– Ta chỉ biết Tế Cổ Trai có liên hệ với Du Li Cốc, mà muốn vào được Tế Cổ Trai rất khó, ta đang đau đầu thì nhìn thấy Công chúa. Công chúa vốn có bản lĩnh thưởng thức tranh chữ, lại tới Tế Cổ Trai làm việc, thế nên, Công chúa là người thích hợp nhất để điều tra tung tích của Du Li Cốc, cứu Tường Vi quận chúa.
Khi ánh mặt trời chiếu xuống sân vườn, Vĩnh Dạ đứng trong sân hít thở không khí trong lành của buổi sớm mai. Lấy nước giếng rửa mặt, những giọt nước táp lên, mang tới cảm giác mát mẻ, dễ chịu.
Nguyệt Phách từ bên ngoài bước vào, vui vẻ búng trán nàng, nói:
– Ta mang thảo dược trong vườn đi bán ở tiệm thuốc phía tây thành, nàng ngoan ngoãn ở nhà chờ ta. Đều là thảo dược quý hiếm, ngày nào cũng nhìn thấy nên quên mất. Về ta sẽ mua đồ ăn ngon cho nàng. Cháo ở trong bếp, tối qua không ăn, nhớ ăn đấy.
Vĩnh Dạ đang định nói về chuyện mang cầm viên ấn thạch, nghĩ lại nên dành cho Nguyệt Phách một bất ngờ nên không nói nữa, cười vui vẻ đồng ý.
Nguyệt Phách cẩn thận nhổ mấy cây thuốc lên cho vào giỏ trúc, xoa đầu Vĩnh Dạ, cúi đầu hôn lên má nàng một cái, thấy nàng ngây người nhìn mình thì mỉm cười đi ra cửa.
Vĩnh Dạ đứng trong sân xoa mặt xuất thần, hơi thở của Nguyệt Phách khi cúi đầu hôn nàng dường như vẫn còn vương, một lát sau nàng vui sướng nhảy cẫng lên. Nguyệt Phách hôn nàng rồi, nàng không hề thấy phản cảm, nàng không phải là nam nhân! Chắc chắn không phải là người bị trở ngại tâm lý.
Vĩnh Dạ vui vẻ tìm bộ trường bào vải xám của Nguyệt Phách, cắt ngắn tay và vạt áo đi, cái áo rộng rãi khoác lên người. Vĩnh Dạ cười hi hi, trông hơi nhếch nhác nhưng đỡ phải dịch dung, nàng biến mình thành một thằng nhóc đen nhẻm, nhìn vào không hề có vấn đề gì, thế là hào hứng cầm ấn thạch lên phố.
Nàng thong thả đi trên đường phố của Thánh Kinh, thấy bố cục trong thành bằng phẳng, ổn định, đường phố rộng rãi, trên mặt đất đều lát đá xanh.
Vĩnh Dạ đã đi hết ba nước, cảm thấy đô thành của cả ba nước đều có đặc sắc riêng. Kinh Đô quý phái, Trạch Nhã thanh tú, còn Thánh Kinh, Vĩnh Dạ khen nó thật hoành tráng.
Đại Xương Hiệu là tiệm cầm đồ lớn nhất Thánh Kinh, là một tòa tứ hợp viện cao lớn. Cổng lầu cao ba tầng trông như một tòa lâu đài, bên ngoài cửa tiệm đặt hai con sư tử đá khổng lồ đang nhe nanh múa vuốt. Ba cánh cổng mở rộng đằng sau bậc tam cấp bằng đá xanh, Vĩnh Dạ ngẩng đầu nhìn rất lâu rồi mới bước vào.
Quầy tiếp khách của tiệm cầm đồ ở tít trên cao, trong số nữ nhân, nàng đã được coi là khá cao rồi mà quầy vẫn cao hơn nàng một cái đầu. Vĩnh Dạ bèn lùi lại một bước, nở nụ cười rạng rỡ nói với quản gia đứng sau song sắt:
– Tại hạ muốn cầm một miếng ấn thạch gia truyền. – Nàng đặt ấn thạch lên bàn, rồi lại lùi về sau một bước để nhìn.
Viên quản gia cầm viên đá lên nhìn, hỏi:
– Công tử định cầm sống hay cầm chết[1]?
– Cầm chết bao nhiêu, cầm sống bao nhiêu?
– Cầm chết hai mươi lượng bạc, cầm sống mười lượng.
Ít thế à? Vĩnh Dạ thở dài:
– Tôi không cầm nữa.
Viên quản gia không nói gì, trả ấn chương lại cho Vĩnh Dạ, thấy nàng ra khỏi cửa bèn bĩu môi lắc đầu.
Quả nhiên, Vĩnh Dạ đi một vòng, rồi lại quay lại:
– Tôi cầm, cầm chết!
– Một chiếc ấn chương đá vỡ, hai mươi lượng! – Viên quản gia dài giọng.
– Chờ chút, đây là điền hoàng thượng hạng, sao ông lại viết thành đá vỡ?
Viên quản gia cười nhạt:
– Công tử có cầm không?
Vĩnh Dạ tức khí, bắt đầu châm chọc:
– Nhà khác nghe nói Đại Xương Hiệu cầm hai mươi lượng đều đua nhau ra giá mười tám lượng, mười lăm lượng, Đại Xương Hiệu ra giá cao thế, sao lại không cầm? Viết phiếu cầm đi! Cầm chết luôn!
– Công tử quá khen. Bổn hiệu to nhất nước Tề thì đương nhiên giá tiền cũng cao hơn các nhà khác! – Tên quản gia tiếp lời.
Khi tiếng hô thạch chương bằng đá vỡ một lần nữa được vang lên, Vĩnh Dạ cầm hai mươi lượng bạc và một tờ phiếu hằn học bỏ đi.
Cầm đồ kiểu thế thì cho dù có cắt vụn kim thiền quan ra để mang cầm cũng chẳng được bao nhiêu.
