Edit: Thụy
Beta: Fio
–
Tạ Xuân Phi còn nhớ lần đầu tiên gặp gỡ Tần Túng là vào một buổi xuân ở cốc* Lạc Hà, hoa dại nở rộ dưới vách đá, gió thổi vi vu, biển hoa bồng bềnh tỏa hương thơm ngát như mật.
(*Cốc: Lũng, suối, hai bên núi giữa có một lối nước chảy gọi là “cốc”. Hang, núi có chỗ thủng hỏm vào gọi là “cốc”.)
Thuở ấy, Tần Túng cao hơn Tạ Xuân Phi một cái đầu, đôi mắt tỏa sáng còn hơn sao mai.
Hắn nói: “Ca ca, đệ muốn cưới huynh.”
Hắn còn nói: “Đời này của đệ quyết không phụ huynh.”
Tạ Xuân Phi bưng chén sứ đã vỡ tan tành trong tay, nước thuốc đen tung toé bắn lên vạt áo trắng như tuyết của y, nhuộm bẩn sắc trắng không vương một hạt bụi.
Thiếu niên mười sáu tuổi gượng cười, đôi gò má xanh xao vì bệnh liên miên theo năm tháng, cánh môi thiếu sắc khẽ cong lên: “Tần Túng, đệ còn nhỏ…”
“Đệ không nhỏ mà.” Tần Túng mười tuổi mang theo sự chín chắn không hợp tuổi, nhìn Tạ Xuân Phi một cách kiên định: “Ca ca đẹp như vậy, lại là song nhi nữa, vì sao đệ không thể cưới ca ca?”
” Chuyện cưới xin phải theo lệnh cha mẹ, còn cả lời của bà mai… Quan trọng nhất là người đi cùng đệ đến hết cuộc đời phải là người mà đệ thật lòng yêu thích…”
Trông thấy ánh mắt hoang mang của Tần Túng, Tạ Xuân Phi không nén nổi nụ cười.
Tần Túng hãy còn quá nhỏ, y nói những thứ tình yêu này với hắn làm gì cơ chứ?
Chẳng bao lâu nữa Tần Túng sẽ quên mất chuyện này, y ở đây nghiêm túc so đo với một đứa trẻ thì có ích gì.
Trông thấy Tần Túng rưng rưng nước mắt, Tạ Xuân Phi khe khẽ thở dài, lấy khăn tay ra lau mặt cho hắn, dỗ dành: “Được được được, chờ khi đệ nhược quán* đến cầu hôn ta, ta sẽ theo đệ về nhà.”
(*”nhược quán chi niên”(弱冠之年) để chỉ chàng trai mới chớm tuổi 20 khi thân thể còn chưa hoàn toàn phát dục.)
Y hứa với Tần Túng như vậy bởi lẽ y biết mình sẽ không kết hôn với người khác. Cơ thể sinh ra vốn đã yếu ớt, lại bị bệnh tật quấn thân, Tạ Xuân Phi làm bạn với thuốc thang đắng nghét từ nhỏ,tấm thân tàn gần đất xa trời này sao có thể liên lụy đến người khác?
Tạ Xuân Phi cũng được sinh ra bởi song nhi, cha ruột của y bị kẻ gian ám hại khi còn mang y trong bụng, trúng độc dẫn đến ảnh hưởng tới thai nhi, hơn nữa lại chảy máu quá nhiều lúc lâm bồn, ròng rã hai ngày mới sinh được con ra, thế nên Tạ Xuân Phi vừa ra đời đã mang theo mầm bệnh để rồi cả đời phải chịu sự tra tấn của thứ bệnh này.
May mà cha của Tạ Xuân Phi quen biết thần y Hạ Minh, ông lập tức dẫn y đến cốc Lạc Hà tìm Hạ Minh chữa bệnh cho y. Nhưng dù sao cũng là gốc bệnh từ lúc còn là bào thai, Hạ Minh chẳng có cách nào chữa khỏi hoàn toàn, chỉ đành gắn mạng của y liền với thuốc, càng thêm dặn dò Tạ Xuân Phi không thể vui buồn quá độ, chú ý nghỉ ngơi thì có lẽ còn qua được ba mươi bốn mươi xuân, song nếu mắc thêm căn bệnh khác nữa, vậy có thể sẽ mất sớm, thậm chí còn không qua nổi nhược quán.
Cả hai người cha của Tạ Xuân Phi đều là quan viên đương triều, do đứng bên phe đối lập với thừa tướng nhiều năm nên cuối cùng rước họa sát thân. Năm Tạ Xuân Phi tám tuổi, y được cha mình đưa đến cốc Lạc Hà cậy nhờ Hạ Minh. Chưa đầy nửa tháng sau, Tạ phủ đã truyền đến tin dữ.
