Năm mười ba tuổi, Sái Thành mang trên mình tội danh giết cha, hốt hoảng bỏ trốn, bị ngã nhào trong núi sâu, chính Hắc Tử đã ngậm cây thuốc mang về cứu mạng cho anh ta. Sống trong chốn núi non, chính nhờ có Hắc Tử ngày đêm làm bạn mà anh ta đã sống qua từ mùa hạ đến mùa thu. Năm mười chín tuổi, Sái Thành bị Điền Hưng Kiệt đánh tưởng có thể chết, nhưng cũng lại chính Hắc Tử đã cõng anh ta trốn chạy khỏi hiểm nguy. Hắc Tử là ân nhân của anh ta, cũng là người bạn duy nhất, chỗ dựa duy nhất cho Sái Thành trong suốt mấy năm trời chịu tiếng là kẻ nghịch luân sát thân mà trốn chạy. Khi ấy, Sái Thành đã quyết tâm sẽ phải báo thù cho sư phụ, một mình vào nơi sinh tử, vì vậy anh ta đã cố ý giấu Hắc Tử ở bên sông Thanh Xuyên. Ai ngờ, ai ngờ…
Máu đỏ chảy dài, ướt đẫm những chiếc vảy khắp thân hình lạnh băng của mãng xà. Sái Thành ôm Hắc Tử trong lòng, rồi anh ta từ từ đứng dậy, ánh mắt lạnh lùng nhìn một lượt quân sĩ đứng quanh, trong ánh mắt ấy lộ rõ vẻ bi phẫn, oán hận đến cực độ. Một khoảng thời gian, đám nha dịch và quân lính lặng đi vì kinh hãi trước cảnh tượng được chứng kiến, không thốt lên được câu nào. Cuối cùng một viên tiểu tướng lấy lại được tinh thần trước, quát to lên: “Sợ gì nó chứ! Bày tiễn trận, bắn chết tên xà yêu nhân ấy đi!”
Nghe lệnh của hắn, đám nha dịch lũ lượt làm theo, lại lắp tên dương cung, nhắm thẳng vào Sái Thành. Muôn vạn mũi tên sắp lại nhất loạt bắn ra, lần này thì Sái Thành tất sẽ chết không còn nghi ngờ gì nữa, bỗng nhiên có tiếng quát lớn:
“Dừng tay!”
Nha dịch và quân lính đổ dồn mắt nhìn về phía vừa phát ra tiếng quát, chỉ thấy Hà Thừa Phong sắc mặt nghiêm trang, anh ta đang túm chặt lấy cổ Tri phủ Trương Đức Thanh, quát to: “Kẻ nào dám bắn tên, ta sẽ giết ông ta!”
“Chớ, chớ làm gì! Tất cả chớ làm gì!” Trương Đức Thanh vẻ mặt tái mét, hốt hoảng cất tiếng ra lệnh. Thấy vậy, đám nha dịch và quân lính ai nấy cùng quay sang nhìn nhau, cuối cùng đành nghe theo yêu cầu của Hà Thừa Phong, buông hết cung tên trên tay xuống. Còn Trương Đức Thanh thì liếc mắt nhìn lại Hà Thừa Phong ở phía sau lưng, nhỏ giọng khuyên can Hà Thừa Phong: “Hà… Hà thần bổ, ngươi chớ bị yêu nhân mê hoặc…”
“Ngậm miệng!” Hà Thừa Phong quát to. Quay nhìn một lượt đám nha dịch như đang đối địch với giặc dữ, nhìn sang đám dân chúng nét mặt lộ rõ vẻ sợ hãi ở mãi xa xa, cuối cùng ánh mắt Hà Thừa Phong dừng lại ở chàng trai toàn thân máu me bê bết ấy. Sái Thành giờ đây toàn thân thương tích chằng chịt, máu chảy đầm đìa, vai trái bị nhát đao chém vào, xương lộ cả ra, cánh tay trái buông thõng không còn sức lực nữa, chỉ có thể dùng cánh tay phải của mình, ôm chặt lấy con rắn lớn, không rời…
“Rắn vốn là giống máu lạnh, nhưng còn có tình có nghĩa, Hà mỗ ta uổng mang một bầu nhiệt huyết, mà không thể trả lại được sự trong sạch cho người lương thiện, bắt kẻ ác trừng trị trước pháp luật, thì đâu bằng một con rắn. Cái danh “thần bổ” này, còn có tác dụng gì? Thực là đáng cười, đáng cười!”
Hà Thừa Phong cất tiếng nói to, bỗng anh ta túm chặt lấy cổ Trương Đức Thanh, đề khí tung người nhảy lên. Trong khoảnh khắc lướt qua trên không, Hà Thừa Phong vứt mạnh Trương Đức Thanh xuống đất, rồi đưa hai tay túm lấy Sái Thành và xác con mãng xà, đạp gió lăng không, bước trên đầu đám nha dịch, chạy qua vòng vây quân lính nhảy lên mình ngựa.
“Đi!”
Chỉ nghe Hà Thừa Phong giật cương quát gọn một tiếng. Con tuấn mã chở theo hai người và cái xác mãng xà, hí vang tung vó, cuốn bụi phóng đi.
Tri phủ Trương Đức Thanh bị ném xuống đất, đang đau đớn kêu ôi ối, thì bỗng nhiên thấy một vật vút từ trên không rơi xuống, trúng ngay trên mé đầu ông ta, khiến ông ta sợ đến cứng đờ người. Hồi lâu sau, Trương Đức Thanh mới định thần nhìn lại xem nó là cái gì thì chỉ thấy trên nền đất đỏ, trong vũng máu khô, là một tấm lệnh bài màu vàng.
