Tin đến vào một buổi chiều.
Khung Tuấn còn nhớ rõ, khi đó hắn vừa xong một ngày mệt nhoài trong lều Thống soái. Kể từ khi chủ quản Tượng Binh Trần Lượng bắt đầu tham chiến, cục diện chiến trường Mạc Bắc trở nên khó đoán vô cùng. Dạo trước Đinh Đại Đồng trúng một nhát rìu của Tống Cơ Long, tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng cũng phải dưỡng thương hơn cả tuần. Trong cả tuần đó, chiến trường yên ả, hai quân tranh thủ nghỉ ngơi.
Thế nhưng ngay sau đó, khi vết thương của Đinh Đại Đồng đã bắt đầu khép miệng, một buổi sáng đầy sương mù nọ, Trần Lượng ngật ngưỡng ngồi trên ngai cao, cưỡi thớt voi đầu bịt sắt, lưng phủ thảm nhung dày, tay cầm giáo tay cầm gươm, chậm rãi bước ra chiến trường.
Kể từ giờ phút đó, chiến trường Mạc Bắc chứng kiến hai vị Đại soái của Kinh Lạc tung hoành.
Đinh Đại Đồng kết hợp cùng Quảng Ngân Trình cũng vô phương. Một người chỉ giỏi dùng sức không giỏi dùng mưu, một kẻ thì bị cái bóng quá lớn của lão tướng quân Lưu Mục đè nặng, đứng giữa ba quân thiên biến vạn hóa, một quyển binh thư của người xưa để lại bỗng chốc trở nên rối rắm, không còn liên quan. Phải mất mấy ngày, Quảng Ngân Trình và Đinh Đại Đồng mới thích ứng được với cách hành binh của hai vị Đại soái phương nam, dần dần đưa cục diện quay lại thế cân bằng.
Hai bên gồng căng, phản kích rồi phòng thủ, dạ tập rồi lại thình lình rút lui, thế trận diễn biến phức tạp, xoay chuyển luân phiên không dứt. Thế nhưng không hiểu sao Đại vương tử vẫn cảm thấy có gì đó đang lẩn khuất sau từng trận đánh, giống như khi vở kịch gần đến hồi kết, sự thật nửa khuất nửa lộ sau rèm.
Khung Tuấn đi từng bước lên đài quan sát, đoạn ra hiệu cho binh sĩ canh phòng lui xuống.
Giờ phút này hắn chỉ muốn ở một mình.
Đã hơn một tháng rồi.
Từ trên đài cao, Đại vương tử phóng ánh mắt dõi nhìn về phía trước, xuyên qua lều trại tướng sĩ, xuyên qua rừng mận trắng trời. Chiều nay nắng còn sáng rõ, ánh mắt tinh tường của Khung Tuấn lập tức nhìn thấy cờ hiệu của nàng phấp phới bay.
Vì sao nàng không ra trận?
Vì sao nàng không chịu gặp ta?
Có phải nàng đang xem thường hắn? Ngày nào hắn chưa vượt qua được hai vị Đại soái của nàng, ngày đó hắn chưa xứng tầm để nàng khoác chiến bào, cầm kiếm cầm thương bước ra nghênh chiến?
Tuuuuuuuuuuuuuuuuuuuuuuu!
Một hồi tù và đột ngột vang lên. Trước khi Khung Tuấn kịp nhận thức việc gì đang xảy ra, phía dưới khu lều trại tướng sĩ đã có người hô lớn:
“Tin khẩn! Là tin khẩn từ phương bắc!”
Tù và kêu tám lần nhanh và ngắn, nghĩa là có tin khẩn cấp bậc cao nhất do khoái mã chạy ngày đêm không nghỉ để báo tin, mức độ khẩn cấp tương đương với việc Hoàng đế băng hà!
Khung Tuấn thấy sống lưng mình lạnh toát, lập tức xoay người lao nhanh xuống lầu.
Cửa doanh trại vừa hé, con khoái mã kia đã vụt vào trong, để lại sau lưng đất cát mù trời. Người trên lưng ngựa chỉ kịp ghìm cương lại khiến con ngựa chồm lên hí vang, ngay sau đó hắn đã ngã ngửa ra mặt đất. Lúc Khung Tuấn chạy xuống tới nơi, binh sĩ đã túa lại vây xung quanh người đưa tin nọ. Đinh Đại Đồng và Quảng Ngân Trình cũng vừa từ trong lều của mình chạy ra.
“Chuyện gì???” Khung Tuấn quát lên.
Mọi tiếng xì xào đều im bặt. Binh sĩ tự động dạt ra, để lộ người đưa tin mặt trắng bệch đang gần như ngất xỉu vì kiệt sức. Tay hắn nắm chặt ống da dính máu, run run đưa về phía Khung Tuấn rồi thều thào:
“Vỡ rồi…”
Giây phút nhìn thấy binh phục của người lính đó, Khung Tuấn lập tức cảm thấy một cơn hốt hoảng lạnh lẽo chợt trào lên bao trùm tứ chi, ngay cả trán cũng rịn mồ hôi lạnh.
Hắn là người của Nhạn Quân.
Tin khẩn này không phải đến từ Vương Đô, không phải Hoàng đế băng hà…
Người lính đưa tin lết lại gần Khung Tuấn, run rẩy nhét ống da nọ vào tay hắn, lần nữa cất giọng khàn khàn mà lặp lại:
“Vỡ rồi…”
Mùa xuân năm đó, lần đầu tiên tứ đại sơn tộc liên minh, cùng nhau hội quân rồi tràn xuống từ Tuyết Nhạn. Thế giặc như nước lũ, ào ào không dứt. Phòng tuyến đông bắc nối liền Khúc Băng và dải Chinh Sa cũng bị phá vỡ. Lâm Sách không còn Lý Tao Niên, không còn Đinh Đại Đồng, không còn Lê Quảng Mục hay Lăng Kỳ Anh, một mình cắn răng vất vả chống đỡ chưa được bảy ngày đã phải hạ quyết định di tản bá tánh Khúc Băng, lui binh trăm dặm về vùng đồng bằng sát Vương Đô.
