lấy thân xác ấy. Sau cùng lại sử dụng bí pháp đặc biệt luyện chế phần hồn phách suy nhược nọ thành một ma đầu mạnh mẽ, về sau có thể sai sử được rất nhiều việc lớn. Thế nhưng mọi chuyện tưởng chừng đã sắp thành công mỹ mãn thì đột nhiên phát sinh biến cố, hồn phách của quan bà vì tình thương yêu thiêng liêng mẫu tử đã khai mở linh thức tự bộc phát ra nguồn sức mạnh vô cùng khủng khiếp, một chiêu phản phệ trực tiếp tiêu diệt nguyên thần phù thuỷ tiễn luôn lão ta về với đất mẹ.

Rồi không rõ là thời gian đã trôi qua trong bao lâu, chỉ biết rằng vài ngày sau đấy dân làng bỗng ngửi thấy mùi vị thối khắm đến lượm giọng bốc ra từ trong tế đàn ấy. Một hồi họ hò nhau đánh liều phá cửa mà vào, giữa cái cảnh tranh tối tranh sáng bên trong tế đàn, dân làng với những kẻ có mặt tại hiện trường đã phải một phen sợ hãi đến kinh hồn bạt vía. Vương vãi khắp sàn tế đàn là vô số những phần thân thể máu me be bét bị cắt rời ra thành nhiều mảnh, dựng cuối căn phòng là chiếc giường gỗ “Hắc Tử Kỳ Đàn”, nằm ngay ngắn trên đó lại là xác một lão già râu tóc bạc trắng, khuôn mặt bấy giờ cũng đã biến dạng gần hết. Từ sâu trong hai hốc mắt của cái xác ấy, giòi bọ đang không ngừng bò ra bò vào lúc nhúc nhìn mà phát kinh. Sau đấy lại có người yếu bóng vía bỗng hét lên kinh hoảng rồi hùa nhau mà vùng bỏ chạy, bởi từ nơi vũng bầy nhầy thối khắm khi nẫy tự lúc nào lồm cồm bò dậy một thân ảnh gầy gò xanh lét, kẻ này không ai khác lại chính là thằng ăn mày khờ khạo ngày ngày vẫn ngụ tại gốc Đa.

Sau ngày hôm ấy thằng ăn mày chả ai buồn bắt vè ngó ngàng đến nó nữa, cứ hễ thấy nó lại gần là mọi người ai nấy đều cố tránh né lánh đi cho xa, họ sợ rằng tai bay vạ gió bao điều đen đủi từ nó sẽ vạ sang. Thằng nhóc tuy khờ khạo là vậy nhưng hình như nó cũng dần ý thức linh tính được rằng, người làng đã chán ghét mà xa lánh không giống như hồi nó mới về làng nữa. Dần dà thằng ăn mày cũng dần lánh xa khu chợ, nó mò ra phía bờ đầm rồi lầm lũi vạ vật một mình mò cua bắt ốc ở luôn ngoài đó.

* * *

Thời gian cứ vậy dần trôi, thằng ăn mày khờ khạo ngày nào giờ cũng trưởng thành cao to lực lưỡng. Chẳng những thế, tự khi nào nó còn có thể khai mở tâm thức, dần khôn ngoan hiểu biết nhiều chuyện, lại nhớ ra rằng mình chính là Đặng Tử Hiến. Thế rồi những sự việc ấy xảy đến đã lâu khiến người làng cũng dần quên lãng, họ không còn kỳ thị xa lánh Hiến nữa, có kẻ tốt bụng còn hò nhau vào dựng lên cho nó một túp lều ngay chỗ bờ đầm.

Thực cũng ngẫu nhiên, cuối năm ấy tự dưng ở đâu mò về làng có thêm một con dở. Nó quẩn quanh lang thang suốt ngày đi khắp từ đầu chợ cho tới cuối chợ, đêm đến lại mò ra mé bờ đầm rồi ở lại bám dệt lấy Hiến, lâu dần thì cũng kết cặp kết đôi xoắn xuýt lấy nhau không rời. Duy chỉ có một điều vô cùng kỳ lạ, mặc dù bọn chúng đã ở với nhau lâu thế nhưng vẫn không có lấy một mụn con. Phải mãi cho đến lúc cuối đời, lúc lão Hiến già đi sắp lìa trần trút xuống hơi thở cuối cùng, lão mới nói ra toàn bộ chân tướng sự thật.

Hóa ra cả đời lão Hiến đã phải chịu đựng biết bao điều cơ cực, tưởng rằng sinh ra trong một gia đình quyền quý thì ắt sẽ được giàu sang phú quý, nào ngờ lại bị kẻ gian thi kế hãm hại. Thì ra sau cái ngày phù thuỷ Miêu Trạch thi kế bất thành còn bị phản phệ vong quật mất đi mạng sống, thần hồn của Hiến đã quá yếu nhược tuỳ thời lúc nào cũng có thể tiêu tán.

