Tin Nhị vương tử ngang ngược cướp người về đến Trích Nguyệt chẳng khác nào một tiếng sấm nổ giữa trời quang. Do ngay từ đầu Hoàng đế không ra thánh chỉ mà chỉ cho Đại vương tử truyền lời, việc đưa Ngọc Huyên về kinh vào cuối mùa hạ cũng chỉ do nhị vị Vương tử bàn qua với nhau nên Khung Tuấn chỉ phái tùy tướng đi mà không kinh động gì đến triều thần, vì thế khi vị tùy tướng đó quay về báo tin thì cũng chỉ báo với Khung Tuấn. Vừa khéo lúc ấy Hoàng đế cũng đang có mặt.
Cướp người?
Khung Vũ cau mày đến nỗi chúng xoắn tít lại, trong khi Khung Tuấn thì ngồi chết lặng trên ghế.
Lần trước khi đến căn cứ vịnh Lam Thủy rồi xả cơn thịnh nộ, hắn còn sảng khoái đến dường nào, tự đắc đến dường nào. Nhìn dáng vẻ của nhị đệ hết sức nhẫn nhịn, hết sức khiêm nhường, Khung Tuấn còn tin chắc rằng lần này hắn đã dạy nhị đệ một bài học nhớ đời. Bởi thế việc nhị đệ hắn phân bua muốn giữ Ngọc Huyên lại thêm ba tháng cho đến hết mùa hạ, Khung Tuấn cũng lùi một bước mà cho qua. Cái gì mà lợi dụng Ngọc Huyên, cái gì mà làm lợi cho bá tánh? Toàn là ngụy biện! Nguyên do thích hợp nhất để giải thích những hành động điên rồ của nhị đệ hắn chính là việc lâu ngày sinh tình, Khung Dực sau một năm gần gũi rốt cuộc đã động tâm với Ngọc Huyên. Chỉ đơn giản vậy thôi.
Suy luận là vậy, thế nhưng Đại vương tử thật lòng lại không nghĩ sự tình sẽ là như thế. Chưa nói đến việc hai nam nhân nảy sinh tình cảm đã là khó chấp nhận, thân phận của hai người bọn họ rốt cuộc là cái gì chứ? Một người sẽ là Vua chủ Kinh Lạc trong tương lai, một người là Chiến Thần Đại Thương tung hoành một cõi. Hai nước đối địch, chắc chắn giữa bọn họ không có kết quả. Nếu Khung Dực quả thật động lòng với Ngọc Huyên rồi vì y mà làm ra những chuyện tày trời thế này, Khung Dực quả thật… ngu ngốc đến nực cười!
Lúc ở Lam Thủy, Khung Tuấn cũng quan sát Ngọc Huyên và Khung Dực. Ngọc Huyên lúc nào cũng thủ lễ và giữ khoảng cách, còn Khung Dực thì trái lại. Dù không có hành động gì cụ thể nhưng Khung Tuấn vẫn luôn cảm thấy ánh mắt nhị đệ mình nhìn Ngọc Huyên rất khác lạ. Đặc biệt là trong bữa tối hôm đó, khi Khung Dực ép Ngọc Huyên uống rượu, ánh mắt hắn nhìn y lóe lên một tia sáng rất đặc trưng.
Đó là khát khao chiếm hữu.
Thật ra chuyện trăng hoa tuyết nguyệt của Khung Dực, Khung Tuấn chẳng có một chút hứng thú nào. Nhị đệ hắn thích chơi bời, thích ngu ngốc, thích nực cười sao cũng được, nhưng khi đã đến giới hạn thì phải dừng, mà giới hạn ở đây chính là việc khiêu khích quyền lực của Vương Đô. Chuyến viếng thăm Lam Thủy lần đó của Khung Tuấn đã là một lời cảnh cáo quá rõ ràng. Việc Đại vương tử hạ lệnh cho tùy tướng của chính mình đưa Ngọc Huyên về Vương Đô cũng thế.
Chơi đủ rồi, điên đủ rồi, Khung Dực.
Vậy mà lần này nhị đệ hắn còn làm tới nước này.
Khung Tuấn bàng hoàng nhìn vào nội tâm mình rồi nhận ra, hắn không có tức giận, không có phẫn nộ, không có buồn đau ê chề như lần trước. Hắn chỉ thấy kinh hãi. Tựa như có quỷ dữ ngồi trên vai hắn rồi bật cười đầy khoái trá, đoạn thì thầm vào tai hắn một câu.
Nhị vương tử cái gì cũng dám làm.
Cái gì cũng dám làm.
Cái gì cũng dám làm.
“Khung Tuấn!”
Tiếng gọi của Hoàng đế chợt vang lên, lôi Khung Tuấn từ trong đầm lầy suy nghĩ của chính mình mà tỉnh lại. Đại vương tử lúc này mới nhận ra Hoàng đế đã cho tùy tướng của mình lui ra tự bao giờ. Hắn biết lúc này đúng ra hắn phải cúi đầu thỉnh tội, phải nhanh chóng nói câu “nhi thần thất lễ, xin phụ hoàng trách phạt”, thế nhưng hắn cứ đăm đăm nhìn Hoàng đế, miệng không thốt ra nổi một chữ.
Lần này phụ hoàng cũng lại trách phạt qua loa nhị đệ đúng không? Cũng như bao lần trước, đúng không? Rốt cuộc người sủng ái nhị đệ vô pháp vô thiên tới nông nỗi này rồi, bây giờ người định làm thế nào đây, hả?