Lần đầu tiên trong lịch sử, bức tường sắt Nhạn Quân sụp đổ. Lần đầu tiên, kinh đô Trích Nguyệt bình yên hơn trăm năm nay sẽ phải đối mặt với quân thù.
Lâm Sách viết thư máu khẩn cầu Đại vương tử cho Đinh Đại Đồng quay về từ chiến trường miền nam, đồng thời cho Thủ Vệ Quân Trích Nguyệt xuất binh tham chiến, chặn địch ngay tại cửa ngõ vào Vương Đô.
Nói cách khác là được ăn cả, ngã về không.
Nếu thắng, cửa ngõ vào Vương Đô sẽ trở thành nơi chôn thây sơn tộc, mãi mãi đánh tan mối họa bao đời từ núi thiêng Tuyết Nhạn. Đại Thương sẽ không còn sự đe dọa nào từ phương bắc. Nếu thua, quân địch sẽ xông thẳng về Vương Đô. Khi đó, kinh thành Trích Nguyệt sẽ trở thành phòng tuyến cuối cùng che chắn Đại Thương trước cơn sóng thần mang tên vong quốc.
“Đại vương tử!!!”
Đinh Đại Đồng gào lên phẫn uất, hai mắt đỏ ngầu. Đúng ra hành động này sẽ bị xem là đại bất kính, Khung Tuấn có thể lệnh cho người lôi hắn ra ngoài đánh trăm gậy trước mặt ba quân, thế nhưng giờ phút này, Đại vương tử cơ hồ chẳng suy nghĩ được gì.
Hai bàn tay hắn đang vã mồ hôi, lạnh toát và nhớp nhúa.
“Đi đi!” Sau cùng, Khung Tuấn cắn răng phất tay hạ lệnh. “Ta cũng lập tức quay về cùng ngươi.”
Đinh Đại Đồng chỉ chờ có vậy, ngay tức thì lao vụt ra khỏi lều Thống soái để chuẩn bị cho việc thu binh và hành quân cấp tốc về phương bắc ngay trong đêm.
“Quảng Ngân Trình.” Khung Tuấn lúc này mới ngẩng đầu lên, khàn khàn gọi.
“Có mạt tướng!”
“Ngươi biết nhiệm vụ của mình chưa?”
Quảng Ngân Trình cúi đầu, hai nắm tay siết chặt. Chiếc áo choàng trên vai trở nên nặng trĩu như xích sắt, gông xiềng.
“Tử thủ.” Khung Tuấn đứng dậy, giắt trường kiếm lên hông rồi lạnh lùng nhìn hắn trước khi bước nhanh ra ngoài.
“Nếu Kinh Lạc nhân cơ hội này mà xông lên, ngươi nhất định không được lùi. Một tấc đất cũng không.”
“Thần tuân lệnh.”
Đại vương tử ra ngoài, hít vào một hơi lạnh lẽo khiến lồng ngực cũng nhói đau. Trời bắt đầu nhập nhoạng tối. Nắng tắt dần, doanh trại lên đèn. Ở phía bên kia chiến tuyến, ải Bạch Vân cũng lập lòe vài ba đốm lửa.
Cờ hiệu của Đại công chúa nhè nhẹ bay.
Đại vương tử đứng nhìn về phía ải Bạch Vân một hồi, gương mặt âm trầm không ai rõ ngài đang suy nghĩ điều gì.
Lúc Khung Tuấn nhảy lên ngựa rồi hòa vào đoàn quân của Đinh Đại Đồng quay trở về phương bắc, tia nắng cuối cùng cũng tắt. Quân đi rầm rập không ngơi nghỉ. Gió đêm thổi mạnh, tóc dài thả ngoài chiến giáp cũng rối tung.
Đại vương tử phi ngựa, từng nhịp từng nhịp ngựa phi là từng giây từng phút đè nén ý nghĩ đang rục rịch cựa quậy trong lòng.
Áo choàng nhung đỏ thẫm, cờ hiệu phất cao, chiến mã màu nâu đỏ hí vang trời, trường thương sáng loáng trên tay kiêu hãnh.
Tất cả đã là quá khứ rồi.
Khung Dực ngả lưng ra phiến đá phủ rêu xanh êm mịn, ngửa mặt lên trời, chân gác chữ ngũ, tay thì lấy cái nón tơi ụp lên mặt che khuất đi luồng sáng cho đỡ chói rồi lim dim mắt.
Buổi trưa ở đây yên tĩnh lạ kỳ.
Ngoài đồng gió thổi mát rượi. Lũy tre xanh sau lưng thì cứ xạc xào xạc xào, vô hình trung gần như ru ngủ luôn cái người đang nằm hóng gió trên phiến đá dưới gốc đa kia.
Tính đến nay, hắn và Ngọc Huyên đã lưu lại Nam Biên này hơn một tháng.
Sau bữa cơm chiêu đãi tại nhà của tri phủ Nam Biên, sáng ngày hôm sau là mấy vị tướng quân trẻ tuổi kia lập tức bị Trần đại soái gông cổ về doanh trại. Sau một đêm cơm no rượu say, sáng ngày ra ai cũng thân thiện hơn nhiều. Thậm chí, Liêm Thanh và Trần Duy Hưng trước khi nhảy lên ngựa còn thân mật vỗ vai Khung Dực hai cái.
Khi ấy thấy mặt hắn ngẩn ra, Ngọc Huyên đã tủm tỉm cười rồi thì thầm:
“Hôm qua lúc anh đi lấy áo choàng cho em, em đã tranh thủ mắng mấy ảnh một trận, bảo rằng từ nay về sau không được bắt nạt người của em.”