Còn nói về quan bà mẹ Hiến, từ lúc bị sát hại dã man hồn phách vẫn phẫn uất mà không khi nào nỡ rời xa con trai nửa bước. Sau đấy lại tìm mọi cách lẩn tránh luân hồi thiên đạo, mấy lần suýt bị đánh cho hình thần câu diệt. Giờ đây lại biết được con trai sắp lâm vào tuyệt lộ, thần hồn người làm mẹ đã không mảy may suy tính, lập tức nhập thể lấy ra toàn bộ đại lượng sức mạnh còn lại bao bọc ủ ấm nuôi dưỡng cho linh hồn của Hiến.

Sau đấy lại trải qua một khoảng thời gian dài nữa tiếp, biết rằng vào một ngày nọ Hiến đã tỉnh lại, thần trí cũng dần tỉnh táo hoàn toàn rồi nhớ ra tất cả. Chỉ đáng tiếc một điều, hồn phách quan bà mẹ của Hiến sau khi rời thể đã vô cùng suy yếu, liền từ đó vĩnh viễn mất đi thần trí, về sau biến thành một loài ma vô cùng đáng sợ, tên gọi “Ma Gianh”.

Tuy thần trí không còn, không thể nhớ ra mọi chuyện. Nhưng do nhiều năm liền nung nấu nuôi dưỡng lòng căm hận kẻ thù vô hạn đã khiến loài ma này trở nên ích kỷ mà thù dai lắm. Một khi bị trêu chọc hay có người vô ý xâm phạm tới, nó liền bám theo ngầm trả thù đến cùng, bất chấp mọi thủ đoạn khiến những nạn nhân mà chúng đeo đuổi chịu thua thiệt khổ sở đủ đường, thậm chí có khi còn nguy đến cả tính mạng.

Trở lại với câu chuyện cũ, năm mà con dở về làng rồi bám dệt lấy Hiến không rời nửa bước. Cuối cùng thì hai người bọn họ cũng kết đôi, hàng ngày mưu sinh kiếm sống cùng sưởi ấm lòng nhau tới mãi cuối đời. Cũng trong năm đó con dở vợ Hiến bỗng có tin vui, con dở vui một mà Hiến thì đã vui cho tới đến mười, biết bao dự định tốt đẹp đã được hắn vạch ra từ trước.

Thế nhưng âu cũng bởi cái nghiệp tiền định, rằng cả đời này Hiến phải chịu khổ rồi tuyệt tự tuyệt tôn. Vào một buổi chiều con dở vợ nhặt của Hiến đang lang thang thơ thẩn hái hoa bắt bướm mãi phía bên kia bờ đầm, bỗng ngay lúc ấy trời đổ cơn giông tố lớn lắm, gió lốc cùng mây đen ở đâu vần vũ kéo về nhanh đến không tưởng. Trời đất cứ thế đảo đổi nhanh đến độ không tưởng, người thường còn phải sợ huống hồ dở nào chịu nổi. Cứ vậy con dở sợ đến tái mặt, nó cuống cuồng vắt chân lên cổ mà chạy. Tới lúc chui vào được túp lều rách nát của hai vợ chồng bên bờ đầm, nhìn lại nó lúc này đã chả khác chi một con quỷ. Đầu tóc thì bù xù ướt bết rũ rượi như mớ rẻ nát, từ chân đến đầu bùn đất bẩn thỉu vương vãi lấm lem, tệ hại hơn nữa là từ nơi khe háng của ả đang không ngừng chan hòa chảy xuống hai dòng máu đỏ. Sau ngày hôm ấy con dở ốm liệt giường và cũng mất đi cái thai thứ nhất.

Bốn tháng sau con dở lại tiếp tục mang thai, lần này nó sinh nở thuận lợi được mẹ tròn con vuông. Thế nhưng đứa trẻ này khi mới vừa lọt lòng mẹ lại cực kỳ yếu ớt, miệng nó tắc nghẽn không sao khóc nấc lên lời, và cũng chỉ ngay trong hôm đó liền lại theo hầu ông bà tổ tiên về miền cực lạc. Biết bao sự việc lạ lùng cứ vậy xảy đến với vợ chồng Hiến, con dở cứ chửa rồi đẻ, đẻ rồi lại chết, cứ vậy em lặp đi lặp lại đến cả chục lần khiến thân xác nó ngày một héo mòn. Cho tới một đêm đông giá lạnh, sức nó không còn chịu đựng được thêm nữa liền cũng lăn ra mà chết. Từ khi ấy Hiến mất vợ, lại chả có lấy mụn con, cuộc sống của hắn theo đó mà lầm lì cô độc.

Thì ra con dở trong cái buổi chiều giông gió ngày ấy, lúc chạy loạn đã vô tình dẫm đạp lên tổ “Ma Gianh”, khiến đàn con nó thương nặng. Từ đó vợ chồng Hiến thành ra gây thù chuốc oán với chúng, bị loài này âm thầm bám theo trả thù liên tiếp, đến nỗi mất cả mạng sống.

Cho đến một ngày có vị đạo sĩ qua làng, đúng lúc dừng chân hóng mát nơi bờ đầm nhìn vào khu lều vịt của Hiến liền lắc đầu ngán ngẩm mà than rằng:

– Nghiệp quả!.. Thực đúng là nghiệp quả..


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.