Thiên thần của tôi rất lương thiện, cho nên Thượng Đế mới vội vàng gọi cô ấy về bên mình.
—–
Chương 4
“Chào người…” Tôi mơ hồ nhìn chằm chằm mặt linh mục, “Người… thật sự là linh mục à?”
Công tước không chút khách khí nào mà cất tiếng cười to, cười đến nỗi mặt tôi đỏ bừng, mà linh mục cũng có chút lúng túng, “Nói chính xác thì tôi là một linh mục truyền giáo, nhưng vì linh mục giáo xứ ở đây đang bị ốm, nên tôi sẽ ở lại ngôi làng này mấy tháng.”
“Xin lỗi.” Tôi hận mình không thể biến thành chuột đồng.
“Không sao, tôi cũng không ngại.” Linh mục hiền hoà ra hiệu cho tôi, “Ngài có muốn đến thăm nghĩa trang chút không?”
Ra khỏi nhà thờ rồi đi thẳng chính là nghĩa trang của gia tộc Saint Clair, khi đi qua cánh cổng màu trắng, chúng tôi nhìn thấy những hàng bia mộ, từ trang trọng nhất cho đến đơn giản cả một cái tên cũng không có, tất cả đều bị ăn mòn bởi mưa gió mà trở nên gồ ghề. Linh mục dẫn tôi đến cửa đi vào một mảnh đất trống, vén tấm vải bạt bên cạnh lên để lộ ra bia mộ đã được chạm khắc một nửa, phía trên có bức tranh Thánh Peter mở cánh cửa lên thiên đàng.
“Thế nào? Có hài lòng với nơi này không?” Công tước ngồi xổm xuống vuốt khối bia mộ kia, “Cha mẹ chúng tôi ở quanh đây, Mary sẽ không cô đơn. Tôi biết cậu rất muốn lấy danh nghĩa là chồng để lập bia, như vậy cậu cũng có thể ở bên nó.”
Hắn ta nói không hề sai, quả thật tôi có ý niệm này: “Vậy cứ viết như thế đi: Thiên thần của tôi rất lương thiện, cho nên Thượng Đế mới vội vàng gọi cô ấy về bên mình.”
Gió nhẹ đưa lá cây kêu xào xạc, công tước và linh mục nhất thời cũng không lên tiếng.
Có thể vì sắc mặt của tôi khiến người khác lo lắng, công tước đột nhiên đứng dậy nắm lấy vai tôi, hơi nóng từ bàn tay hắn cách lớp quần áo truyền tới cơ thể, tôi xúc động không chút nghĩ ngợi mà dịch qua bên mấy bước.
Hắn sững người một chút rồi ngay sau đó vỗ tay: “Ừm, tốt lắm. Tôi không thích chỗ này, chúng ta đi được chưa?”
“Được.” Linh mục lập tức phối hợp, “Tôi nghĩ ngài Pontona có thể không thoải mái lắm, hay là đến phòng tôi uống tách cà phê thì tốt hơn.”
Tôi cười gượng mấy tiếng: “Cám ơn, không cần đâu. Tôi chỉ muốn biết khi nào thì tang lễ sẽ cử hành.”
“Ba ngày sau.” Công tước xoay người đi về phía cửa, “Tôi sẽ mời mấy vị bạn bè thân thích, có lẽ cậu thích thích họ.”
Lâu đài Almet thật sự to lớn đến không hợp lẽ thường.
Mặc dù đã là ngày thứ ba tôi ở đây, nhưng chỉ cần hơi không chú ý, tôi vẫn sẽ đi lạc giữa những hành lang và cầu thang ngang dọc đan xen. Giống như bây giờ, tôi mới ở với Mary được một lát, nghĩ đến phải từng chút từng chút làm quen với hoàn cảnh ở nơi này, không cẩn thận đã không tìm được phương hướng. Quả thật tôi không hiểu được công tước làm sao có thể chịu đựng được ngôi nhà khiến người khác nhức đầu thế này. Lúc mà tôi đem thứ ý nghĩ này nói cho quản gia McWebber, ông ta lại lộ ra nụ cười châm chọc:
“Ngài không biết sao, ngài Pontona? Đại nhân lớn lên ở chính nơi này, mà bây giờ ngài ấy thường ở tại London, chỉ có mùa hè và mùa đông mới quay về đây nghỉ ngơi.”
Đổi lại là tôi, một người ở một mình trong ngôi nhà lớn như vậy cũng sẽ trốn thôi.
“Xin hãy nhanh lên, các vị khách đã đến đông đủ.”
Tôi không biết làm sao đi theo ông ta đi lên tầng một, quẹo vào hành lang phía đông. Ông vỗ tay, hai người hầu nam khom người mở cửa cho tôi.
Đầu bên kia bàn ăn rất dài đã có mười mấy vị khách ngồi, người hầu liên tục đem các loại thức ăn phong phú đặt lên bàn, tôi giống như một đứa trẻ mắc lỗi, vội vàng xin lỗi vì tới trễ, sau đó đến ngồi xuống bên trái công tước.