Hoàng đế nhìn biểu cảm trên gương mặt đích tử của mình, trữ quân của Đại Thương, hồi lâu sau ngài thở ra một hơi nặng nhọc. Đúng lúc ngài mở miệng toan hạ lệnh thì phía bên ngoài có tiếng bước chân rầm rập vang lên cùng tiếng bẩm tấu vô cùng khẩn thiết của trưởng đội thủ vệ quân Trích Nguyệt:
“Bệ hạ! Tin khẩn của phó tướng Nhạn Quân Lâm Sách! Sơn tộc có biến, hai bên đang đụng độ trực diện ngay trên Tuyết Nhạn. Nhị vương tử cũng vừa về tới Khúc Băng, đang trực tiếp cầm binh ngăn chặn bọn chúng.”
Khung Vũ cau mày bước lại giật lấy thư chiến báo, sau khi xem xong thì đưa cho Khung Tuấn rồi ngồi xuống trầm ngâm. Khung Tuấn sau khi đọc xong tin khẩn kia cũng phất tay cho thủ vệ quân lui ra rồi quay sang nhìn Hoàng đế chờ lệnh.
“Khung Tuấn.” Hoàng đế tự rót cho mình một chén trà, đoạn hỏi Đại vương tử: “Nếu con ngồi ở cương vị của ta, con sẽ làm gì?”
Một lời nói ra mà có đến hai cách hiểu.
Nếu là lúc trước, nghe thấy một câu như thế này từ miệng phụ hoàng thốt ra, Khung Tuấn chắc hẳn phải thầm mừng rỡ trong bụng. Thế nhưng giờ đây sự kích động đó đã phai nhạt đi rất nhiều. Dẫu rằng trước sau Đại Thương cũng sẽ là của hắn, Khung Tuấn chưa bao giờ quá tự tin để trở thành tự mãn. Hai huynh đệ hắn ai cũng có thế mạnh riêng, dù con đường của cả hai đã được trải sẵn từ trước, Khung Tuấn đi con đường chính trị trong khi Khung Dực đi con đường quân quyền, Đại vương tử lòng dạ cẩn trọng sâu xa luôn thực tâm hiểu rõ nhị đệ là tấm khiên che chắn cho Đại Thương, đồng thời cũng có thể là thanh đao kề lên cổ mình.
Xét về quyền thừa kế, Khung Dực chỉ xếp sau mỗi một mình Khung Tuấn. Giờ đây vì Hoàng tử địch quốc mà nhị đệ hắn công khai bất tuân ý chỉ của đại ca, cũng là tân đế, vậy sau này khi Đại Thương xua quân nam tiến liệu nhị đệ còn có thể làm ra chuyện gì?
Càng nghĩ càng hoang đường!
Người thừa kế cái gì? Căn bản nhị đệ hắn không xứng! Hắn dám cược rằng chính Hoàng đế cũng dần dần hiểu ra điều đó.
“Bẩm phụ hoàng, việc binh quan trọng hơn. Chờ nhị đệ dẹp loạn xong giặc phương bắc đợt này, mùa đông hay tới mùa xuân năm sau triệu hồi về Trích Nguyệt hỏi tội cũng không muộn.”
Hoàng đế đã uống xong ngụm trà từ lâu, nhẹ nhàng đặt chén trà xuống rồi hỏi:
“Còn gì nữa không?”
“Bẩm phụ hoàng, hình phạt phải nặng để không tái phạm. Lần này nhị đệ quá ngông cuồng rồi. Nhi thần nghĩ nên theo vương pháp…”
“Ta không hỏi việc đó.” Hoàng đế đột ngột ngắt lời. “Dĩ nhiên tội của Khung Dực phải xử theo vương pháp. Ta muốn hỏi con, ngoài việc đợi đến mùa đông hay mùa xuân năm sau thì hiện tại con còn nghĩ ra nên làm gì không?”
Lúc này Khung Tuấn mới ngớ ra. Hiện tại sao?
Trong đầu Khung Tuấn lập tức lướt qua vô số suy nghĩ, vô số khả năng, thế nhưng không có điều gì có vẻ là đáp án. Một tầng mồ hôi mỏng như sương khẽ xuất hiện trên vầng trán anh tuấn của Đại vương tử.
Lúc này Hoàng đế mới nghiêm giọng nói:
“Một năm rưỡi nữa là chúng ta xua quân khai chiến, việc đúc vũ khí, chuẩn bị lương thực, thuốc men, thu gom ngựa chiến từ Đại Mạc… đều phải chuẩn bị cho xong để còn vận chuyển về phương nam. Sắp tới sẽ bước vào giai đoạn nước rút, nhân lúc nhị đệ con và Ngọc Huyên chưa về kinh thì dồn sức làm cho xong đi.”
Khung Tuấn nghe xong thấy hơi lạ, bèn hỏi lại:
“Như vậy có e là hơi sớm không? Dù gì cũng còn một năm rưỡi nữa Ngọc Huyên mới mười tám tuổi.”
Hoàng đế đưa mắt đánh giá Đại vương tử một chút rồi lắc đầu:
“Khung Tuấn, sử sách chỉ ghi lại những trận chiến bi hùng chứ không ai ghi lại công đoạn chuẩn bị cho chúng là như thế nào. Những lò rèn ngày đêm đỏ lửa, hàng ngàn ngựa chiến quần tụ về giẫm nát cỏ Vương Đô, vũ khí và quân lương cuồn cuộn đi như thác đổ, bá tánh trong kinh nơm nớp xôn xao không dứt, đó mới chính là bộ mặt đầy đủ của chiến tranh! Trước khi khai chiến, Ngọc Huyên tuyệt đối không thể biết chuyện. Chỉ cần y có chút đầu óc và có chút trung thành với quốc gia thì sẽ lập tức tự sát. Công cuộc chuẩn bị cho chiến tranh sớm muộn gì cũng phải làm, chẳng thà nhân lúc y không có ở đây mà hoàn thành cho xong rồi vận chuyển tất cả về rìa nam Đại Mạc, từ đó về Mạc Bắc chỉ chưa tới một ngày đường. Ban đầu vốn dĩ chúng ta muốn đem y về để giám sát và đảm bảo an toàn, thế nhưng nếu sự tình đã đi lệch khỏi dự tính ban đầu thì thay vì tức giận, ta nên tận dụng nó để làm lợi cho mình. Đó mới là cái khôn khéo, cái sâu xa bậc đế vương cần có.”
