Sáng hôm sau khi tôithức giấc thì Kiyoshi và Emoto đều đã đi cả. Tôi lại lỡ cơ hội kể choKiyoshi những điều đã biết từ con gái ông Yasukawa, thông tin khiến tôirất phấn khởi. Tôi hơi tiếc vì đã ngủ nướng, nhưng rồi chợt nghĩ ra: tôi có thể tự mình tiếp tục quá trình tìm kiếm. Và nếu tôi giải quyết đượcvụ án trước Kiyoshi thì đó sẽ là một kết thúc quá ư có hậu.
Tôithay quần áo và đi thẳng tới xưởng xe Karasuma. Tôi đến nhà ShusaiYoshida lúc khoảng 10 sáng. Tôi đẩy cánh cửa trượt ở lối vào và gọi tođể xem có ai ở nhà không. Một bà lão mặc kimono xuất hiện. Tôi thưa rằng tôi muốn nói chuyện với ông Yoshida.
“Tôi e rằng chồng tôi đang ở Nagoya,” bà lão đáp.
Tôi thấy lòng chùng hẳn xuống. “Chà, cho phép cháu hỏi khi nào bác trai sẽ về ạ?”
“Có lẽ tối nay.”
Chậc, thế còn hơn không. Tôi xin hỏi số điện thoại để gọi trước khi tới lần nữa.
Chán nản, tôi đi bộ về phía nam dọc sông Kamo cho tới khi dòng chảy nhập vào sông Takano. Thật tình cờ, tôi nhận ra mình đã ở gần Imadegawa: Đóchính là nơi gia đình vợ cũ của Heikichi, bà Tae, đã từng sống một cuộcsống không mấy hạnh phúc.
Giờ đã là ngày mùng 10. Chỉ hai ngàynữa, chúng tôi phải kết thúc giao kèo với Takegoshi Con. Tôi có cảm giác rằng chúng tôi không thể thu được gì vào thời gian đó, cho dù tối naythu được manh mối quan trọng từ Shusai Yoshida hoặc có được một chỉ dẫnbất ngờ nào đó vào ngày mai.
Tôi gọi đến nhà Yoshida lúc 2 giờchiều. Bà lão cho tôi biết lão vẫn chưa về và xin lỗi tôi. Tôi khôngmuốn cứ làm phiền bà nên quyết định không gọi lại trước 5 giờ chiều. Tôi cảm thấy tâm trạng thất vọng ngày càng tăng.
Tôi ngồi trongcông viên một lúc rồi đi tới một hiệu sách. Cuối cùng, tôi ghé vào mộtquán cà phê ở tầng hai để có thể nhìn người ta qua lại mà không để họphát hiện ra mình. Lúc 4 giờ 50 chiều, không thể đợi lâu hơn được nữa.Tôi quay số máy nhà Yoshida và phấn chấn hẳn khi nghe tin ông lão vừa về đến nhà. Tôi gác máy và chạy lao đi, suýt nữa va phải cô phục vụ đangbưng một khay cà phê nóng.
Con gái ông Yasukawa nói rằng ôngShusai Yoshida khoảng 60 tuổi; nhưng mái tóc bạc trắng khiến ông lãotrông già hơn nhiều. Ông Yoshida chào tôi rất nhã nhặn và dẫn tôi vàophòng khách. Ngồi xuống trường kỷ, tôi thuật lại thật nhanh lời thú nhận của ông Bunjiro Takegoshi và cuộc trò chuyện của tôi với con gái ôngYasukawa.
“Dường như ông Yasukawa nghĩ rằng ông Heikichi Umezawa vẫn còn sống. Bác có nghĩ ông Umezawa vẫn còn sống không ạ? Và nếu đúng vậy thì ông ấy có tạo ra Azoth không?” Tôi hỏi.