Hắn nhịn không được mà phì cười, sau đó đã lại nghe em nói:
“Thật ra ai cũng biết việc anh kháng chỉ, từ chối dẫn binh nam tiến rồi.”
Y luồn tay ôm ngang hông hắn, thản nhiên như giữa chốn không người:
“Yên tâm làm rể phương nam thôi.”
Từ khi đó, ngay cả Đại công chúa Vũ Miên cùng Vua chủ Chu An cũng hiếm khi thấy bóng dáng. Vũ Miên nói được làm được. Nàng đã khẳng định Ngọc Huyên chỉ cần nghỉ ngơi, những chuyện khác không cần quan tâm, thế là ngay tức khắc mọi người, mọi việc đều bay biến đi sạch sẽ. Một mảnh náo nhiệt trong tư phủ Hoắc Xung đêm trước, chẳng mấy chốc hóa vắng lặng như tờ.
Thậm chí lúc đó Khung Dực còn thầm kinh ngạc trong lòng, cứ như sau một đêm mà cả cái thành này bốc hơi hơn phân nửa dân cư vậy.
Để tránh làm phiền đến Hoắc Xung đồng thời cũng, e hèm, cho đôi phu phu mới thành thân chút riêng tư mật ngọt, Ngọc Huyên và Khung Dực dọn đến một căn nhà nhỏ gần ngoại ô. Ngày ngày Ngọc Huyên chỉ ra thăm ruộng đồng, trò chuyện với người nông dân, với bá tánh trong làng, có khi còn cày cấy, trồng trọt từ sáng tới chiều rồi mới quay về. Mà Khung Dực thì, thân là đệ nhất thân vệ của Hoàng tử Kinh Lạc, lúc nào cũng theo sát y, không rời nửa bước.
Khung Dực nhấc cái nón tơi ra khỏi mặt mình, nhét nó xuống làm gối kê đầu rồi nheo nheo mắt nhìn bầu trời cao vời vợi.
Cuộc sống yên ả này, lúc trước có nằm mơ cũng không dám nghĩ đến, nói chi là thực sự trải qua.
Khung Dực tranh thủ lúc nhàn nhã, một hai bắt Ngọc Huyên ăn nhiều cho mập. Mà Ngọc Huyên cũng đâu có chịu thua, vời lang y giỏi nhất Nam Biên đến khám kỹ thân thể hắn từ trong ra ngoài, sau đó còn nhờ Thùy Dung xem lại. Cả tháng nay, hắn và Ngọc Huyên ngày ngày chỉ ăn no ngủ kỹ, xong lại ra ruộng ra vườn, sau đó uống thuốc chữa thương, bồi bổ cơ thể. Cả hai đang tuổi thanh niên tràn trề sức lực, chẳng mấy chốc lại khỏe như vâm. Khung Dực sợ cứ đà này mình sẽ hóa thành heo mất, thế là ngày nào cũng luyện võ luyện thương hừng hực mấy canh giờ.
Dĩ nhiên tối tối còn phải “vận động” với Ngọc Huyên vài chặp rồi mới ngủ.
Chíp chíp chíp chíp chíp.
Khung Dực ngẩng mặt nhìn lên. Một con chim gì đó vừa bay vụt qua, sau đó đậu lên tường rào dây tơ hồng của nhà hàng xóm. Khung Dực từ từ ngồi dậy, nhìn con chim béo tốt kia thật kỹ. Hay là tối nay ăn món chim nướng đi?
Bàn tay hắn lần mò ra sau lưng theo bản năng, thế nhưng chỉ sờ được một mảnh lưng trống rỗng.
À. Khung Dực nhớ ra, ngượng nghịu dùng chân đá đá mấy cục sỏi dưới đất.
Dạo này hắn chẳng dùng đến cung tên nữa rồi.
“Anh ơi!”
Giọng Ngọc Huyên lanh lảnh cất lên từ phía sau khu vườn xanh um của căn nhà đối diện. Khung Dực ngay tức thì bật dậy: “Ơi!”
“Vào đây với em!”
Ngọc Huyên đang đứng trong gian bếp nhìn ra hiên nhà, còn bà cụ thì đang lúi húi bưng siêu cá kho đang sôi ùng ục xuống khỏi bếp than hồng. Y chỉ tay vào cái rổ mây con con đặt trên bàn rồi trỏ trỏ tay ra vườn, miệng cười phấn khởi:
“Cụ kho cá cho tụi mình đem về tối nay ăn này. Anh ra vườn hái một ít hoa bí giúp em đi.”
Khung Dực ngoan ngoãn tuân lệnh, nhấc chiếc rổ mây kia rồi bước ra vườn, đến dưới giàn bí xanh non lốm đốm hoa vàng. Hắn nghe lời, chọn hoa nào to to đẹp đẹp, sau đó ôm một rổ đầy hoa vàng rực bước vào trong nhà.
Bà cụ này là một lão nông sống ở ngoại ô Nam Biên, khá gần nhà của họ. Ngọc Huyên rất hay sang đây hỏi han việc trồng trọt, rồi còn giúp bà cái này cái kia.
Khung Dực cười chào bà cụ rồi quay sang hỏi Ngọc Huyên:
“Em muốn cắm hoa hả? Vậy lát nữa mình rẽ vào chợ mua một cái bình đi, chứ ở nhà không có.”
Ngọc Huyên đang giúp bà cụ cho siêu cá kho vào lồng cơm, nghe thấy Khung Dực hỏi vậy thì ngẩng lên trố mắt ra nhìn hắn:
“Em đâu có muốn cắm hoa?”
Khung Dực cũng ngẩn ra, sau đó ngơ ngác nhìn xuống rổ hoa bí vàng rực rỡ trên tay mình.