Tạ phủ của Hộ Bộ thượng thư đương triều Tạ An Chi xảy ra hỏa hoạn ngoài ý muốn, Tạ An Chi và phu nhân của hắn, thêm cả gần trăm gia nô trên dưới đều bỏ mạng trong lửa đỏ.
Tạ Xuân Phi còn nhớ rõ cha đã từng sờ lên mặt y nhìn thật sâu, cuối cùng chỉ đặt một nụ hôn lên trán y.
Cha nói: “Chăm sóc bản thân cho tốt… Dù có xảy ra bất cứ chuyện gì cũng phải cố mà sống sót.”
Rồi cứ thế, Tạ Xuân Phi đi theo Hạ Minh hết năm này qua năm nọ ở cốc Lạc Hà. Nếu không phải năm mười sáu tuổi ấy có một thiếu niên tình cờ xông vào cuộc sống của y thì có lẽ y sẽ sống trong cốc Lạc Hà một cách tẻ nhạt và cô độc đến cuối đời.
Vị trí của cốc Lạc Hà vô cùng đặc thù, nằm giữa hai ngọn núi Bích Khê và Phong Lăng, người thường khó mà phát hiện lối vào cốc, là chốn thế ngoại đào nguyên* an tĩnh đến nỗi có hơi tịch mịch.
(*Thế ngoại đào nguyên: Đời Tần có một người đánh cá chèo thuyền ngược theo một dòng suối đi mãi tới một khu rừng trồng toàn đào, thấy nơi đó có một cảnh sống tuyệt đẹp như nơi tiên ở. Người sau dùng chữ “nguồn đào” hay “động đào” để chỉ cảnh tiên.)
Tần Túng lạc đường trên núi Bích Khê, hắn bị tách khỏi gia nô đi cùng, cứ cắm đầu đi đại, thế là đánh bậy đánh bạ lạc luôn vào cốc Lạc Hà.
Tạ Xuân Phi đứng giữa núi hoa nở rộ, đẹp tựa ánh trăng đang rung động.
Tần Túng nghĩ, hắn muốn cưới người này về nhà.
Tạ Xuân Phi nhặt hắn về, Tần Túng ở lại cốc mấy ngày rồi mới theo Tạ Xuân Phi rời đi, Tạ Xuân Phi đưa hắn đến thẳng cửa Tần phủ, vừa định quay đi đã bị Tần Túng túm lấy tay áo, bảo y ngồi xổm xuống cùng mình.
“Sao vậy?”
“Xuân Phi ca ca… Sau này đệ còn có thể đến tìm huynh không?”
Tạ Xuân Phi thoáng sửng sốt, rồi mỉm cười đáp: “Được chứ, nhưng đệ không được dẫn người khác đến cốc Lạc Hà, cũng không được nói cho người khác biết, đây là bí mật của chúng ta thôi. Nếu đệ không giữ lời thì ca ca sẽ không bao giờ gặp đệ nữa đâu.”
Hạ Minh ưa yên tĩnh, không thích bị người ngoài quấy rầy, nên bấy giờ mới ẩn cư nơi cốc Lạc Hà, Tạ Xuân Phi không muốn có người tìm chữa bệnh đến tận cửa, vậy sẽ càng phiền phức hơn.
“Vâng ạ.”
Tần Túng chớp mắt, xong thì hôn “Chụt” một cái lên má Tạ Xuân Phi: “Ca ca, đây là dấu ấn đệ giữ lại cho huynh, huynh là của đệ, huynh cũng phải nhớ những gì huynh đã hứa, phải gả cho đệ nha.”
Tạ Xuân Phi ho nhẹ hai cái, khuôn mặt tái nhợt lặng lẽ hiện lên hai vệt ửng hồng..
Y vừa ngước lên đã thấy bóng dáng của Tần Túng khuất sau cánh cổng sơn đỏ nặng trịch của Tần phủ. Tạ Xuân Phi ngẩng đầu nhìn hai chữ vàng sáng lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời của Tần phủ.
Hóa ra… lại là Tần phủ này.
Tần phủ giàu nhất thiên hạ.
Mặc dù y sống trong cốc tách biệt với nhân gian, nhưng trước năm tám tuổi kia y vẫn lớn lên trong kinh thành, cũng có nghe đôi điều về Tần phủ nguy nga tráng lệ này.
Tần tiểu thiếu gia khí phách thế này… y thật sự có thể đủ sức đụng đến hắn sao?