“Ngài Pontona, mặt ngài đỏ quá! Nóng lắm sao?” Người đang nói chuyện chính là cô gái ngồi ghế thứ tư phía đối diện, cô có một mái tóc dài màu vàng sáng cuộn vào trên vai, trong ánh mắt sáng ngời lộ ra vẻ ngây thơ.
“Không, không có, tiểu thư Bernstein, cô đừng lo.” Cô ấy là em họ của Mary, là một cô gái rất xinh đẹp.
“Nhưng mà dáng vẻ của ngài Pontona bây giờ thật đáng yêu.” Phu nhân Berry ngồi bên cạnh tôi cười khẽ, cánh tay đầy đặn của bà chạm vào tôi. Bà là dì của Mary, là một vị phu nhân rất có phong thái.
Trước mặt hai người phụ nữ, mặt tôi càng đỏ hơn, may thay công tước đã kịp thời đưa cho tôi một ly rượu khai vị.
Khách khứa trên bàn ăn bắt đầu nói đủ thứ chuyện từ bắc chí nam, có thể thấy được bọn họ đều quen biết lẫn nhau, mà tôi mặc dù đã được công tước giới thiệu vẫn cứ giống như người ngoài không thể chen miệng vào. Tôi hy vọng dường như có thể từ bọn họ nghe ra được một ít chuyện xưa liên quan đến Mary.
Đối với những chuyện xưa cũ, những người này dường như đều có sự ăn ý nhất định, các quý cô cũng chỉ nói về những chuyện lãng mạn trong xã hội London, mà các quý ông thì miệng không rời chuyện chính trị. Sắc mặc tôi ảm đạm cắt miếng thịt trâu trong đĩa, chỉ muốn bữa ăn tối này kết thúc thật nhanh.
“Sao vậy, không vừa ý với tài nghệ của đầu bếp à?” Công tước ghé lại gần lỗ tai tôi nhẹ nhàng hỏi.
“Không, không có! Ngon lắm!” Tôi vội vàng nuốt một miếng lớn.
“Đừng suy nghĩ quá nhiều.” Hắn lắc ly rượu vang đỏ, “Thật ra thì những người này cũng chỉ là biết Mary mà thôi.”
“Vậy tại sao phải mời họ tới? Anh không phiền hà sao?” Tôi không nhịn được hạ giọng phàn nàn.
“Đây là chuyện giữ thể diện.” Hắn lạnh như băng giải thích cho tôi, đồng thời mỉm cười nâng ly về phía nam tước phu nhân Siena hỏi thăm.
“Đại nhân!” Đột nhiên cửa bị mở ra, quản gia McWebber vội vã đi đến bên tai công tước thấp giọng nói mấy câu. Các vị khách đều ngừng trò chuyện, kinh ngạc nhìn bọn họ. Công tước mặt không thay đổi phất tay một cái, tỏ ý bảo ông ta đi xuống.
“Có chuyện gì sao?” Tôi nghĩ thầm, ngay khi ý nghĩ đó xuất hiện, một người đàn ông toàn thân đều là nước mưa nghênh ngang tiến vào phòng ăn.
“Thật xin lỗi, các vị!” Gã lớn tiếng hét lên, cởi áo khoác ném cho người hầu, “Xe ngựa của ta hư dọc đường, lại còn mắc mưa, không đến dự bữa tối đúng giờ được!”
Trong phòng ăn yên lặng như tờ, chỉ có tiểu thư Bernstein mặt xanh tái, thốt lên tiếng kêu nho nhỏ.
“Hoan nghênh anh, Fries.” Công tước đứng dậy khỏi chỗ ngồi, “Mau ngồi đi, anh nhất định đã đói rồi. Joey, đi chuẩn bị một bộ bát đĩa cho ngài Warren.”
Người trẻ tuổi với mái tóc màu nâu sẫm thoải mái ngồi thẳng xuống cuối bàn, hoàn toàn không hề cám ơn công tước. Các vị khách trố mắt nhìn nhau, cố gắng làm ra vẻ thoải mái. Tôi đánh giá vị khách không mời mà đến này có vóc dáng cường tráng, tướng mạo anh tuấn, không thể nhớ nổi người này là ai. Lúc Mary còn sống chưa từng kể cho tôi nghe nàng có một vị thân thích như vậy.
Bầu không khí trong bữa ăn tối trở nên rất kỳ lạ; hầu hết các vị khách đều ngừng trò chuyện, chẳng qua chỉ thỉnh thoảng xì xào bàn tán với người bên cạnh. Tôi hơi khó hiểu quay đầu sang nhìn công tước, hắn ta trước sau vẫn luôn mỉm cười với tôi.
Tôi đoán có lẽ vịkhách này có quan hệ khó nói với những người có mặt ở đây, “Nhưng đây khôngphải là chuyện của tôi.” Tôi lãnh khốc tự nhủ, “Bất kể thế nào, chỉ có tang lễngày mai mới quan trọng nhất, Mary của tôi mới là trọng yếu nhất.”