Vĩnh Dạ cũng không định lấy trộm ví tiền hay đột nhập nhà giàu vào ban đêm trộm ngân lượng ở nước Tề. Ba cường quốc đều bị nàng náo lọan đến long trời lở đất, nay Thái tử Yến đang đi khắp nơi tìm nàng, nàng vẫn muốn cùng Nguyệt Phách sống cuộc đời bình an ở Tề quốc. Còn làm đạo chích… nàng không muốn.
Liếc nhìn thấy Tế Cổ Trai ở con đường đối diện, Vĩnh Dạ bật cười ha hả. Nhớ tới Đại Xương Hiệu lại bĩu môi, nàng không muốn làm bừa không có nghĩa là nàng không muốn báo thù. Kỹ thuật của kiếp trước đến kiếp này được mỹ nhân sư phụ chỉ điểm lại càng cao hơn, tóm lại nhất thời không thể ra khỏi Thánh Kinh, nàng quyết định quay về nghề cũ.
Cũng như Đại Xương Hiệu, Tế Cổ Trai là tiệm cầm đồ cổ nổi tiếng nhất Thánh Kinh, nghe nói các vương công quý tộc, gia đình giàu có của Tề quốc đều là khách hàng thường xuyên của nơi đây. Vĩnh Dạ nheo mắt nhìn chiêu bài của Tế Cổ Trai, lau mồ hôi trên trán rồi bước vào.
Mặt tiền Tế Cổ Trai không lớn lắm, bên trong bày đầy các giá trưng bày các loại đồ chơi quý giá, trên tường còn treo tranh chữ của danh gia. Chỉ có một tiểu nhị đang tiếp đón một khách nhân có cái bụng to béo.
Vĩnh Dạ thong thả đi xem, dỏng tai nghe đọan đối thoại giữa khách nhân và tiểu nhị kia.
– Sao có thể là tranh giả được? Đây là tranh của Trương Liên Thảo của Kinh Đô đích thân đề bút đấy ạ. – Khách nhân hình như cầm tranh tới ký bán.
– Gia, ngài nhìn ấn giám này hơi mờ, ngài nhìn lại bức tranh trong tay tiểu nhân đi. Còn nữa, Trương Liên Thảo sở trường vẽ hoa vẽ chim, tranh của ngài lại là tranh thủy mặc, tiểu nhân không dám nhận bức tranh này.
Vĩnh Dạ vừa nghe đã thấy hào hứng, vội vàng lại gần xem. Tranh của ai khác trên đời này có thể nàng không quen, chứ Trương Liên Thảo của An quốc vẽ dấu bàn tay trên mặt cha nàng, nàng quá quen ấy chứ.
Vĩnh Dạ ngắm nghía một lúc, thấy khách nhân và tiểu nhị đều tranh cãi đỏ mặt tía tai, bèn cười nói:
– Tại hạ cũng biết đôi chút, có thể cho tại hạ nói được không?
Tiểu nhị ngước mắt nhìn nàng đánh giá. Thấy nàng mặc bộ áo vải màu xám bình thường, gấu tay áo lại không được may cẩn thận, tuy ăn mặc như người đọc sách nhưng trông rất nghèo khổ, bèn hừ một tiếng:
– Vị công tử này ở trong tiệm đã lâu, có thấy gì vừa ý không?
Vĩnh Dạ biết hắn trông mặt mà bắt hình dong, cũng không nổi giận, đưa tay chỉ bức tranh nói:
– Người đời chỉ biết Trương Liên Thảo sở trường vẽ hoa và chim, thủ pháp tinh tế, màu sắc tươi tắn, mà không biết ông ta lấy tên Liên Thảo, sở trường nhất là hoa lan vẽ theo lối thủy mặc. Hình lá cong cong thanh tú, hoa đẹp như mỹ nhân. Hơn nữa Trương đại sư chỉ vẽ hoa lan khi đã say và tâm trạng vui vẻ, say xong ông dùng ấn run tay ấn xuống nên ấn giám mới hơi bị nhòe. Bức tranh này chính là bức “Túy hậu Lan thảo đồ” hiếm có của Trương đại sư.
Khách nhân càng nghe mắt càng sáng lên, tiểu nhị càng nghe lại càng tỉnh táo.
Trả tiền nhận tranh, thái độ của tiểu nhị trở nên khiêm nhường.
– Tại hạ có mắt không tròng, đa tạ công tử chỉ giáo.
Thấy hắn biết sai trở nên khiêm tốn, Vĩnh Dạ cũng có cái nhìn khác về Tế Cổ Trai này, thầm khâm phục ông chủ biết cách dùng người.
– Công tử có ưng món đồ nào không?
Vĩnh Dạ lại đi một vòng trong tiệm, cười nói:
– Mấy món đồ bày ở gian ngòai không lọt vào mắt tại hạ.
– Ồ, họa tác như thế nào mới lọt được vào mắt công tử? – Một lão nhân râu tóc bạc phở từ hậu viện đi ra, chắp tay hành lễ. – Mời công tử, tiểu lão họ Lương, là chưởng quầy của tiệm này. Ban nãy đã được nghe cao kiến của công tử, không biết công tử sẽ thích tác phẩm của ai?
– Tại hạ Lý Lâm, nhân sĩ An quốc, nghe nói Tế Cổ Trai trân phẩm vô số, muốn được nhìn cho đã, không hề định mua. – Nàng có khẩu âm An quốc, không hề che giấu điểm này.
Lương chưởng quầy đã quan sát chuyện vừa xảy ra, nheo mắt nhìn Vĩnh Dạ một cái, thấy nàng thản nhiên đứng đó, tuy rằng áo vải nghèo nàn một chút, nhưng hành động toát lên khí độ, ngôn ngữ cử chỉ lại có ý như thăm dò. Sắc mặt Lương chưởng quầy đã trầm xuống.
– Nếu ở Tế Cổ Trai ta không có trân phẩm thì toàn bộ Tề quốc này không có cửa hàng đồ cổ nào có trân phẩm nữa.