Tấm lệnh bài được mạ vàng toàn bộ ấy dính đầy máu đỏ tanh nồng. Một chữ “Bổ” khắc nổi theo lối triện vẫn phản chiếu ánh nắng mặt trời, sáng lóe.
Giữa chốn sơn lâm rậm rạp, dưới bóng cây xanh um tùm, một ngôi mộ vô danh được đắp cao.
Sái Thành quỳ một gối dưới đất, đắp thêm lên ngôi mộ một nắm đất. Hà Thừa Phong đứng bên cạnh anh ta, cúi đầu lặng yên không nói.
Nắng sớm hơi lộ rõ, gió nhẹ thổi lại, đưa những lá cỏ khẽ lay động, những giọt sương đêm như những hạt ngọc thuận theo lá cỏ xanh nhỏ xuống thấm vào lòng đất. Sái Thành lấy từ trong tay áo ra một cây sáo trúc, kề lên môi, thổi nhẹ. Tiếng sáo du dương, vang vọng giữa núi rừng, tựa như một tiếng thở than bất lực, bồi hồi mãi không thôi.
Đợi Sái Thành dứt khúc nhạc, Hà Thừa Phong buồn bã thở dài, chậm rãi nói: “Xem ra, chỗ này chính là nơi mà các hạ và Hắc Tử tương ngộ. Ta vốn cho rằng rắn là loài máu lạnh, ai ngờ nó cũng thông được linh tính, tình thâm nghĩa trọng như vậy.”
Nghe lời ấy của Hà Thừa Phong, Sái Thành chậm rãi buông cây sáo trong tay, cúi đầu lặng nhìn nấm mộ. Sau hồi lâu lặng lẽ, anh ta mới ngước mắt nhìn Hà Thừa Phong, giọng khản đặc nói: “Từ nay về sau, huynh định sẽ thế nào?”
“Ta ư? Chẳng ăn cơm nha môn cũng đâu có chết đói chứ!” Hà Thừa Phong cười lớn nói. Anh ta một tay giật tung tấm áo đỏ của một vị bổ đầu đang mặc trên người ra, rồi tiện tay khoác manh áo tơi lên vai. Hà Thừa Phong sờ tay lên cằm cười nói: “Ta thấy làm một người chèo đò cũng đâu có tệ. Hôm trước ở bến đò Thanh Xuyên, ta cảm thấy mình làm công việc ấy cũng rất có tài năng đấy chứ!”
Sái Thành không nói gì, anh ta không bình luận về quyết định của người bạn mới kết giao ấy. Còn Hà Thừa Phong thì nhướng đôi mày kiếm, nhoẻn miệng cười nói: “Nhưng, ta còn có một điểm nghi hoặc cuối cùng, nếu không hỏi rõ ràng thì ta sẽ ăn không ngon ngủ không yên mất.”
“Sao?”
“Hôm đó trên bến đò, các hạ có biết là ta đóng giả làm lái đò không? Các hạ ra tay tương trợ là tương kế tựu kế, lôi ta vào cuộc?”
Trước câu hỏi của Hà Thừa Phong, Sái Thành chỉ chậm rãi lắc đầu, giọng khàn khàn đáp lại: “Lúc tại hạ ra tay thì chưa hề nghĩ ngợi gì nhiều. Lái đò cũng được, bổ đầu cũng xong, tại hạ đâu có cần biết huynh là hà nhân[18], tóm lại không phải là ác nhân thì tại hạ đều ra tay tương cứu cả, điều ấy có gì sai?”
[18] Hà nhân: Vốn nghĩa là người nào, ai… Vì đoạn dưới Hà Thừa Phong có dùng chữ này làm tên mình, nên ở đây người dịch xin dùng nguyên cách đọc chữ Hán như vậy.
“Ha ha! “Hà nhân”, hay sao cho chữ “hà nhân”!” Hà Thừa Phong cười to thành tiếng, rồi tiện tay ném cái áo đỏ của bổ đầu xuống dưới chân.
Đúng lúc hai người quay lưng chuẩn bị đi, bỗng nghe thấy từ trong đất vang lên tiếng loạt soạt. Sái Thành nghi hoặc, ngồi xuống, đưa tay gạt lớp đất vụn ra: Chỉ thấy trong cái hang mà Hắc Tử từng ngủ đông có mấy quả trứng rắn xinh xắn. Một con rắn nhỏ đang cố sức chui ra khỏi lớp vỏ vỡ.
Sái Thành chợt động lòng, anh ta đưa ngón tay, nhẹ nhàng gỡ mấy mảnh vỏ trứng. Con rắn nhỏ tựa hồ nhận thấy có người ở bên, bèn quay thân hình dinh dính của mình, bò lên đầu ngón tay Sái Thành.
Nhìn thấy cảnh ấy, Hà Thừa Phong nở một nụ cười. “Các hạ đúng là có duyên với rắn đấy. Nếu đã như vậy, từ nay về sau ta sẽ gọi các hạ là “Sái Tiểu Xà” nhé! Còn ta, thì gọi là Hà Nhân, bất kể Hà Nhân là “hà nhân”!”
Trước lối xưng hô mà người bằng hữu tự mình đặt ra ấy, Sái Thành không nói lại một câu. Anh ta chỉ gập nhẹ đầu ngón tay, để cho con rắn đen nhỏ bé ấy quấn lấy ngón tay mình.
Từ đó, trên đời không còn thần bổ Hà Thừa Phong nữa, chỉ có “Thủy Quỷ” và “Xà Vương”, tâm can tương chiếu, sống chết tương giao, đạp mọi gió tanh mưa máu, đi trên loạn thế giang hồ.
HẾT.