“À, hoa này để ăn đó!” Ngọc Huyên hiểu ra, vội vàng xua tay giải thích.
Khung Dực nghe xong càng khó hiểu, sau một hồi ngẫm nghĩ thì đi đến khẽ huých tay vào eo Ngọc Huyên:
“Nhà cụ khó khăn đến nỗi phải lấy hoa mà ăn, mình lấy cá của cụ thì… có vẻ không hay lắm. Hay để lại ít bạc nhé?”
Dù ai đó đã cố tình hạ thấp giọng, thế nhưng trong căn nhà nhỏ xíu kia, chất giọng nam trầm của hắn vẫn cứ vang đi tứ phía.
Ngọc Huyên ngẩn ra một chút, đến khi hiểu ý Khung Dực rồi thì bắt đầu cười rũ rượi, cười chảy cả nước mắt. Ngay cả bà cụ cũng hấp háy đôi mắt nhăn nheo mà cười, xong rồi còn chỉ chỉ tay vào ngực Khung Dực rồi giả vờ mắng mỏ:
“Tổ cha bây! Vua chủ ở Loa Thành còn chưa chắc được ăn ngon như bà đâu đấy!”
Khung Dực chỉ biết thộn mặt ra nhìn.
Cụ này, cụ nghèo tới nỗi hoa cũng phải hái xuống mà ăn, thế mà cụ còn chối???
“Anh à!” Ngọc Huyên cười xong thì nhìn hắn ngâm ngâm, chợt bất ngờ nhón chân lên hôn cái chụt vào môi hắn. “Anh đáng yêu quá đi mất!”
Gã trai phương bắc nào đó ấy vậy mà lại đỏ mặt, bối rối đưa tay quẹt mũi. Sao dạo này em càng lúc càng bạo dạn thế không biết!
Trên bàn ăn, siêu cá trê đồng béo vàng thơm ngậy tỏa khói mờ mờ, còn hoa bí thì rực rỡ như nắng ấm ngoài sân.
Trên đường về, Khung Dực nắm tay Ngọc Huyên đi qua ngõ vắng. Em vừa đi vừa giảng giải cho hắn nghe về cách ăn uống của người phương nam. Những món ăn dân dã này đều phải ăn với rau củ xanh tươi ngoài vườn, thậm chí hoa màu cũng là thức ăn, là vị thuốc. Người Kinh Lạc ăn nhiều rau xanh hơn người Đại Thương, vị thức ăn cũng thanh đạm, nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Vườn nhà ai cũng trồng sẵn vài loại rau, dăm loại củ quả, gia vị, cần gì là ra ngoài hái ngay, vừa tươi vừa ngon. Những điều này dĩ nhiên vua chúa trong cung điện chưa chắc đã sánh bằng.
Đi ngang một ngôi nhà nọ, Ngọc Huyên chợt dừng bước rồi bâng khuâng nhìn lên. Góc vườn nhà này có một cây hồng đang ra đợt quả cuối cùng. Lá cây đã rụng hết, chỉ còn lại những cành cây khẳng khiu treo vài quả hồng đỏ đỏ cam cam, sắc màu rực rỡ vô cùng tương phản với vỏ cây nâu đen, xù xì.
“Em muốn ăn hồng hả?” Khung Dực cũng nhìn lên cây rồi hỏi. “Ta vào xin cho em nhé?”
Sau hơn một tháng ở Kinh Lạc, Khung Dực đã học được một điều. Đi ngang vườn nhà ai có cây ăn quả đơm trái sum suê hay ruộng dưa ruộng khoai gì đang tươi tốt, muốn xin cứ việc mặt dày đi vào mà xin. Gia chủ phần lớn đều sẽ niềm nở cho, nhất là những cụ ông cụ bà lớn tuổi.
Ngọc Huyên thơ thẩn một hồi, mắt vẫn nhìn lên những quả hồng đương chín tới.
“Năm xưa lúc ở Khúc Băng giúp nông dân trồng ngô ngọt, bọn em từng thòm thèm gốc táo xanh nhà Trình lão gia, quả vừa giòn vừa ngọt, còn bàn nhau chạy đi hái trộm.”
Y khẽ lắc đầu cười, đoạn nhẹ nhàng kéo tay Khung Dực bước đi.
Lát sau, Ngọc Huyên khẽ siết tay hắn một cái rồi nói nhỏ:
“Em cũng vậy.”
Khung Dực im lặng, chân vẫn bước đều nhưng người lại quay sang hôn lên thái dương y một hơi dài. Ngọc Huyên nghiêng đầu đón nhận, tay thì vòng sang ôm lưng hắn.
Em cũng như anh. Em cũng nhớ Đại Thương.
Khi họ về đến nhà thì cũng đã xế chiều. Ngôi nhà nhỏ ở ngoại ô Nam Biên này rất đẹp. Cổng gỗ chạm hoa văn sơn đỏ đặc trưng kiến trúc Kinh Lạc, tường đá bám rêu xanh, mái ngói cong cong phủ đầy dây leo. Từ ngoài nhìn vào trong còn thấy thấp thoáng mái đình ngoài sân để uống trà, chưa kể cơ man nào là lá xanh, hoa cỏ tràn trề sức sống.
“Để em thổi cơm rồi xào hoa bí, sau đó đun lại siêu cá kho là chiều nay ăn cơm được rồi!”
Ngọc Huyên đẩy cửa bước vào rồi quay lại sau lưng nói với Khung Dực, không nhìn thấy trong sân đã có hai người đang đứng tự lúc nào.
“Hoàng tử.”
Y giật mình quay lại. A Châu và Nguyễn Huỳnh lập tức quỳ xuống hành lễ một cách trang nghiêm.