Kiếp trước nhà Vĩnh Dạ làm con dấu, bản thân cũng quen biết nhiều người chơi đồ cổ, đương nhiên biết rõ quy củ của các tiệm đồ cổ hàng ngàn năm qua. Hàng tốt thường không bày bên ngoài, trong tiệm cùng lắm chỉ có một hai món hàng quý để thể hiện mà thôi. Ba năm không khai trương, khai trương ăn ba năm. Bán được một món đồ đáng tiền cũng đủ để sống rất lâu rồi. Có người nào giàu có, trừ phi thích tìm hàng, nếu không chủ cửa hàng có được món hàng nào quý hiếm thường sẽ mang tới tận nhà người ta.
Nàng cười cười chắp tay:
– Nếu đã như thế thì xin cáo từ!
– Xin công tử dừng bước! Chưởng quầy biết mình đã gặp phải người trong nghề, lập tức nổi hứng, gọi vội một tiếng, chắp tay nói. – Lão phu có một chuyện muốn yêu cầu, có thể mời công tử xem thêm bức tranh nữa không?
Vĩnh Dạ quay đầu nói:
– Tế Cổ Trai có thể trở thành tiệm lớn nhất Tề quốc thì tất phải có cao thủ giám định. Lương ông khách sáo quá.
Lương ông thấy nàng vẫn định đi thì vội vàng bước lên, càng vái sâu hơn:
– Lão phu thất lễ! Công tử có thể dời bước theo lão ra nội viện không?
Vĩnh Dạ điềm nhiên nhìn ông ta, khó xử gật đầu:
– Mời Lương ông đi trước!
Qua một hành lang là tới nội đường, Lương ông cẩn thận mang một bức tranh ra, trải ra bàn. Đó là bức “Đại thanh lục sơn thủy”, nét bút đại khai đại hợp, các dãy núi trùng điệp, hiểm trở.
– Mời công tử xem, bút lực, thủ pháp, khí thế này không phải Trần Thu Thủy thì không thể vẽ được. Thủy Bạc cư sĩ là ấn giám của Trần Thu Thủy, nhưng một năm ngài chỉ vẽ ba bức tranh, theo như lão phu được biết, năm này Trần đại gia đã vẽ ba bức rồi, lão phu nhận bức tranh này mà thấy thắc thỏm không yên, muốn nhờ công tử xem giúp.
Vĩnh Dạ từng nghe mỹ nhân tiên sinh nói, “Đại thanh lục sơn thủy” của Trần Thu Thủy nước Tề số lượng rất ít, lại vì khí thế của tranh phi phàm nên được các vương công quý tộc, hào môn đại gia vô cùng yêu thích. Nàng lập tức hỏi:
– Còn họa tác nào khác của Trần đại gia không? Để tại hạ so sánh!
Lương ông lại mang một cuộn tranh khác trải ra.
Vĩnh Dạ tỉ mỉ nghiên cứu, hết một tuần hương mới thở phào, nói:
– Bức tranh này đúng là chân tích của Trần đại gia. Lương ông vì nghĩ một năm Trần đại gia chỉ vẽ ba bức tranh nên hoài nghi phải không?
– Đúng vậy!
– Nhìn kĩ bức tranh này, nét bút lưu loát đầy hào khí, tuy rằng vẽ núi xanh mà bút pháp bay bổng, lạc khoản một lần xong luôn, bút pháp có thần, có lẽ là tác phẩm của Trần đại gia sau khi say, phá lệ một năm ba tranh cũng là có thể. Hơn nữa ấn giám này rất khó ngụy tạo, Lương ông hãy nhìn chỗ này, ấn giám là chu bạch văn, nét bút cuối cùng hơi nhô ra, không nhìn kỹ thì không nhận ra, nếu đặt… đặt cạnh nhau là có thể so sánh ra được. – Suýt nữa nàng buột miệng là đặt kính lúp, nghĩ kỹ lại cảm thấy nếu mình có kính lúp thì càng tốt hơn. Kiếp trước làm giả đừng nói là kính lúp, đến kính hiển vi cũng có, kiếp này, người khác không có, như thế càng khó phát hiện nàng làm giả, Vĩnh Dạ mỉm cười.
Lương ông thán phục, luôn miệng cảm ơn.
Vĩnh Dạ lập tức cáo từ:
– Tại hạ tìm người thân không được, còn phải đi kiếm việc lấy tiền hồi hương, không làm phiền ông nữa, cáo từ!
– Công tử chờ chút, công tử nói là muốn kiếm việc làm thêm?
Vĩnh Dạ thở dài, nói:
– Nói ra xấu hổ, tại hạ không phải vì mua tranh mà tới, chỉ là sở thích, đi qua Tế Cổ Trai bèn bước vào ngắm thôi. Được tận mắt thưởng thức họa tác của Trần đại gia đã là việc may mắn, không nghĩ gì khác. Đa tạ Lương ông.
– Tế Cổ Trai đang lúc cần dùng người, công tử ánh mắt tinh tường, chi bằng ở lại Tế Cổ Trai. – Lương ông nghe nói Vĩnh Dạ muốn đi tìm việc, chi bằng giữ lại, ông ta rất khâm phục nhãn lực của nàng, một nhân tài như thế đương nhiên không thể bỏ qua.
Vĩnh Dạ cả mừng, nàng vốn định tìm cớ gì đó để thường xuyên tới Tế Cổ Trai, không ngờ cơ hội lại tốt như thế, vội vàng vái lạy:
– Đa tạ đông ông[2].
– Ha ha, Lý công tử không cần đa lễ, lương tháng mười lượng thế nào.
Năm mươi lượng đủ cho một nhà ba người bình thường sống thoải mái được ba tháng, mười lượng là mức lương khá cao, đủ cho nàng và Nguyệt Phách sống khá rồi, nhân tiện còn có thể thực hiện kế họach báo thù kiếm tiền của nàng, làm gì có chuyện không đồng ý.
– Cậu chỉ cần tìm nơi khác để ở, ban ngày đi làm, buổi tối dọn tiệm xong về nhà. Ngày mai đi làm luôn được không?
Nàng biết gã tiểu nhị ngoài kia buộc phải ở lại trông tiệm, cũng chỉ dùng người thân tín. Một người ngoại địa làm thêm kiếm tiền về quê như nàng, họ sẽ không cho nàng ở trong tiệm đâu. Nàng vốn cũng không muốn ở đây, bèn lập tức đồng ý.