Tạ Xuân Phi lại cúi đầu ho hai tiếng, tay thắt chặt áo choàng rồi chậm rãi trở về cốc Lạc Hà.
Tần phủ chủ yếu giao thương tơ lụa bắt đầu từ thượng kinh, đến nay đã tủa nhánh trải rộng ra khắp mọi miền. Hàng năm, những lô nguyên liệu tốt nhấtđều phải chuyển đến hoàng cung. Trong hậu cung còn có một cô con gái khác đảm vị phi tần, có thể nói công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió, ngày ngày hốt bạc.
Có điều vị Tần lão gia giàu sụ này đến nay vẫn không có người đặng nối nghiệp, chỉ có mỗi một cô con gái. Mãi đến tận khi ông ta bước qua ngưỡng năm mươi mới có được một mụn con trai bảo bối, dĩ nhiên là được nuôi như châu như ngọc trong nhà, đặt tên là Tần Túng, với ý tung hoành bốn bể, thuận buồm xuôi gió.
Tần tiểu công tử ham chơi trời sinh, thường xuyên bỏ lại gia nô một mình du ngoạn khắp nơi, lần này tận non nửa tháng vẫn chưa về nhà, Tần lão gia cùng Tần phu nhân lo sốt cả ruột, vội phái người tìm kiếm muôn nơi song đều không thấy, ngờ đâu Tần Túng ấy mà tự mình mò về.
Dù Tần lão gia có cưng chiều con trai nhỏ thế nào chăng nữa nhưng gia pháp nghiêm minh, không thể qua loa bất kể nửa phần, Tần Túng đáng thương vừa hồi phủ đã bị lột sạch áo lãnh trọn hai mươi roi mây.
“Còn dám trốn ra ngoài chơi không báo với người nhà khiến mọi người phải lo lắng cho mày nữa không?”
Tần Túng cũng là cứng xương rắn cốt, bị đánh đến nở hoa trên lưng mà vẫn ngẩng đầu cười tươi, không hề rơi một giọt nước mắt:
“Cha, con tìm được vợ rồi.”
“Mày nói bậy bạ gì đấy!”
“Thật mà…” Tần Túng ngước khuôn mặt nhỏ nhắn lên, cười cong đôi mắt hoa đào, “Không phải huynh ấy thì con không cưới đâu.”
Vừa gặp Tạ khanh, đã định một lòng.
Trên trang giấy vào lễ nhược quán, Tần Túng đã đề những chữ này dưới sách.*
(*Trong raw là 7 chữ一见谢卿,误终身, nhưng vì dịch ra 8 chữ nên mình sửa lại chút nhé.)
Thời gian thoáng chốc trôi đi, thuở ấy mười tuổi gặp gỡ Tạ Xuân Phi, vậy mà đã mười năm rồi.
Cuối cùng hắn cũng đến tuổi tròn đôi mươi.
Tạ Xuân Phi ghi dấu trong tim hắn chưa bao giờ phai nhạt dù chỉ chút ít, gương mặt của y sớm đã khắc sâu vào lòng Tần Túng dần theo năm tháng.
Tần Túng ngắm những con chữ kia, ánh mắt dịu dàng như nước chảy. Ngón tay thon dài chầm chậm mơn trớn mặt chữ, tựa như đang ve vuốt làn tóc dài đen nhánh mượt mà của Tạ Xuân Phi.
Một tiếng nỉ non khẽ tràn ra từ trong cổ họng của hắn:
“Xuân Phi…”
– Hết chương một –
–
(Nói sơ đôi chút về lễ Nhược quán nhé:
Trong văn hoá của người phương Đông xưa kia, nam nhân khi đủ 20 tuổi được tiến hành làm Quan Lễ (Lễ đội mũ trưởng thành), hay còn gọi là Nhược Quan, để xác nhận người bước vào giai đoạn trưởng thành, có trách nhiệm với xã hội. Vì cơ thể ở độ tuổi này vẫn chưa phát triển một cách toàn diện nhất, tuổi còn trẻ nên gọi là Nhược (yếu).
Theo cuốn Nghĩa Lễ – Sĩ Quan Lễ ghi chép thì nam nhân gia đình quyền quý khi đủ 20 tuổi sẽ do phụ thân đứng ra tiến hành làm Quan Lễ tại tông miếu. Sau khi bái tạ song thân xong quay ra chủ lễ sẽ đặt cho tên tự. Thời xưa chỉ có người bề trên mới được gọi tên người bề dưới, còn thông thường mọi người hay xưng hô nhau bằng tên tự. Nói cách khác, tên tự chính là danh xưng của người thời xưa trong cuộc sống thường ngày chứ không gọi tên thật, tên cúng cơm.)