“A Châu, Nguyễn Huỳnh! Hai người…”
Khung Dực nhìn gương mặt nghiêm trọng của hai người nọ, đột nhiên linh tính trỗi dậy trong lòng, hai bàn tay cũng giật nhẹ.
“Hoàng tử, xin mau chóng cùng chúng thần về tư viện của tri phủ Nam Biên. Vua chủ cho gọi gấp.”
Ngưng một chút, A Châu đánh mắt qua Khung Dực rồi cúi đầu bổ sung:
“Cả ngài và Nhị vương tử đều phải lập tức quay về.”
Ngọc Huyên sững người ra. Khung Dực thấy thế bèn bước lại, tay ôm lấy bờ vai gầy gầy của người ta. Y cúi xuống nhìn rổ hoa bí vàng trên tay, sau đó quyết tâm ngẩng mặt lên rồi bảo:
“Ăn xong bữa cơm rồi hẵng đi.”
Ngọc Huyên bước nhanh vào nhà, đi thẳng vào bếp, lục đà lục đục bắc nồi, vo gạo thổi cơm. Khung Dực cũng lẳng lặng theo vào, tự giác ôm rổ hoa đi rửa.
Nguyễn Huỳnh hơi sốt ruột, đưa mắt nhìn A Châu dò hỏi. A Châu thì ngược lại, nàng không cáu bẳn như mọi lần mà chỉ bước lại phía đình nhỏ ngoài sân, thong thả ngồi xuống ngắm hoa, chờ đợi.
Chẳng mấy chốc, nồi cơm đã sôi ùng ục. Ngọc Huyên nhấc siêu cá kho lên bếp đun lại một lần, còn hoa bí thì để ráo nước rồi xào với tỏi. Y nghĩ nghĩ rồi quyết định làm thêm một tô trứng hấp, rắc hành lá xắt nhuyễn xanh mướt cùng vài lát ớt đỏ au lên trên.
Khung Dực dọn chén ra bàn, lấy luôn cho A Châu và Nguyễn Huỳnh.
Bữa cơm này, nói là cơm trưa thì quá muộn, mà nói là cơm chiều thì quá sớm. Tuy vậy, cả Ngọc Huyên lẫn Khung Dực đều ăn rất ngon lành. A Châu và Nguyễn Huỳnh thì cả buổi chỉ cắm mặt vào bát cơm, không ai dám nói tiếng nào.
“Hoa bí xào ngon mà, phải không anh?” Ngọc Huyên đá đá chân Khung Dực, mặt vênh lên tự đắc. Khung Dực bật cười, gắp một đũa to cho vào chén y, sau đó gắp tiếp cho mình rồi gật gù:
“Ngon thật!”
Bữa cơm dù ăn nhanh hay chậm, đến sau cùng vẫn phải ăn xong. Ngọc Huyên đem chén bát vào bếp, cùng Khung Dực rửa sạch, dọn dẹp sơ qua một lần rồi mới bước ra ngoài sân. A Châu và Nguyễn Huỳnh cũng đã chuẩn bị xong xuôi, xe ngựa đã đánh tới trước cổng.
Ngọc Huyên khép cửa nhà rồi bước lên xe ngựa, đầu không ngoảnh lại lần nào. Khung Dực thì khác. Hắn tần ngần đứng trước chiếc cổng sơn son một lúc lâu, phóng tầm mắt khắc ghi hết dáng vẻ ngôi nhà vào trong tâm trí.
Sau cùng, chiếc xe ngựa lạch cạch rời đi. Ngôi nhà cuối ngõ lại im lìm, chỉ còn mái ngói đầy hoa vẫn đang đung đưa trong nắng.
Lúc xe ngựa dừng lại hẳn, Khung Dực và Ngọc Huyên cứ tưởng đã đến tư viện của Hoắc Xung, không ngờ khi vén rèm bước ra thì chỉ mới đến cổng thành Nam Biên. Điều kỳ lạ là, Vua chủ Chu An và Đại công chúa Vũ Miên đã đứng chờ sẵn tự bao giờ.
“Cha! Chị Miên!” Ngọc Huyên kinh ngạc nhảy xuống xe rồi bước nhanh đến. Khung Dực vén rèm, nhìn hai người kia một chút rồi mới nhảy xuống theo sau.
“Huyên!” Chu An xoay Ngọc Huyên tới lui, nhìn qua một lượt rồi cười, tỏ ý hài lòng. “Đã có da có thịt hơn rồi. Tốt lắm, hahaha.”
“Cha vợ.” Khung Dực đi tới, vẫn mặt dày chào Chu An như vậy. Chu An hơi mất tự nhiên, trừng mắt một cái xem như đáp trả, lấp liếm đi sự bối rối của mình.
Ngọc Huyên ngẩn ra, hết nhìn cha rồi lại nhìn chị. Hôm nay hai người sao vậy?
“Cha, chị Miên, có… có chuyện gì sao?”
Lúc này Vũ Miên mới từ tốn bước lên, nắm tay Ngọc Huyên rồi vỗ hai cái:
“Huyên, đi theo chị.”
Ngọc Huyên cất bước đi theo Vũ Miên, mất vài bước chân mới quay đầu lại nhìn. Khung Dực toan bước tới thì đã bị Chu An giơ tay ngăn lại. Ngài hắng giọng vài cái rồi nói:
“Ngươi… Ờm, con… con ở đây một lát.”
Ngọc Huyên ngơ ngác:
“Anh ơi! Cha? Chị Miên?”
Vũ Miên vẫn nắm tay Ngọc Huyên, đoạn dắt y tiến lại phía lối đi dẫn lên trên tường thành, đầu không hề ngoảnh lại.
Khung Dực bỗng dưng bình tĩnh lạ kỳ. Hắn mỉm cười nhìn Ngọc Huyên, nói với theo bằng giọng điệu trấn an:
“Không sao đâu, cha em chỉ muốn nói chuyện với ta một lát. Không có gì đâu.”