Ra khỏi tiệm đồ cổ, Vĩnh Dạ nở nụ cười gian xảo. Mua một đống đồ ăn và giấy vẽ, nguyên liệu, chuẩn bị bắt tay vào làm giả. Nàng ngắm suốt một tuần hương, cái nàng để ý nhất chính là ấn giám Thủy Bạc cư sĩ bằng chu văn.
Nàng nhìn đồ dùng trong tay, tươi cười ra về, nghĩ bụng Nguyệt Phách bán thảo dược, hôm nay đều có thu họach, buổi tốt nhất định phải chúc mừng phát tài mới được.
Ánh chiều tà như dát vàng, khiến con ngõ nhỏ trở nên ấm áp.
Ngọn đèn lồng lắc lư trong gió đêm, khiến tim Vĩnh Dạ hân hoan niềm vui.
Trước mặt nàng, một đôi vợ chồng già nắm tay nhau chầm chậm đi qua. Vĩnh Dạ nhìn sống lưng đã còng của họ, nghĩ sau này mình với Nguyệt Phách già rồi cũng sẽ nắm tay nhau đi như thế trong con ngõ nhỏ buổi hoàng hôn, khóe miệng nở nụ cười hạnh phúc.
Cưới chàng, hình như cũng không phải là khó khăn lắm, có lẽ dần dần quen rồi thì sẽ bình thường thôi. Vĩnh Dạ bồng dưng nhớ ra mình quên mua nữ trang, thầm kêu chết rồi. Đang định quay đầu lại mua thì thấy đôi vợ chồng già khi đi qua cửa y quán bèn dừng lại, ông già khom lưng nhìn vào trong một cái, rồi hai người mới đi tiếp.
Tiếng bước chân của Vĩnh Dạ rất khẽ, là do thói quen. Nàng có thể khẳng định rằng đôi vợ chồng đó không biết nàng đã vào ngõ. Trong mắt Vĩnh Dạ lóe lên một sự ngạc nhiên. Khi ông già nhìn vào cửa, bước chân theo quán tính nhẹ lại, nhẹ tới mức không giống của một lão nhân lớn tuổi.
Khi nàng đi qua y quán phát hiện Nguyệt Phách vẫn chưa quay về, lúc đi nàng đã khóa cửa. Vĩnh Dạ đặt đồ đạc trong tay xuống cửa, đi theo cặp vợ chồng già kia.
Ra khỏi ngõ, Vĩnh Dạ đề cao cảnh giác, từ đằng xa đã thấy họ bước vào một trạch viện. Nàng không nghĩ ngợi nhiều, nhón chân bay vọt vào trong.
Một đạo kiếm quang ập tới, Vĩnh Dạ nhanh nhẹn ra tay, nghe thấy một tiếng kêu thảm thiết, lăng không lật người, trên đầu nàng đột nhiên xuất hiện bóng một chiếc roi quất xuống. Trong viện tử vang lên tiếng quát nho nhỏ:
– Kẻ nào theo dõi ta!
Vĩnh Dạ nghiêng người né tránh, phi đao một lần nữa rời tay, tụ đao vẽ ra một đạo ánh sáng ép vào đối thủ. Lão bà bà cầm kiếm trúng đao ngã xuống, ngã giữa vũng máu, thở hổn hển. Nàng dồn lão nhân cầm roi:
– Ông là ai mà nghe thấy tiếng bước chân của ta?
Đối phương không trả lời, ánh mắt nhìn lão thái bà đầy vẻ lưu luyến và thương yêu, khi quay đầu lại nghiến răng nói:
– Tinh Hồn, người là Tinh Hồn!
– Sao ngươi biết?
– Ám khí của ngươi, Tiểu Lý Phi Đao, bách phát bách trúng!
– Ngươi là ai?
Lão ông bật cười:
– Chúng ta cùng một tòa nhà đi ra, ta là Nhật Quang, ngươi nhớ ra không? Ra khỏi ngõ không lâu thì ta đã cảm giác sau lưng có người. Khinh công của ngươi khá lắm, có điều ngươi cũng biết, cảm giác của thích khách thường khó nói lắm.
Nhật Quang? Cái tên này khiến Vĩnh Dạ giật mình, nhớ lại nhiều năm trước Lý Ngôn Niên ở trong lầu đặt tên cho năm thích khách. Cũng chỉ trong một khoảnh khắc lơ đãng ấy thôi, Nhật Quang đột nhiên ngửa ra sau chín mươi độ, hai chân đá vào Vĩnh Dạ.
Hành động của nàng còn nhanh hơn tưởng tượng của hắn, thân hình như bóng ma, lướt ra sau lưng hắn, tụ đao tì vào lưng hắn.
– Ngươi tới y quán đó làm gì? Có mục đích gì?
Nhật Quang giật mình, không ngờ công lực của Vĩnh Dạ lại cao hơn tưởng tượng của hắn rất nhiều.
– Đao của ta chỉ đặt trên xương sống của ngươi, ấn xuống sẽ cắt đứt xương sống, ngươi không chết được, nhưng cũng không bao giờ đứng thẳng được. Một thích khách chỉ có thể nằm trên giường thì có hậu quả gì?
– Ta không nói cho ngươi đâu, ngươi giết ta cũng được, ngươi biết đấy, ta mà nói cho ngươi thì càng đau khổ hơn là chết.