Khung Tuấn nín lặng nghe Hoàng đế dạy dỗ, đoạn quỳ xuống thưa:
“Nhi thần tạ phụ hoàng dạy bảo.”
Lúc này Khung Vũ mới dịu giọng đôi phần, đoạn dặn dò trưởng tử của mình việc cuối cùng:
“Con ngay lập tức báo với Khung Dực, trước mắt cứ lo dẹp loạn sơn tộc. Sau khi xong việc thì báo tin cho Vương Đô, đồng thời báo trước thời điểm đưa Ngọc Huyên về kinh. Chúng ta phải biến bị động thành chủ động, phải làm chủ được tình huống để còn sắp xếp việc chuẩn bị cho chiến tranh.”
“Nhưng… lỡ như nhị đệ lần nữa trù trừ không chịu đưa Ngọc Huyên về kinh thì sao?”
“Hừ, kéo dài được đến bao giờ?” Hoàng đế lạnh lùng bảo. “Trễ nhất đến cuối mùa xuân năm sau nhị đệ con cũng phải về kinh thôi. Con quên năm sau có đại sự gì rồi à?”
Lúc này Khung Tuấn mới hiểu ra, lập tức thầm mắng mình thất ý. Chuyện đại sự năm sau làm sao hắn lại có thể quên kia chứ?
“Nhi thần hồ đồ! Phụ hoàng, nhi thần sẽ lập tức làm theo căn dặn của người.”
Hai bàn tay của Khung Tuấn áp xuống mặt sàn đá hoa cương lạnh lẽo. Đại vương tử nghiến răng, cố hết sức giữ vẻ mặt bình thản mà lui ra ngoài.
Bây giờ chỉ mới chớm thu, sắc trời vẫn còn trong xanh, cây cối ở Trích Nguyệt còn chưa thay lá. Gió nhẹ mát mẻ êm đềm, thế nhưng Khung Tuấn lại thấy trong lòng băng giá như vực sâu vạn trượng. Một nỗi thất vọng rất rõ ràng rót vào tâm can hắn, chảy tràn khắp mọi ngóc ngách, mọi kẽ hở, khiến môi răng cũng cơ hồ tanh ngọt mùi máu.
Là thất vọng với điều gì, với ai, Đại vương tử cũng không phân rõ.
Cuộc đối thoại vừa rồi với phụ hoàng cũng trôi đi như nước chảy qua cầu, tất cả những gì đọng lại trong tâm Khung Tuấn chỉ là giọng cười the thé của quỷ dữ và lời thì thầm bên tai.
Nhị vương tử cái gì cũng dám làm.
Chiều hôm đó khi quay về thư phòng của mình, Khung Tuấn đã thấy một xấp giấy để ngay ngắn trên bàn. Hắn liếc nhìn một chút rồi phất tay ra lệnh cho hạ nhân lui ra ngoài, đóng cửa cẩn thận, đoạn bước lại bàn ngồi xuống ghế. Xấp giấy không quá dày, thế nhưng lại cực kỳ chi tiết. Dưới ánh nến vàng, từng dòng chữ in rõ trên nền giấy lụa trắng phau còn thoang thoảng mùi mực mới.
Trần Vũ, hai mươi lăm tuổi. Trưởng tử của chủ quản Tượng Binh Trần Lượng, người có khả năng cao nhất kế thừa chức Đại Soái của cha. Sở trường thuần tượng, ném giáo, đấu vật, tinh thông binh pháp. Tính tình trầm ổn khoan thai, suy nghĩ việc gì cũng thấu đáo, chu toàn.
Trần Duy Hưng, mười tám tuổi. Thứ tử của chủ quản Tượng Binh Trần Lượng. Rất giỏi bắn cung và ám khí. Tính tình hoạt bát năng động, đã từng cùng Công chúa đi săn hổ bảy ngày bảy đêm trên dãy Hoành Sơn phía nam Kinh Lạc.
Liêm Thanh, mười bảy tuổi. Cung thủ hàng đầu trong Bộ Binh của Tống Cơ Long hiện nay. Háo thắng nhưng dũng cảm. Hơn nửa năm trở lại đây đều đóng quân tại ải Bạch Vân, Công chúa thỉnh thoảng lại đến luyện cung cùng.
Tống Hàn, hai mươi tuổi. Trưởng tử của chủ quản Bộ Binh Tống Cơ Long. Dàn quân đánh trận không mấy xuất sắc, càng không thể bì với cha. Tính tình hơi nóng nảy nhưng được cho là tốt bụng. Hứng thú với văn hơn là võ. Tống Hàn đi đi về về giữa ải Bạch Vân và Loa Thành, đã từng họa tranh chân dung Công chúa lúc Công chúa mười lăm tuổi.
Trong Tam Đại Soái, Nguyễn Giang vẫn chưa thành gia thất, chưa có người nối dõi.
Khung Tuấn giở những tấm giấy đó xem đi xem lại, đồng thời nhớ lại buổi diễn tập quân sự lần trước. Mật thám báo về rằng những công tử thế gia này đã cùng Vũ Miên uống rượu thâu đêm suốt sáng trong rừng mận, bây giờ điều tra kỹ thì xem ra quan hệ của họ không tồi. Trái với hoàng tộc Đại Thương trước giờ luôn giữ khoảng cách quân thần rõ rệt, hoàng tộc Kinh Lạc lại có lối sống rất gần gũi với gia quyến của các tướng quân và đại thần trong triều. Thế hệ hoàng tử công chúa, công tử tiểu thư gần như đều quen biết nhau từ nhỏ rồi cùng lớn lên theo năm tháng.