Chu An đợi đến khi Vũ Miên và Ngọc Huyên bắt đầu bước lên cầu thang dẫn lên tường thành rồi, ngài mới chậm rãi quay sang nhìn Khung Dực. Lúc này trời đã về chiều, cửa thành vắng vẻ, chợ đã vãn từ lâu, người người đều đã quay về nhà từ trước, có lẽ giờ phút này đang tất bật chuẩn bị bữa cơm chiều.
“Ta làm điều này… chủ yếu là vì Ngọc Huyên.”
Chu An đăm chiêu nhìn về con đường phía trước, mái tóc muối tiêu càng nổi rõ sợi trắng sợi đen trong nắng chiều.
“Ta không muốn nó bị tổn thương lần nữa.”
“Con sẽ không tổn thương em ấy.” Khung Dực trầm giọng đáp.
“Cái đó còn tùy vào quyết định của con.”
Chu An phất tay ra hiệu, Nguyễn Huỳnh từ phía sau dắt đến một con chiến mã. Sau khi đưa dây cương cho Chu An, hắn lập tức cúi người lùi ra.
Khung Dực liếc mắt một cái đã nhận ra, đây chính là con chiến mã Khoát Oa mà Khoát Oa Na Lạp đã đưa cho hắn.
Chu An không đưa dây cương cho Khung Dực mà chỉ thả ra để đấy. Ngài nhìn sang Khung Dực, chậm rãi nói từng câu một.
“Ta vừa nhận được tin tình báo từ phương bắc. Tứ đại sơn tộc liên minh đánh xuống từ Tuyết Nhạn. Phòng tuyến Nhạn Quân đã sụp đổ. Khúc Băng thất thủ. Lâm Sách, phó tướng lúc trước của con đã hạ lệnh di tản bá tánh, lui binh trăm dặm về sát Vương Đô. Chiều hôm qua, đại ca của con và Đinh Đại Đồng đã nhận được tin, sau đó lập tức thu quân rồi quay về phương bắc.”
Ngài dừng một chút rồi nói tiếp:
“Đây toàn bộ là sự thật. Ta không hề gạt con. Sớm muộn gì con và Ngọc Huyên cũng sẽ biết tin. Người làm cha như ta, chẳng thà nói sớm ngay từ đầu.”
Khung Dực nghe xong thì sững ra, cả người bất động như núi. Con chiến mã Khoát Oa đạp đạp vó trước, tỏ vẻ bồn chồn.
“Khung Dực.” Chu An chắp tay sau lưng, đoạn thở hắt ra. “Ta không rõ trong một tháng này, con và Ngọc Huyên đã quyết định cái gì, hứa hẹn điều chi. Số hai con cũng khổ. Để đi được đến đây, âu cũng là cả một chặng đường dài.”
Ngài ngẩng mặt lên nhìn hắn, ôn tồn bảo:
“Thế nhưng cả hai con đều còn rất trẻ. Vẫn còn một chặng đường dài hơn phía trước.”
“Nếu con đã quyết định ở lại Kinh Lạc, ở bên Ngọc Huyên, thì tất cả những chuyện vừa rồi không còn liên quan gì đến con nữa. Từ giờ phút này, con chỉ nên nhìn theo Ngọc Huyên, nhìn con đường mà nó sẽ phải đi mà thôi. Kinh Lạc của ta sẽ không tệ bạc với con, cũng sẽ không ép con phải làm những việc trái lương tâm mình.”
“Tuy nhiên nếu hôm nay con quyết định quay trở về Đại Thương, ta mong rằng con dứt khoát quên Ngọc Huyên đi, để cho nó đi con đường của nó, sống cuộc đời của nó.”
Chu An đợi một chút, không thấy Khung Dực nói tiếng nào, ngài cũng không hề nao núng. Vua chủ phương nam bước lại vỗ nhẹ vào yên ngựa, ra hiệu cho hắn nghe kỹ lời dặn dò:
“Trên con chiến mã này có sẵn lương thực để con về đến Mạc Bắc gặp Quảng Ngân Trình. Khi con đi vào ải Bạch Vân, con chỉ cần giơ cờ hiệu của ta lên. Cờ ta đã giắt sẵn bên hông ngựa. Nhìn thấy cờ, tướng lĩnh ở ải Bạch Vân sẽ tự khắc cho con đi qua, vượt rừng mận, về cố hương.”
“Quyết định là ở con.”
Lúc này Ngọc Huyên đang ở trên tường thành, y vốn không nghe được những gì Chu An đang nói với Khung Dực. Thế nhưng y biết rõ việc gì đang diễn ra. Vũ Miên đã nói với y rồi.
Ngọc Huyên nhìn theo bóng lưng rộng lớn của Khung Dực, lòng chỉ ước ao được chạy đến ôm lấy tấm lưng đó. Ôm thật chặt.
“Anh ơi…” Y thì thầm.
Lát sau, Ngọc Huyên nhìn thấy Khung Dực từ từ vươn tay ra cầm lấy dây cương. Hắn cứng ngắc nhảy lên lưng con chiến mã, cúi đầu nói gì đó với Chu An, có vẻ như một lời cảm tạ. Lời vừa dứt, Khung Dực đã thúc gót cho ngựa lao đi, để lại sau lưng một mảng bụi mờ.
Vũ Miên nhìn thấy cảnh đó, chỉ khẽ quàng tay qua vai Ngọc Huyên tỏ ý an ủi, không nói lời nào. Lát sau, Đại công chúa nhẹ nhàng xoay lưng.
“Đi thôi, Huyên.” Nàng nói nhỏ.
“Về nhà thôi.”
Ngọc Huyên vẫn đứng im tại chỗ, cả người không nhúc nhích.