Vĩnh Dạ cười cười:
– Ta có mười tám thanh đao, phi đao của ta rất nhỏ, lại rất chuẩn, ả còn chưa chết, ta có thể một đao làm mù mắt ả, thêm một đao nữa làm mù mắt bên kia, nhân tiện lướt từng lưỡi đao qua mặt ả, ngươi có thể nhìn gương mặt xinh đẹp ấy trở thành một đống thịt bầy hầy máu với hai hố mắt trũng xuống, người thì không chết…
Lão thái bà nằm trên mặt đất vẫn trong bộ dạng sần sùi, nhưng khóe mắt lóe lên nỗi sợ hãi thực sự, đột nhiên giơ tay ra vỗ mạnh lên huyệt Thiên Linh. Bàn tay vừa mới cử động đã đau đớn run rẩy, mu bàn tay đã bị găm thêm một ngọn phi đao.- Ta ở sau lưng ngươi, có thể khiến ngươi không cảm thấy khi nào thì ta xuất đao. Trả lời câu hỏi của ta! – Vĩnh Dạ lạnh giọng. Trán Nhật Quang đã lấm tấm mồ hôi, ngây người nhìn lão thái bà nằm trên đất, khàn giọng:
– Ngươi chỉ lo cho Nguyệt Phách thôi đúng không? Hắn…
Trong nội viện bỗng dưng bị bao phủ bởi một làn khói tím, Vĩnh Dạ thầm than trời, mũi chân dùng lực, cả người đã bay chếch đi như tờ giấy. Khi quay đầu lại thấy thân thể Nhật Quang bắn vọt lên không trung như thể bị cái gì kích trúng, rồi ngã thẳng xuống, thích khách đóng vai bà lão đã cứng đơ nằm bất động.
Làn khói tím bay đi, trong sân còn lại hai thi thể.
Vĩnh Dạ mang theo tâm trạng nặng nề quay về y quán, giơ tay gỡ tấm biển của y quán xuống.
– Tinh Hồn, nàng đi đâu thế? Ta thấy đồ nàng để trước cửa. Nàng gỡ biển của y quán xuống làm gì? – Nguyệt Phách kinh ngạc nhìn nàng.
Vĩnh Dạ thở dài:
– Ta phát hiện có hai người đi qua thăm dò y quán, bèn đuổi theo giết chúng. Trong đó có một thích khách cùng ra khỏi lầu với chúng ta, tên Nhật Quang.
-S ao họ biết?
Vĩnh Dạ nghĩ ngợi rồi nói:
– Có khả năng là bọn chúng muốn tìm chàng, nghĩ rằng chàng biết dùng độc thì chắc chắn sẽ hành y, thế nên mới đặc biệt chú ý tới các y quán. Chúng ta chuyển tới nơi khác ở đi, ta có cách kiếm tiền rồi.
Nguyệt Phách nghĩ ngợi rồi nói:
– Ta đã sớm nghĩ tới ngày này, ta cũng đã thuê một nơi khác rồi.
– Không phải chứ? Chàng có mấy sào huyệt cơ à? – Vĩnh Dạ không ngờ Nguyệt Phách đã chuẩn bị từ trước, nhìn chàng nghi ngờ.
Nguyệt Phách cười cười, kéo nàng ra khỏi y quán, sang nhà bên cạnh. Bố cục y hệt, chỉ có điều cửa tiệm đóng suốt, không buôn bán làm ăn. Chàng đắc ý cười:
– Ở đây. Không ai ngờ là ở sát vách, đúng không? Sống ở đây thì không thể là Nguyệt lão được nữa, là Triệu đại thúc. Ông ta là một quái nhân, rất ít ra khỏi nhà. Ha ha, thường thì ta cứ ở khoảng mười ngày lại đóng giả Triệu đại thúc ra ngoài mua đồ.
Vĩnh Dạ không nhịn được cười:
– Triệu đại thẩm đâu?
– Bà bệnh tật nằm trên giường quanh năm, không thể thiếu người chăm sóc, thế nên Triệu đại thúc thường ở nhà chăm sóc bà.
– Triệu đại thúc sống bằng nghề gì?
– Nàng không thấy trước sân nhà ông treo giày cỏ sao? Triệu đại thúc cứ cách mười ngày lại xách giày cỏ đi bán, miễn cưỡng sống qua ngày.
Vĩnh Dạ nghiêm mặt:
– Tối nay Triệu đại thẩm tâm trạng rất tốt, bệnh cũng đỡ hơn, thế nên muốn ngồi trong sân uống rượu ăn thịt ngắm trăng!
Nguyệt Phách “ồ” một tiếng rồi đi tới cạnh nàng, thì thầm bên tai:
– Triệu đại thúc thấy Triệu đại thẩm khỏi bệnh nên muốn cùng nàng nghiên cứu làm thế nào để gan bàn chân không còn đóa hoa đó nữa…
Má Vĩnh Dạ lập tức đỏ bừng, dùng cùi chỏ thúc mạnh vào bụng Nguyệt Phách, nhảy tránh ra:
– Triệu đại thẩm hôm nay phải bắt đầu đại kế kiếm tiền báo thù! Ta mang điền hoàng ấn chương tới Đại Xương Hiệu cầm được có hai mươi lượng bạc, rồi lại tới Tế Cổ Trai làm thêm, chàng đi bán thảo dược cũng kiếm được không ít bạc, chúng ta sống ở Thánh Kinh một vài năm, có lẽ Thái tử Yến sẽ còn kiểm tra cổng thành tiếp đấy.
Nguyệt Phách nghe vậy nhíu mày nói:
– Tinh Hồn, nàng đừng đi làm thuê nữa. Ta bán thảo dược được năm mươi lượng, thêm vào hai mươi lượng cầm ấn chuơng, đủ chúng ta tiêu vài tháng rồi.
Vĩnh Dạ bĩu môi không chịu, nàng đang muốn báo thù, nhân tiện vào Tế Cổ Trai, làm gì có chuyện dễ dàng bỏ qua? Vả lại, cả ngày ở trong nhà cũng chán.
Nguyệt Phách thấy thái độ nàng kiên quyết thì thở dài, cười nói:
– Ra ngoài cẩn thận một chút, ta giúp nàng dịch dung.
Liên tiếp năm ngày liền, Vĩnh Dạ tới Tế Cổ Trai làm thêm. Nàng vừa làm việc, vừa thưởng thức tự họa của các danh nhân mà Tế Cổ Trai thu thập được, âm thầm ghi nhớ đặc điểm bút họa của từng người. Buổi tối ở nhà nàng lại khêu đèn thức đêm, mô phỏng họa tác.
Nửa tháng sau, ấn giám hoàn thành, nàng nhìn ấn giám của Thủy Bạc cư sĩ trên bức tranh, rồi lại nhìn ấn giám trong tay mình, không khác gì trong tranh, không khỏi vô cùng đắc ý.