Khung Tuấn nhìn lại những cái tên và những dòng mô tả trên giấy thêm một lần, đoạn gấp xấp giấy lại rồi cất vào hộc tủ.
Lần trước khi hắn viết thư hỏi nàng rượu làm từ mận chín của Mạc Bắc sẽ có mùi vị thế nào, mãi gần hai tháng sau nàng mới hồi âm.
Đại vương tử,
Dân gian truyền rằng rượu của rừng mận được ủ cùng nước mắt giai nhân, uống vào rất dễ say. Một chén rượu vơi uống khi tóc xanh, cơn say theo đến lúc mái đầu tuyết trắng.
Đoàn quân của Nhị vương tử về đến doanh trại Khúc Băng buổi sáng thì ngay trong buổi chiều Khung Dực đã cùng Kỷ Phong và Lý Tao Niên chạy lên Tuyết Nhạn, nơi Nhạn Quân đang đụng độ cùng sơn tộc để tiếp ứng. Trời vừa chớm thu, gốc ngân hạnh trước biệt viện của Khung Dực vẫn còn mang màu xanh tươi tốt, chỉ có một ít lá trên tầng cao nhất là hơi ngả vàng. Ngọc Huyên ngồi ngẩn người dưới gốc cây, lòng miên man đau xót.
Từ hôm anh đuổi theo đoàn xe ngựa của Đại vương tử rồi cướp y mang về phương bắc, anh đã ít nói ít cười hơn mọi khi. Ngay cả những vị tướng quân thân cận như Kỷ Phong, Lý Tao Niên, Đinh Đại Đồng và Lăng Kỳ Anh cũng thêm phần trầm mặc. Trên đường hành quân vội vã, lại còn nhận được tin ở Tuyết Nhạn có biến nên mọi người càng gấp rút quay về. Ban ngày họ đi mải miết từ hừng đông đến tối mịt, ban đêm chỉ nghỉ ngơi chợp mắt vài canh giờ. Thế mà tối đến khi hạ trại, anh vẫn đều đặn chui vào xe ngựa phủ chăn lên người y rồi dỗ y ngủ. Những lúc đó Ngọc Huyên chỉ có thể giấu mặt vào trong ngực anh để che đi hai dòng nước mắt nóng hổi chực trào ra.
Y biết sau lần này, mối quan hệ giữa anh và Vương Đô sẽ rơi vào căng thẳng. Thế nhưng y cũng hiểu, anh không muốn nhắc đến chuyện đó, có lẽ anh không muốn y lo lắng, bận lòng.
Hành động cướp người của anh thoạt nhìn có vẻ như là một thoáng ngông cuồng, tuy nhiên Ngọc Huyên biết rõ, trong lòng anh chắc chắn đã cân nhắc kỹ hậu quả của việc này. Thậm chí anh còn sẵn sàng đối mặt với nó.
Thực tế chứng minh Ngọc Huyên nghĩ không sai. Lúc đang song song phi ngựa lên Tuyết Nhạn, Khung Dực liếc Kỷ Phong một cái rồi nói:
“Muốn cằn nhằn mắng chửi gì thì cứ nói hết đi, ngươi nhịn mấy ngày cũng đủ rồi đấy.”
Trái lại, Kỷ Phong chỉ im lặng lắc đầu. Đưa tay gạt phăng một cành cây chắn ngang đường, Kỷ Phong nắm chắc dây cương rồi thúc gót, con chiến mã của hắn hí lên một hồi dài.
“Không có.” Kỷ Phong đáp lời. “Thuộc hạ còn hâm mộ ngài là đằng khác.”
Khung Dực nghe ra lời Kỷ Phong nói không có một chút mỉa mai nào. Hắn quay sang nhìn người thân vệ đã ở bên cạnh mình rất nhiều năm, đoạn nén một tiếng thở dài.
Nhị vương tử còn có bản lĩnh đoạt lại người thương, trong khi bản thân hắn cho dù là dũng khí thốt ra ba chữ “ngươi đừng đi” cũng không hề có.
“Lần này ngài định giải thích với Vương Đô thế nào?”
“Giải thích gì nữa, chẳng phải đã quá rõ ràng rồi sao?” Khung Dực rạp người né một mớ dây leo lòa xòa buông thõng xuống ngang đường ngựa chạy. “Tội nhất định phải nhận, hình phạt nhất định phải chịu. Thế nhưng vẫn còn có thể lấy công chuộc tội.”
“Ý ngài là lần đánh đuổi sơn tộc này à?” Kỷ Phong thắc mắc hỏi. Phía trước đã thấy thấp thoáng bóng người cùng tiếng va chạm leng keng của binh khí. Lẫn trong gió là mùi máu tanh nhàn nhạt.
“Dĩ nhiên là không.” Khung Dực nói rồi tuốt trường kiếm bên hông ra, cùng lúc đó Kỷ Phong cũng rút mũi tên lắp vào dây cung, sẵn sàng tương trợ Thống lĩnh Nhạn Quân lâm trận.
Trước khi giục Tiểu Hổ xông vào giữa chiến trận, Khung Dực nhìn thẳng vào Kỷ Phong rồi nói với hắn tám chữ rành rọt:
“Diệt xà, trảm thủ, mang về kinh đô.”
Lúc Kỷ Phong còn đang sững sờ chưa kịp định thần “tiêu hóa” tám chữ đó thì đã nghe tiếng Lâm Sách kêu lên mừng rỡ.