Chu An nhìn theo bóng người ngựa xa dần, sau một hồi cũng quyết định rời đi. Dưới chân tường thành lúc này vắng ngắt, không còn ai đứng lại.
Nắng thẫm màu dần.
Vũ Miên kiên nhẫn chờ Ngọc Huyên xoay người lại, thế nhưng y vẫn đứng yên tại chỗ, mắt dõi ra xa. Một vài khắc trôi qua, Ngọc Huyên chợt cất tiếng nói một câu, đầu vẫn không ngoảnh lại.
“Chị Miên, em xin lỗi.”
Vũ Miên nhíu mày, chưa kịp hiểu ý Ngọc Huyên thì bất chợt nghe thấy tiếng vó ngựa từ xa vang lên dồn dập. Đúng vào giây phút đó, Ngọc Huyên dứt khoát bước lên tường thành rồi tung mình nhảy xuống.
“Huyênnnnnnnnnnn!” Vũ Miên hoảng hốt kêu, nhoài người lao đến.
Cũng vào giây phút đó, người dưới chân thành đã đạp mạnh lên lưng ngựa rồi phóng lên, dang hay tay đỡ lấy y.
Rầm.
Khung Dực lấy tay ôm đầu Ngọc Huyên, đưa thân thể ra bao lấy y toàn bộ. Cả hai rớt xuống đất, lăn vài vòng.
Sau khi chắc chắn người kia không hề hấn gì, Khung Dực đưa tay lên miệng huýt sáo một hơi dài. Từ trong chuồng ngựa ở góc chếch phía bên kia, Tiểu Bạch hí vang rồi đạp tung cửa, sải vó lao ra.
Ngọc Huyên không cưỡi Tiểu Bạch mà cùng nhảy lên lưng con chiến mã Khoát Oa với Khung Dực. Hắn kéo tay Ngọc Huyên cho y ôm lấy hông mình rồi quay lại nói lớn với Vũ Miên đang đứng trên tường thành nhìn xuống:
“Chị vợ, em sẽ giữ cho Ngọc Huyên an toàn!”
Nói đoạn, cả người lẫn ngựa lập tức lao đi như gió. Tiểu Bạch cũng kiêu hãnh phóng theo, bốn vó thốc lên cát bụi mịt mù. Trong nắng chiều, làn bụi đó như dát vàng, cứ lấp la lấp lánh mà bay mãi, bay mãi.
Trên con đường vắng dẫn ra khỏi thành Nam Biên rồi hướng về phía ải Bạch Vân, có hai con chiến mã mải miết phi nước đại. Ngọc Huyên ôm Khung Dực, hai tay bấu mạnh vào lưng hắn.
“Sao anh biết em sẽ nhảy?”
Khung Dực thở dốc, vòng tay ra sau nắm lấy bàn tay người kia rồi đưa lên môi cắn nhẹ.
“Còn em? Sao em biết ta sẽ quay lại mà chờ?”
Ngọc Huyên tức tối kêu lên:
“Anh mà dám không quay lại, em sẽ đánh chết anh, cắn chết anh, hận chết anh!”
Y dụi dụi vào lưng hắn, sau đó lại càng ôm hắn chặt hơn.
Lúc anh nghe tin đã phải xót xa thế nào, sững sờ thế nào kia chứ.
“Ngọc Huyên, kỳ này cha vợ và chị vợ sẽ giận ta chết mất!” Khung Dực vừa thúc ngựa vừa tặc lưỡi kêu.
“Hahahaha không sao, có vợ đây rồi!”
“Nhưng mà lần này trở về sẽ nguy hiểm lắm, lỡ như…”
“Không có lỡ như gì cả!” Ngọc Huyên rướn người, há miệng cạp vào vai Khung Dực.
“Chúng ta sẽ không có chuyện đâu!”
Im lặng một chút, y bổ sung, giọng nói chắc như đinh đóng cột:
“Em chưa biết phải làm thế nào, dùng cách gì. Chuyện của mình, chuyện quốc gia, tình riêng và trách nhiệm. Nhưng mà em tin rằng mọi chuyện sẽ ổn cả thôi. Chỉ cần chúng ta đồng lòng, không có gì là không thể!”
Khung Dực ấp bàn tay mình lên tay Ngọc Huyên, xoa xoa vuốt vuốt, đoạn bật cười:
“Lệnh vợ là lệnh trời. Vợ nói chúng ta sẽ không sao, chúng ta nhất định sẽ không sao! Vợ nói mọi chuyện sẽ ổn, mọi chuyện nhất định sẽ ổn!”
“Hahahaha, tướng công ngoan!”
Tiếng cười lanh lảnh của Ngọc Huyên cơ hồ át cả tiếng vó ngựa trập trùng. Sau lưng hai người bọn họ, mặt trời đỏ thẫm dần buông.
“Cha.” Vũ Miên sa sầm nét mặt. “Ngựa của chúng ta không đuổi kịp hai con chiến mã thượng đẳng đó.”
Chu An thở dài gật gật đầu, đoạn len lén đưa mắt nhìn con gái. Nó giận rồi.
Quả thật ngài không ngờ được Khung Dực và Ngọc Huyên lại to gan đến thế, tuy nhiên quyết định của Khung Dực đã nằm trong suy đoán của ngài. Dù không thừa nhận, bản thân ngài lại rất hài lòng.
Nó đã không vứt bỏ quê cha đất tổ, khi mà quê cha đất tổ cần nó nhất.
Chà, càng nghĩ càng ưng thằng rể.
“Cha yên tâm, con sẽ đem em về.” Vũ Miên phất áo choàng, dứt khoát xoay người đi.
Chu An lần nữa thở dài, nhìn theo bóng lưng kiên định của con mình.
“Miên.” Ngài gọi.
Công chúa dừng bước, quay lại nhìn vua cha.
“Cẩn thận nha con.”