Nguyệt Phách nhìn thấy cũng tấm tắc khen ngợi, ánh mắt nhìn Vĩnh Dạ thêm phần nghi hoặc:
– Nàng học từ lúc nào thế?
– Học mấy năm hồi ở Vương phủ. – Ký ức kiếp trước của Vĩnh Dạ là bí mật cá nhân của riêng nàng, đâu thể nói với Nguyệt Phách rằng kiếp trước nàng là một nam nhân?
Nguyệt Phách cười nói:
– Khi nào nàng cầm được tranh, xả được giận thì không được xuất đầu lộ diện nữa. Nghe rõ chưa?
Vĩnh Dạ ngơ ngác. Nguyệt Phách ôm nàng vào lòng, khẽ nói:
– Mỗi lần nàng ra ngoài, ta lại lo lắng rằng nàng sẽ không về nữa.
– Sao ta lại không về? Chàng chờ ta, khi nào cầm được bức tranh này là ta sẽ không ra ngoài nữa, ở nhà dạy chàng làm giả tranh để chơi! Đúng rồi, chúng ta nuôi thêm vài con lợn được không? Như con lợn ngày trước ấy, vui lắm. Khi nào lợn lớn rồi, cổng thành có lẽ cũng đã thoáng hơn, chúng ta sẽ rời đi.
– Được. – Nguyệt Phách chưa bao giờ từ chối yêu cầu nào của nàng.
Vĩnh Dạ cẩn thận cuộn tranh lại, rồi bỏ ra năm lượng bạc để mua một cái hộp bằng gỗ đàn mộc được chạm khắc rất tinh xảo, hào hứng chạy tới Đại Xương Hiệu. Nàng kiêu ngạo đặt hộp gỗ đàn mộc lên quầy:
– Cầm chết một nghìn lượng, tại hạ đang cần bạc để xoay vốn!
Tên quản gia đã sớm quên viên đá điền hoàng thượng hạng trị giá hàng trăm lượng mà lần trước chỉ mất có hai mươi lượng để mua, thấy người này vừa mở miệng đã đòi cầm chết một nghìn lượng thì giật mình, vươn tay toan mở hộp gỗ đàn. Vĩnh Dạ đặt tay lên cái hộp, hếch cằm nói:
– Ông rửa tay chưa?
Quản gia giật mình, đang định lên tiếng mỉa mai, Vĩnh Dạ đã nhướng mày nói:
– Đây là tuyệt tác của Trần đại gia, ông toàn đụng vào mấy món đồ rách nát, làm bẩn nó thì sao?
Tên quản gia nghe nàng nói thì tức nghẹn cổ, nhưng nghe nói là họa tác của Trần đại gia, hồ nghi nhìn Vĩnh Dạ một cái, bèn dùng một chiếc khăn trắng như tuyết lau tay, rồi mới cẩn thận mở hộp ra xem tranh.
Trong đó là một bức tranh Đại thanh lục sơn thủy, ông ta quan sát tỉ mỉ, nhìn lạc khoản và ấn giám tới mức hai con mắt gần như rớt cả xuống tranh. Rất lâu sau mới cung kính nói:
– Bức tranh này của công tử từ đâu mà có?
-Ta lấy từ đâu ông không cần biết, tóm lại không cướp không trộm, ông chỉ cần xem bức tranh này có phải là chân tích không, nếu thật thì đưa bạc cho ta là được rồi! – Vĩnh Dạ bực bội nói.
– Công tử đừng vội, chỉ có điều tranh của Trần đại gia rất ít khi xuất hiện, tiểu nhân vụng về, công tử chờ một chút, tiểu nhân đi mời đại quản gia! – Tên quản gia nói rồi xuống khỏi cái quầy cao ngất ngưởng, đi vào nội viện.
Chỉ lát sau, một lão nhân quắc thước, ánh mắt lóe tinh quang bước ra. Cầm bức tranh lên quan sát tỉ mỉ, rất lâu sau mới nói:
– Công tử cầm chết sao?
– Tại hạ thiếu ngân lượng, chẳng còn cách nào, đành phải cầm chết! – Vĩnh Dạ thở dài, lưu luyến nhìn bức tranh, do dự một lát rồi mới làm như thể hạ quyết tâm to lớn lắm.
– Vậy thì tốt, đông gia của tại hạ cũng rất thích họa tác của Trần đại gia, một nghìn lượng bạc trắng, cầm chết! Công tử nghĩ kỹ nhé? – Đại quản gia vui vẻ hỏi lại lần nữa.
– Cầm chết! Cầm rồi mắt không thấy lòng không phiền! – Vĩnh Dạ bực bội lẩm bẩm, lại đưa mắt liếc bức tranh lần nữa, ra vẻ vô cùng nuối tiếc.
Đại quản gia lập tức viết phiếu cầm một nghìn lượng bạc đưa cho Vĩnh Dạ, tươi cười ôm tranh bỏ đi.
Vĩnh Dạ nhún vai, xem ra kiếm tiền thời cổ đại thật là dễ dàng.
Nàng vẫn nghĩ tới chuyện đi mua nữ trang, bèn hỏi thăm tiệm lụa lớn nhất Thánh Kinh ở đâu.
Trong tiệm có ba, bốn cô nương đang thì thào to nhỏ, trông có vẻ là các tiểu thư con nhà giàu ở Thánh Kinh.
– Nghe nói vẫn chưa tìm thấy Vĩnh An công chúa của An quốc!
– … Nghe nói bị người của Du Li Cốc cướp đi rồi…
– Trông như thế nào? Nghe nói không mặc áo cưới mà vẫn mặc nam trang tới Tề quốc. Thế còn ra thể thống gì? Làm sao mà xứng với Thái tử được?
Vĩnh Dạ nhún vai không thèm để ý. Nhĩ lực của Vĩnh Dạ rất tốt, lời nghị luận của mấy cô gái nàng nghe rõ mồn một. Nàng bất giác cười lặng lẽ, Thái tử Yến tướng mạo thanh tú, tính cách ôn hòa, xuất thân cao quý, lại còn đơn thân, đương nhiên là đối tượng lý tưởng mà các tiểu thư quý tộc muốn sánh duyên rồi. Nàng không ghét Thái tử Yến, cũng không muốn cưới chàng, khi đã bỏ đi thì mọi chuyện của chàng chẳng liên quan gì tới nàng nữa.