“Thống lĩnh! Kỷ Phong! Lão Lý! Mọi người về rồi à?”
Khung Dực quét trường kiếm gạt phăng những mũi phi tiêu đang lao lại từ chiến tuyến bên kia, đoạn nhảy xuống Tiểu Hổ rồi phóng đến bên cạnh Lâm Sách.
“Lâm Sách! Thế nào, lần này đánh rát không?” Khung Dực tóm một mũi tên ghim trên thân cây gần đó, đoạn giật ra xem xét. “Tên không có độc, của tộc Nùng.”
“Bẩm Thống lĩnh, đúng thế. Lần này chúng ta đụng độ với tộc Nùng và Dao Tán, không phải Kỉ Di và Hồ tộc. Đánh được hơn mười ngày rồi, thế nhưng bọn chúng vốn yếu hơn Hồ tộc và Kỉ Di nên tạm thời Nhạn Quân vẫn giữ thế thượng phong.”
“Vì sao lại xảy ra xung đột?”
“Bọn chúng vòng xuống chân núi để đi qua mạn đông, có vẻ như muốn hội quân với tộc Hồ và Kỉ Di. Bình thường thì bốn bộ tộc này chỉ họp mặt khi đi chợ phiên và khi làm lễ tế xà, không hiểu sao lần này lại còn dẫn quân đi. Nghi ngờ có biến nên thuộc hạ chủ động chặn đường chưa cho chúng qua. Hai bên giằng co cũng mười ngày nửa tháng rồi, thuộc hạ cũng gửi thư chiến báo về cho Vương Đô rồi ạ.”
“Làm tốt lắm.” Khung Dực gật đầu, đoạn đưa mắt nhìn lên lưng chừng núi. Cây cối trên Tuyết Nhạn cũng đang dần ngả màu vàng, tít trên đỉnh núi thì lúc nào cũng trắng xóa một màu của băng tuyết ngàn năm. Cũng vào thời gian này, chính là mùa thu năm ngoái, hắn và Ngọc Huyên đã đụng độ Hỏa Xà lần đầu tiên.
“Đợt này cứ chậm rãi mà đánh, không vội.” Khung Dực hướng ánh nhìn về phía bên kia chiến tuyến. Trong bốn sơn tộc hiện đang cư trú trên Tuyết Nhạn, Hồ tộc là mạnh nhất, kế đến là Kỉ Di. Hai tộc này ở cùng nhau bên sườn núi phía đông nên cũng thân thiết với nhau hơn, lại còn hay xua binh quấy phá biên cương và thị trấn. Tộc Nùng và Dao Tán tuy cũng ở cùng nhau bên sườn núi phía tây, thế nhưng lại phối hợp không nhịp nhàng như tộc Hồ và Kỉ Di. Cứ đà này, chiến sự càng kéo dài thì bên chịu tổn hại cũng là bọn họ.
“Thống lĩnh, hay là cố bắt cho được vài tên sơn tộc rồi tra hỏi xem sao? Ngoài việc chặn đường, chúng ta cũng cần phải biết bọn chúng hội quân với nhau để làm gì.” Kỷ Phong tay vẫn nắm chắc cung tên, bước lại gần Lâm Sách và Khung Dực rồi đề nghị.
“Cũng được, nhưng tính tình sơn tộc thì các ngươi cũng biết rồi đó. Bị bắt là chỉ có mỗi một việc chửi rủa hoặc im lặng thôi, cũng chẳng bao giờ khai ra cái gì. Cứ thử bắt vài tên lần này xem sao.” Khung Dực nói rồi ra hiệu cho nhóm cung thủ lui xuống, kị binh mang trường thương chuẩn bị dàn đội hình xông lên.
Địa hình này không lý tưởng lắm để kị binh phát huy tối đa sức mạnh, nhưng hắn cũng muốn thử ép sơn tộc thêm một chút xem bọn họ sẽ giở tiếp chiêu gì. Lúc đâu đã vào đấy, binh lính cũng đã hàng ngũ chỉnh tề chỉ còn chờ lệnh, Lâm Sách đến bên cạnh Khung Dực rồi nói nhỏ:
“Thống lĩnh, cả năm qua Hỏa Xà vẫn bặt vô âm tính. Thuộc hạ tìm nát sườn núi bên này rồi mà vẫn không thấy tăm hơi.”
“Ừm, ta cũng không ngạc nhiên.” Khung Dực nheo mắt nhìn lên đỉnh núi im lìm, ánh nắng chiều đã bắt đầu loang ra một màu cam đỏ, rọi xuống dốc núi phủ tuyết mịn như nhung. “Chắc chắn con rắn đó đã rúc vào hang ổ của nó bấy lâu nay rồi. Đó phải là nơi cực kỳ kín đáo, hoặc là nơi chúng ta không ngờ đến.”
“Thống lĩnh, vậy…”
“Chuyện đó tạm gác lại, đánh giặc cho xong trận này đã. Khi về chúng ta nói sau.” Khung Dực vỗ vai Lâm Sách rồi hất đầu về bên kia chiến tuyến, ra hiệu đã tới lúc xông lên.
“Rõ, thưa Thống lĩnh!”
Trận đánh đó cũng không mấy vất vả với Nhạn Quân. Sơn tộc cố gắng gượng được chừng ba bốn ngày thì đành rút quân, lùi sâu vào lòng núi. Khung Dực thấy thế cũng không truy sát mà chỉ hạ lệnh cho các tướng lĩnh vẫn đóng quân chốt chặn, phòng ngừa bọn chúng lại lẻn qua. Trong mấy ngày giằng co qua lại, Kỷ Phong đã bắt được một gã cung thủ người Nùng. Đúng như Khung Dực dự đoán, gã người Nùng này từ khi bị bắt đến khi bị tra khảo vẫn câm như hến.