“Con biết rồi.” Vũ Miên cười nhẹ, gật đầu với ngài rồi quay lưng.
Hoàng hôn đỏ rực rọi bóng lên người Vua chủ phương nam. Đứng trên tường thành, ngài trông cô đơn đến lạ. Chỉ trong một buổi chiều, cả hai người con đều bỏ ngài mà đi.
Chu An bâng khuâng nhìn về phía trước. Nơi xa kia có ải Bạch Vân, có rừng mận chắn ngang biên giới. Bất chợt, bên tai ngài bỗng như vang lên tiếng gào khóc đầy uất hận của người thiếu niên năm nào.
“Tất cả là tại ngươi!!! Tất cả là tại ngươi!!! Ngươi đã hại chết nàng!!! Chu An, ngươi đã hại chết nàng!!!”
Chu An nhắm mắt, nén xuống cảm giác đắng chát đang dâng lên trong cuống họng.
Đã bốn mươi năm rồi, ngài vẫn không rõ ngày xưa mình làm đúng hay sai.
Bây giờ cũng vậy.
Phầm phập, phầm phập, phầm phập, phầm phập.
Khung Dực thúc mạnh gót chân, giục ngựa đi nhanh hơn. Khi cổng doanh trại ải Bạch Vân đã hiện ra trước mắt, hắn lần tay xuống hông rút lá cờ hiệu của Chu An ra. Cờ hiệu của Vua chủ Kinh Lạc màu vàng sẫm, bên trên thêu một chữ Chu, phía dưới là ký hiệu Loa Thành hình xoắn ốc.
Lá cờ đón gió, phần phật tung bay.
“Mở cửa! Mở cửa!”
Binh sĩ gác cổng đứng trên tháp canh nhìn thấy, tức khắc ra hiệu cho người bên dưới. Lúc bấy giờ đang là buổi sáng sớm, trong những vệt nắng mai vẫn còn ẩn chút hơi sương chưa tan. Hai ngày nay Khung Dực và Ngọc Huyên cưỡi ngựa gấp rút đến ải Bạch Vân, đêm qua chỉ ngủ vài canh giờ rồi lại đi tiếp, thế nên mờ sáng hôm nay đã đến.
Két.
Cổng doanh trại nặng nề kéo ra, Khung Dực lập tức phóng ngựa vụt thẳng vào trong. Hắn cứ thế nhắm hướng rừng mận mà lao đến.
Đội quân của Kinh Lạc đóng quân rải dần từ ải Bạch Vân đến rừng mận, lều trại giăng tứ phía. Khung Dực cưỡi ngựa đến đâu, binh sĩ nhìn thấy cờ hiệu đều dạt ra đến đấy. Tất cả đều sững sờ, sau đó xôn xao như ong vỡ tổ:
“Cờ hiệu của Vua chủ!”
“Kia là Hoàng tử của chúng ta, có phải không?”
“Tham kiến Hoàng tử! Hoàng tử vạn phúc! Hoàng tử vạn an!”
Vút.
Con chiến mã Khoát Oa vẫn lao nhanh như một mũi tên, bỏ lại hết thảy mọi thứ phía sau. Chẳng mấy chốc, người ngựa đã đến sát bìa rừng.
Phía trước có hai thân ảnh.
Tống Cơ Long thì cưỡi ngựa chiến, Trần Lượng thì đang ngồi trên đầu voi. Cả hai đứng ngay bìa rừng mận, dưới một vạt hoa trắng muốt như mây. Sáng nay chỉ có hai vị tướng già, những vị tướng quân trẻ tuổi kia thì lại chẳng thấy đâu.
Nghe tiếng vó ngựa vang lên từ phía sau, hai vị Đại soái đều quay lại. Nhìn thấy Khung Dực từ xa lao đến, cả hai đều không tỏ vẻ ngạc nhiên. Thế nhưng giây phút Ngọc Huyên ló ra từ sau lưng Khung Dực rồi vẫy tay cười, Trần Lượng và Tống Cơ Long đều giật mình đến mức suýt chút đã ngã luôn xuống đất.
“Hoàng… Hoàng tử???”
“Sao người lại ở đây???”
Khung Dực gật đầu chào hai vị Đại soái, tuy vậy vẫn không hề giảm tốc. Con chiến mã Khoát Oa và Tiểu Bạch cứ thế vụt ngang trước mắt hai vị lão tướng phương nam, tiến thẳng về phía trước.
Trận địa đầy nắng mở ra.
Lúc này hai quân chưa giao chiến. Chiến trường là một mảng bình nguyên xanh ngát, đẹp đẽ và bình yên đến mức đau lòng.
Từ trên cao nhìn xuống, hai bóng chiến mã sải chân như vũ bão, người trên ngựa tóc dài tung bay. Màu tóc nâu vàng phương bắc cùng màu tóc nhung huyền phương nam hòa quyện.
Quảng Ngân Trình đang đứng trên đài quan sát, lúc này cũng đã nhận ra từ bên kia chiến tuyến có người đang đến. Hắn thầm kinh ngạc trong lòng, chưa hạ lệnh bắn tên vội mà nhoài người căng mắt ra nhìn cho kỹ.
Người này… người này…
Híiiiiiiiiiiiiii.
Khung Dực ghìm dây cương ngay ngoài vùng tên bắn. Con chiến mã Khoát Oa chồm lên rồi hạ vó, hí vang một hồi dài.
“Quảng Ngân Trình!” Khung Dực kêu to. “Mở cổng đi!”
Dưới ánh nắng ban mai, mái tóc nâu vàng của Khung Dực sáng bừng, rực rỡ. Hắn ghim ánh mắt kiên định về phía doanh trại, trước mặt toàn thể ba quân Mạc Bắc, dõng dạc cất lời:
“Tại hạ là Khung Dực, về đây giúp các người đánh giặc.”