Nàng ưng một xấp lụa tím nhạt và một mảnh vải màu trắng hoa chìm. Màu tím là màu theo thói quen của nàng, nhưng Vĩnh Dạ lại chọn tấm vải trắng. Nàng nghĩ Nguyệt Phách thường mặc màu trắng, như thế sẽ hợp với chàng.
Ông chủ tiệm vải nghe Vĩnh Dạ nói muốn dùng miếng vải này may váy thì cười nói:
– Không biết số đo của vị tiểu thư đó thế nào?
– À… – Vĩnh Dạ ngẩn người, Nguyệt Phách dịch dung cho nàng thành một tiểu tử mặt đen, đâu thể cho người ta đo người mình được? Há hốc miệng, nhìn tấm vải ngẩn ngơ, thở dài nói – Vốn định cho người trong mộng một bất ngờ, tại hạ không thể đo được kích cỡ của nàng, ông chủ có loại váy áo nào may sẵn thì tại hạ mua luôn vậy….
– Cứ may theo kích cỡ của vị công tử này chắc chắn là được.
Bàn tay Vĩnh Dạ thoáng run, cố mặt dày nói:
– Vị công tử này nói đùa rồi! Ông chủ, tôi không mua nữa, hôm khác có kích cỡ rồi thì tới. – Nói rồi cắm đầu đi một mạch.
Một thanh trường kiếm chặn trước mặt nàng, Phong Dương Hề lạnh lùng nhìn nàng, trong ánh mắt vừa lạnh lùng vừa lóe lên lửa giận, mang theo cả hận ý. Tuy rằng mặt hắn râu ria xồm xoàm, Vĩnh Dạ vẫn có thể nhận thấy miệng hắn đang cử động, hiển nhiên là đang nghiến răng.
– Công tử…có ý gì? – Vĩnh Dạ toát mồ hôi lạnh, lời nói không còn lưu lóat nữa.
Phong Dương Hề mỉm cười:
– Chẳng có ý gì, tại hạ có một biểu muội có thân hình tương tự như công tử, dặn tại hạ giúp nó chọn một mảnh vải đẹp may y phục, ta chọn mảnh vải này, phiền công tử đo kích cỡ. Vị công tử này chắc là sẽ giúp tại hạ chứ?
– Ha ha… – Vĩnh Dạ cười khan. Phong Dương Hề rõ ràng đang chỉ vào mảnh lụa màu tím nhạt, hắn nhận ra mình rồi. Vĩnh Dạ cảm thấy thật xui xẻo, xui tận mạng.
Nàng vội liếc ra ngoài.
– Yến công tử không ở đây, chỉ có mình Phong mỗ. Nếu công tử phối hợp thì Phong mỗ sẽ hậu tạ công tử. Bằng không…
– Đo! Ông chủ, mau đo cho tôi, để giúp vị biểu muội của Phong công tử đây có một bộ y phục như ý! – Vĩnh Dạ ngắt ngang lời Phong Dương Hề, ý hắn là có thể thương lượng, mình đương nhiên đành phải thức thời.
Đo xong kích cỡ, ông chủ lắc đầu:
– Biểu muội của công tử thân hình cao ráo mà mỏng như tờ giấy… – Rồi ánh mắt liếc về phía ngực của Vĩnh Dạ. Vĩnh Dạ đỏ bừng mặt, nàng vì đóng giả nam nhân mà bất chấp trời nóng, bó chặt ngực mình, thế nào gọi là mỏng như giấy? Nghe thấy tiếng cười khùng khục của Phong Dương Hề, nàng thở phì phì lạnh giọng nói:
– Tại hạ còn việc quan trọng, không làm phiền công tử mua y phục cho biểu muội nữa. Cáo từ!
– Chờ chút. Phong mỗ đa tạ công tử giúp đỡ, chờ dặn dò xong ông chủ, Phong mỗ mời công tử uống trà. – Một tay Phòng Dương Hề giữ chặt Vĩnh Dạ, một tay móc bạc trả cho ông chủ, hẹn ngày lấy y phục, đội mắt nheo lại nhìn Vĩnh Dạ, ý bảo nàng ngoan ngoãn một chút.
Vĩnh Dạ khóc không ra nước mắt, nàng sợ nhất là bị Phong Dương Hề nhận ra mình là Tinh Hồn. Nàng từng giao thủ với hắn, khinh công và ám khí của nàng không thể chống lại được hắn, thế nên nàng chỉ biết cúi đầu ủ rũ đi theo Phong Dương Hề.
Đi vào một ngõ cụt, Phong Dương Hề mới buông tay ra, lạnh lùng nói:
– Ngoài kia người ta sôi sùng sục lên tìm cô, vậy mà Công chúa vẫn còn tâm tư vẽ tranh, dạo phố, mua y phục, sống thật là tiêu diêu!
– Chuyện của tôi với Thái tử Yến liên quan quái gì tới huynh?!
– Vốn không liên quan gì tới tôi, nhưng cô vào Đại Xương Hiệu thì lại liên quan tới tôi rồi. – Ánh mắt Phong Dương Hề trở nên phức tạp, giọng điệu như châm biếm – Không phải tôi tình cờ gặp cô ở cửa hàng tơ lụa đâu, tôi theo cô từ Đại Xương Hiệu tới đây.
– Huynh sẽ không giao tôi cho Thái Yến chứ?
– Thế thì phải xem Công chúa có phối hợp với Phong mỗ hay không.
Vĩnh Dạ nhướng mày, không biết hắn có ý gì, hừ một tiếng:
– Dựa vào đâu mà tôi phải phối hợp với huynh?
– Chẳng lẽ Công chúa không lo cho Tường Vi quận chúa nữa sao?
Vĩnh Dạ sững sờ.