Đến cuối ngày thứ tư, khi Khung Dực cùng các tướng soái chủ chốt chuẩn bị quay về doanh trại Khúc Băng sau khi sơn tộc rút sâu vào trong núi, gã người Nùng đang bị trói trong cũi chợt nhìn bọn họ rồi nói bằng thứ tiếng lơ lớ đặc trưng, sắc mặt cực kỳ u ám:
“Không còn nhiều thời gian đâu.”
Động tác lên ngựa của Khung Dực khựng lại. Hắn quay sang nhìn tên cung thủ nọ, mãi một lúc sau mới kéo dây cương giục ngựa rời đi.
Lúc về đến biệt viện, Khung Dực thấy Ngọc Huyên đã ngủ quên dưới gốc cây ngân hạnh từ bao giờ. Lẽ nào ngày ngày y đều ra đây ngồi đợi hắn quay về? Khung Dực thấy lòng nhói lên một cái, hắn vội vàng bước tới, gỡ chiếc áo choàng trên người ra đắp kín cho y, đoạn cùng ngồi xuống rồi khẽ kê vai vào cho người kia gác đầu lên.
Tán ngân hạnh lao xao, rì rào trong gió. Một vài chiếc lá vàng đầu tiên của mùa thu khẽ khàng đáp xuống sân.
Nhị vương tử có linh cảm chắc chắn rằng gã người Nùng đó đang nói đến Hỏa Xà. Thế nhưng lời nói đó cũng ứng nghiệm với tình cảnh của hắn và Ngọc Huyên.
Nếu hắn đoán không sai, tới cuối mùa đông năm nay cả hắn và Ngọc Huyên đều sẽ bị triệu hồi về kinh.
Tầm bảy ngày sau đó, việc chuẩn bị hậu cần cho đoàn quân chinh tây đã hoàn tất. Vào một buổi sáng mùa thu, trời rất cao và rất trong, Khung Dực, Lâm Sách, Lê Quảng Mục và Kỷ Phong làm lễ tiễn quân rồi cùng cưỡi ngựa đến tận cùng mảnh rừng trên sườn tây Tuyết Nhạn, đi cùng đoàn quân chinh tây một đoạn cuối cùng. Vượt qua mảnh rừng này là ra khỏi lãnh thổ Đại Thương. Phía bên kia chính là đầm lầy với bao hiểm nguy cùng những điều chưa biết rõ đang chờ đợi họ.
Một điều ngẫu nhiên là đoàn quân chinh tây này đa phần đều bao gồm những thiếu niên tuổi đời còn rất trẻ từ Nhạn Quân lẫn đội dân binh của dải Chinh Sa, sức sống bừng bừng. Vì nhiều lý do khác nhau mà họ xung phong dấn thân cất bước trên con đường viễn chinh vạn dặm, thế nhưng tất cả đều có chung một niềm tin hừng hực của tuổi trẻ.
Bọn họ sẽ chinh phục được vùng đất mới, vinh hiển quay về.
“Thống lĩnh! Chúng thuộc hạ đi đây!”
“Các vị tướng quân bảo trọng nhé!”
“Này, các ngươi ở lại nhớ chăm chỉ luyện tập đấy, khi ta về lại đấu một trận phân cao thấp, thế nào? Hahahaha!”
Khung Dực xuống ngựa, bước theo vài bước rồi vẫy tay với lũ nhóc. Hắn không còn vẻ nghiêm nghị đạo mạo của Thống lĩnh Nhạn Quân nữa, hắn giờ đây trông như một người huynh trưởng bình thường, nén xuống đau lòng mà tiễn huynh đệ lên đường. Từng người từng người thiếu niên bắt đầu bước khỏi khu rừng vàng rực của Tuyết Nhạn mà đặt chân vào một vùng đất cỏ lau cao ngút ngàn, đất xốp mềm như cát chảy. Đứng từ trên sườn núi nhìn theo chỉ còn thấy thấp thoáng những bóng người trên lưng ngựa, trường thương sáng loáng gác trên vai.
Lăng Kỳ Anh là người cuối cùng đứng lại.
Bộp. Khung Dực vứt cho Kỳ Anh cây trường thương của mình, hoàn toàn không nói gì thêm. Kỳ Anh sung sướng đón lấy, đoạn nhìn Khung Dực cười toe.
“Ngài không tiếc thật à, Thống lĩnh?”
“Hừ, phí lời!” Khung Dực nhảy lên Tiểu Hổ rời đi trước. “Nhớ rõ mệnh lệnh của ta đấy, Kỳ Anh.”
Một chốc sau, Khung Dực phi ngựa đi được một đoạn chừng nửa dặm thì đã thấy Kỷ Phong đuổi kịp, cùng mình song song đi về doanh trại.
“Nhanh vậy à?” Khung Dực ý nhị hỏi.
Kỷ Phong không đáp, chỉ ngoái lại nhìn miền đất cỏ lau xa tít tắp đằng sau, bóng hình người thiếu niên cũng đã dần mờ nhạt.
Hơi thở ấm nóng của hắn dường như vẫn còn vấn vít bên môi, tuy nhiên lời hắn nói ra lại như móc câu cào nát trái tim, để lại một vết thương sâu hoắm.
Kỷ đại ca, quên ta đi.
Khi mùa thu càng đi về cuối, lúa mì, lúa mạch cũng chín vàng, ruộng ngô xanh mướt đầy những bắp ngô căng mẩy. Khu rừng trên sườn dốc phía tây và gốc ngân hạnh trước biệt viện của Khung Dực thay lá vàng rực rỡ, lao xao lấp lánh trong gió thu mát mẻ. Về đêm, bầu trời cũng trong vắt, khí lạnh tràn vào doanh trại khiến người ngồi bên đống lửa như cũng muốn nhích lại gần nhau hơn, chia nhau vò rượu, cùng nhau sưởi ấm.
Thế mà chén rượu vẫn cứ phai hương nhạt nhòa.
Từ khi đoàn quân chinh tây đi rồi, không khí trong doanh trại cũng trầm lắng ít nhiều. Những lần Ngọc Huyên xuống ruộng lúa thăm mùa thu hoạch rồi lại ghé thị trấn dạo quanh, cũng vẫn khu chợ đó, những gian hàng đó, những con phố đó, thế nhưng tiếng nói cười, tiếng trêu hoa ghẹo nguyệt của những dân binh thiếu niên đã không còn nữa. Về đến biệt viện, y lại thấy gương mặt phảng phất vẻ nặng nề, buồn bã của Khung Dực, lòng y lại cuộn lên từng cơn đau nhói.
Trong một bữa cơm chiều nọ, Ngọc Huyên múc ra chén canh súp củ cải hầm cho Khung Dực, đoạn khẽ hỏi:
“Ngày mai… anh có thời gian rảnh không?”
Khung Dực nãy giờ chỉ lấy đũa gẩy gẩy miếng cơm trong chén, lúc này mới như sực tỉnh mà ngẩng lên nhìn Ngọc Huyên:
“Em nói gì cơ?”
Ngọc Huyên cười dịu dàng, gắp vào chén của Khung Dực một ít thịt xào nấm rồi nói:
“Nếu anh có thời gian… anh đưa em lên núi ngắm lá vàng được không? Em thấy mùa thu đang rất đẹp, muộn vài hôm nữa có khi lá lại bắt đầu rụng rồi.”
“Em… muốn đi chơi à?” Khung Dực ngẩn ra một tí rồi lập tức vui vẻ hẳn ra. “Được chứ! Ta đưa em đi!”
Nói xong lời ấy Nhị vương tử mới nhận ra, trước giờ Ngọc Huyên của hắn chưa từng chủ động đòi đi đâu du ngoạn cả. Lần này có lẽ y chỉ muốn tìm cớ để đưa hắn ra ngoài cho khuây khỏa mà thôi. Từ sau khi Kỳ Anh đi, Kỷ Phong tuy cố tỏ ra bình thường nhưng Khung Dực vẫn biết hắn buồn. Hàng đêm góc nhóm lửa ở phía sau doanh trại, nơi mà nhóm tướng sĩ hay ngồi trò chuyện, uống rượu ăn khuya sau ca trực, lúc nào cũng có thể bắt gặp bóng dáng Kỷ Phong ngồi một mình. Thỉnh thoảng Khung Dực sẽ đến ngồi cùng y, có khi đến tận nửa đêm, hai người một chủ nhân một thân vệ cứ thế mà ngồi chẳng nói một câu. Cũng có khi, Kỷ Phong hơi ngà ngà say sẽ bật ra một câu chửi đổng:
“Mẹ nó! Nói thì dễ lắm!”
Tâm sự nặng nề của Khung Dực còn đến từ một việc khác. Càng gần đến mùa đông, việc bị triệu hồi về kinh càng không thể trốn tránh, thế nhưng hắn và Lâm Sách vẫn chưa tìm thấy tung tích Hỏa Xà. Một chút manh mối về nơi nó đang ẩn náu cũng chẳng có.
“Anh đừng nghĩ nữa, ăn đi mà.”
Ngọc Huyên đã chuyển qua ngồi cạnh hắn từ bao giờ, trên tay là một đũa thịt xào nấm đang đưa lên tận bên môi. Khung Dực bừng tỉnh đầy áy náy, vội há miệng tợp hết đũa thức ăn rồi vòng tay kéo Ngọc Huyên lên ngồi trên đùi mình, giấu mặt vào suối tóc đen huyền của y.
“Anh làm gì vậy haha, vậy sao mà ăn?” Ngọc Huyên ngọ nguậy trên đùi hắn.
“Đừng ngọ nguậy nữa, nếu không mới thật sự ăn không xong bữa cơm này đấy.” Khung Dực giả vờ nghiêm giọng cảnh cáo, quả nhiên người kia lập tức ngoan ngoãn, ấm ức ngồi im.
Ngày hôm sau, Khung Dực đưa Ngọc Huyên đi lên sườn núi phía tây nơi có khu rừng ngân hạnh đang thay lá vàng rực rỡ. Để ít gây động tĩnh, Khung Dực chỉ dẫn theo Kỷ Phong cùng mười thân vệ tinh nhuệ để họ làm trinh sát và bảo vệ vòng ngoài. Khung Dực và Ngọc Huyên thì cưỡi Tiểu Hổ và Tiểu Bạch mà đi ở vị trí giữa. Dạo này tộc Nùng và Dao Tán đã lùi vào sâu phía trong núi trong khi Nhạn Quân vẫn còn đóng quân đề phòng, thế nên đoạn sườn núi này rất an toàn.
Đến khu rừng đó, Ngọc Huyên và Khung Dực xuống ngựa tản bộ. Ánh nắng mùa thu chiếu xuyên qua những tán lá vàng rực, bên dưới mặt đất cũng trải một lớp thảm lá vàng mềm mại. Để ý toán hậu vệ và Kỷ Phong đang cách khá xa, Ngọc Huyên nhẹ nhàng đưa tay nắm lấy tay Khung Dực, hai bàn tay mười ngón đan xen.
“Cảm ơn anh.” Ngọc Huyên khẽ nghiêng đầu nhìn Nhị vương tử, môi nhoẻn miệng cười.
Hắn đưa tay người đó lên môi hôn nhẹ: “Ta phải cảm ơn em mới đúng.”