Nàng muốn ích kỷ mặc kệ Tường Vi, mặc kệ Du Li Cốc, chỉ cùng Nguyệt Phách rời khỏi Thánh Kinh, sống cuộc sống an bình.
Nhưng Tường Vi như một cái gai trong lòng nàng.
Nếu không phải vì thích nàng, Tường Vi sẽ không trà trộn vào đội ngũ đi Trần quốc; nếu không vì nàng lừa Tường Vi cùng Nguyệt Phách đi lấy giải dược cổ độc không hề có thật thì Tường Vi đã không rơi vào tay Du Li Cốc.
Nàng nhớ Vương phi từng nói, Tĩnh An Hầu phu nhân vì nhớ con mà đổ bệnh. Tường Vi ở trong tay Du Li Cốc, liệu có sống dễ dàng không? Sự lương thiện bị đè nén của Vĩnh Dạ cuối cùng cũng trỗi dậy.
Nàng nhìn Phong Dương Hề, hỏi:
– Huynh biết tin tức về Tường Vi?
Phong Dương Hề gật đầu.
– Phong đại hiệp biết tung tích của Tường Vi mà vì sao không cứu nàng ra?
– Ta chỉ biết Tế Cổ Trai có liên hệ với Du Li Cốc, mà muốn vào được Tế Cổ Trai rất khó, ta đang đau đầu thì nhìn thấy Công chúa. Công chúa vốn có bản lĩnh thưởng thức tranh chữ, lại tới Tế Cổ Trai làm việc, thế nên, Công chúa là người thích hợp nhất để điều tra tung tích của Du Li Cốc, cứu Tường Vi quận chúa.
Vĩnh Dạ thở dài, bỗng dưng nhớ tới biểu cảm lưu luyến của Nguyệt Phách khi nàng ra cửa. Chàng nói chàng sợ nàng đi rồi sẽ không quay về nữa, chàng muốn nàng bán tranh giả xong báo được thù thì không xuất đầu lộ diện nữa. Nguyệt Phách có thể linh cảm đuợc nàng bị Phong Dương Hề hoặc Thái tử Yến tóm được sao?
Nàng sinh ra đã là kẻ đối đầu của Du Li Cốc. Một ngày trước, nàng còn muốn cùng Nguyệt Phách rời khỏi Thánh Kinh, sống đời an nhàn. Một ngày sau, nàng chỉ đành ẩn thân trong bóng tối để quyết đấu với Du Li Cốc.
Vậy mà, Tường Vi… nàng không thể không lo, không thể không cứu.
– Tôi ở Tế Cố Trai đã hơn nửa tháng nay, đó chỉ là một tiệm bán đồ cổ rất bình thường mà thôi.
Phong Dương Hề nhìn sự thay đổi trên mặt Vĩnh Dạ, lúc thì nhíu mày lo lắng, khi lại bi thương cảm khái, không khỏi tự hỏi, ép nàng như thế có phải là đúng không? Có lẽ hắn nên buông tay, để nàng sống cuộc sống của nàng. Ý định này vừa nhen nhóm, lồng ngực Phong Dương Hề đã cảm thấy khó chịu, như bị ai đó đánh một quyền rất mạnh. Sao hắn có thể cho phép… Phong Dương Hề cố gắng kiềm chế tâm trạng mình, cố gắng nói với Vĩnh Dạ một cách hiền hòa:
– Cô ở thêm một thời gian sẽ phát hiện ra. Nếu giờ tôi mà biết Tế Cổ Trai và Du Li Cốc liên lạc với nhau như thế nào thì việc gì phải tới tìm cô?
Vĩnh Dạ cười cười:
– Làm thế nào để tôi liên lạc với huynh?
– Tôi luôn ở cạnh cô. – Phong Dương Hề nói rồi quay đầu bỏ đi.
Vĩnh Dạ ngẩn người, hắn nói luôn ở cạnh nàng? Hắn biết nàng ở cùng Nguyệt Phách? Sao hắn lại tìm được họ? Có lẽ hắn đã nhìn thấy cảnh nàng trèo tường vào nhà.
– Tôi biết một chút võ công… – Lòng bàn tay Vĩnh Dạ xuất hiện một cây trâm dài ba thốn, nàng nhìn sống lưng Phong Dương Hề, thận trọng nói.
Phong Dương Hề không quay đầu lại:
– Ta biết, chút võ công mèo cào đủ để trèo tường thôi.
– Ngày trước tôi giấu huynh là vì… – Vĩnh Dạ đang định tìm một lý do hợp lý để giải thích.
Tiếng cười của Phong Dương Hề vang lên:
– Ta biết, cô sợ ta không chịu bảo vệ cô sang Trần quốc! Về sớm đi, tiểu tử họ Nguyệt đó chờ cô lâu lắm rồi.
Bóng hắn biến mất, Vĩnh Dạ đã căng thẳng toát mồ hôi. Chỉ cần Phong Dương Hề có một chút nghi ngờ, nàng sẽ không hề khách sáo mà giết hắn. Không dùng phi đao, ám khí khác cũng có thể rất xuất sắc.
Nghi vấn lại dâng lên trong lòng. Vĩnh Dạ nhớ ra trong sơn cốc, Phong Dương Hề cứ đòi bế nàng ra khỏi cốc, là vì hắn sợ công phu của nàng không đủ, hay là vì hắn đồng cảm với thể lực chưa hoàn toàn bình phục của nàng? Rốt cuộc trong bóng tối, hắn đã nhìn thấy bao nhiêu, nghe thấy bao nhiêu? Vĩnh Dạ lại một lần nữa nhớ tới cảnh tượng mình cùng Nguyệt Phách trong tiểu viện.
Có thể Phong Dương Hề mai phục trên nóc nhà, nếu hắn lại gần viện tử, chắc chắn nàng đã phát hiện ra. Hay nói cách khác, cho dù hắn thấy nàng trèo tường thì cũng chưa chắc đã biết nàng là Tinh Hồn.
Vĩnh Dạ nghĩ mãi, cuối cùng thở phào một hơi.
Chú thích: [1] Cầm sống: Vẫn chuộc lại được; Cầm chết: bán đứt.
[2] Người thuê mình.