Hai người đi dạo mải miết một lúc dưới những tán ngân hạnh vàng, thỉnh thoảng có vài chiếc lá rơi nhè nhẹ, lãng đãng đáp xuống tóc, xuống vai. Đến bên một dòng suối nhỏ, Ngọc Huyên ngồi xuống đưa tay chạm vào làn nước trong vắt, chợt kinh ngạc kêu lên một tiếng. Hóa ra đây là ôn tuyền! Lúc nãy y mới nhìn kỹ, dòng suối róc rách này quả đúng là có làn khói mờ mờ bay lên.
“Đúng rồi, năm đó ta từng cùng đám quân binh tắm táp ở đây. Kể cũng lạ, không ai ngờ một ngọn núi mà trên đỉnh lúc nào cũng có tuyết phủ quanh năm lại có thể sinh ra ôn tuyền.” Khung Dực ngồi xuống cạnh Ngọc Huyên rồi nói.
“Em… muốn xuống tắm không?” Nhị vương tử len lén đưa mắt liếc nhìn người ta, đánh bạo hỏi một câu.
Ngọc Huyên có lẽ đang chìm trong một dòng suy nghĩ nào đó, ngẩn người mơ màng. Dường như y đã đọc qua về ôn tuyền, nhưng đã là chuyện của rất nhiều năm trước, từ khi còn ở Kinh Lạc cơ. Dọc theo những dòng ôn tuyền trên núi tuyết như thế này thường có…
“Ngọc Huyên! Em đang nghĩ gì vậy?”
Ngọc Huyên chợt đứng dậy rồi đi dọc theo dòng suối, vừa đi vừa nhìn xuống đất tìm quanh. Khung Dực không hiểu việc gì, thế nhưng cũng lập tức đi theo. Một lúc sau, Ngọc Huyên reo lên mừng rỡ:
“Em tìm thấy rồi! Thật sự là có dây ngân châm mọc trên đất cạnh bờ suối này, anh xem!”
Khung Dực tiến lại rồi nhìn vào lòng bàn tay Ngọc Huyên, trên đó là một nhánh cỏ màu xanh nhạt đang trổ những chùm hoa trắng nho nhỏ, cánh hoa tua tủa ánh bạc đâm ra như những bó ngân châm.
“Hử, sao em tìm thấy nó lại vui như vậy?” Nhị vương tử đời nào lại chú ý đến hoa cỏ, thế nhưng do thấy người kia vui như vậy nên hắn cũng tò mò.
“Anh không biết đó thôi, hoa này là một loại thảo dược rất quý, chuyên dùng để trị những vết thương lở loét, mưng mủ róc thịt, cả những vết bỏng nặng. Ở Kinh Lạc bọn em không có ôn tuyền, chỉ có thể tìm mua của các thương lái ngoại bang, giá vô cùng đắt. Ở đây dây ngân châm lại mọc dại thế này, tốt quá!” Ngọc Huyên cười híp cả mắt, sung sướng giảng giải, đoạn nâng niu đóa hoa như trân bảo trên tay.
Khung Dực chợt nghe lòng khẽ động một cái. Trị vết bỏng nặng à?
“Ừm… Vết bỏng nặng mấy cũng trị được sao?”
“Phải, trị được hết ạ. Hoa này giã nhuyễn rồi trộn thêm với dầu dừa, sáp ong cùng nhiều loại vật liệu khác, vết bỏng đến nát thịt nát da vẫn trị được.”
Nhị vương tử đằng hắng vài cái, đoạn đưa tay vén gọn mớ tóc lòa xòa trước trán của Ngọc Huyên rồi ôn tồn bảo:
“Vậy em hái đi, hái nhiều vào, mang về đưa cho lang y bào chế sẵn.”
Ngọc Huyên đang vui vẻ liền gật đầu rồi ngồi xuống hái, bất chợt bàn tay y đông cứng lại. Y ngẩng đầu lên nhìn Khung Dực, vừa dè dặt, vừa thắp lên hy vọng mà hỏi:
“Thuốc này… làm cho ai dùng vậy anh?”
Khung Dực im lặng không trả lời. Hắn chẳng muốn nói dối, lừa gạt y thêm nữa. Gần như ngay lập tức, Ngọc Huyên đã hiểu ra tất cả. Y nhào tới ôm chầm lấy Khung Dực, run rẩy, lắp bắp, nghẹn ngào.
“Không… không… anh ơi!”
Nhị vương tử vòng hai tay ôm lấy người kia, giọng nói bình thản đầm ấm không nghe ra một chút gì sợ hãi. Hắn chỉ đau lòng vì người kia của hắn đau lòng mà thôi.
“Không sao đâu, em đừng khóc. Sẽ không sao cả.”
Hình phạt dành cho tội kháng chỉ bất tuân của Đại Thương là chịu bảy lần gậy sắt đánh vào lưng. Cái khắc nghiệt ở đây là gậy sắt sẽ được nung trong lửa đỏ đến khi nóng rực, khi đánh vào cháy thịt cháy da, người chịu hình nếu không được trị thương kịp thời thì một là thương tật vĩnh viễn, hai là vết thương mưng mủ, nhiễm trùng mà chết.
Thân là Nhị vương tử kiêm Thống lĩnh Nhạn Quân, tri pháp phạm pháp, tội nặng gấp ba lần. Hắn sẽ phải chịu hai mươi mốt gậy.
Bên cạnh dòng ôn tuyền tỏa khói lững lờ, dưới những tán cây ngân hạnh vàng rực, Nhị vương tử cúi đầu vùi mặt vào mái tóc đen của người thương, ước ao sao mái tóc này chỉ dành cho hắn, và sẽ có một ngày hắn bình đạm ngồi cạnh bên y, nhìn mái tóc đó bạc dần theo tháng năm.
Dường như hôm đó cũng là ngày mùa thu đi về cuối.