Ông Yoshida imlặng ngả người trên ghế, lắng nghe rất chăm chú. Vẻ mặt ông lão thoảimái, mái tóc bạc ôm lấy khuôn mặt hơi dài với ánh mắt dịu dàng nhưng sắc bén. Dáng điệu của chủ nhà toát lên vẻ chính trực và căng tràn sứcsống. Thật ngạc nhiên là ông ấy rất hợp với hình ảnh con sói đơn độc màtôi hình dung.
“Dĩ nhiên tôi có biết vụ án,” ông lão bắt đầunói. “Tôi đã tìm hiểu vụ việc bằng kỹ thuật đoán số mệnh nhưng không cóbất kỳ kết luận gì về cái chết của Heikichi Umezawa. Tôi nghĩ 60% khảnăng là ông ấy đã chết. Về Azoth, theo tôi chắc Heikichi đã tạo ra nó.Tôi là thợ làm búp bê, nên tôi hiểu suy nghĩ của ông ấy. Nếu Heikichigây ra các vụ án mạng thì không có lý do gì ông ấy lại không hoàn thành ý tưởng sáng tạo của mình.”
Đúng lúc đó, bà vợ ông Yoshida bưngmột ít trà và bánh ngọt bước vào phòng. Tôi nhận ra do quá chú tâm vớinhững suy nghĩ của mình nên quên mang theo một món quà theo phong tụctruyền thống. Tôi bối rối xin lỗi.
“Ồ, đừng ngại,” ông Yoshida cười to, khiến tôi cảm thấy an tâm.
Các giá sách trongphòng khách đầy kín sách và đủ các loại búp bê; một số con được làm bằng gỗ, một số bằng nhựa tổng hợp. Hầu hết số búp bê ấy trông vô cùng sốngđộng. Tôi hỏi ông Yoshida xem mối quan tâm đến nghề làm búp bê của ônglão hình thành như thế nào.
“Chà, thật sự thì tôi quan tâm đến con người. Không dễ giải thích mối liên hệ này trừ phi có cùng chung sở thích.”
“Cháu hiểu. Nhưng bác nói bác có thể hiểu niềm đam mê của ông Heikichi Umezawa đối với việc tạo ra Azoth.”
“Để tôi giải thích nhé. Có gì đó rất kỳ diệu – nói như thế đúng hơn – vềcông việc chế tạo búp bê. Búp bê là bản sao của con người. Khi tạo ramột con búp bê một cách suôn sẻ, chúng ta có được cảm giác nhất định vềsự sáng tạo. Chúng ta cảm thấy như thể con búp bê đang dần dần có linhhồn. Tôi đã từng có cảm giác này nhiều lần. Chính vì thế, khi làm búpbê, luôn có một cảm giác kỳ lạ về sức mạnh. Cảm giác mà tôi có được sâuxa đến mức tôi không thể nào tìm được đúng từ để diễn đạt xem tại sao nó lại cuốn hút tôi đến vậy. Từ ‘cuốn hút’ chưa thật sự đúng với những gìtôi cảm nhận. Theo truyền thống, anh Ishioka ạ, người Nhật không thíchlàm búp bê lắm. Thời xưa, họ làm những hình haniwa trong các dịp lễ; đólà hình nhân thế mạng thay cho những người bị chôn sống làm vật hiến tế. Làm búp bê có ý nghĩa như là tạo ra một con người chứ không phải là một sở thích hay nghệ thuật. Thực tế, người Nhật xưa rất sợ rằng một conbúp bê có thể đánh cắp linh hồn họ. Đó là lý do tại sao họ không muốntạo ra chúng hoặc thậm chí không vẽ những bức chân dung: điều đó khôngphải do họ thiếu kỹ năng. Vẽ chân dung – cũng như làm búp bê – là mộtđiều cấm kỵ. Chính vì thế rất ít chân dung hoặc tượng của các hoàng đếvà tướng lĩnh ở Nhật Bản, trong khi ở Hy Lạp và La Mã đến đâu cũng gặptượng và chân dung của các hoàng đế và anh hùng. Ở Nhật Bản cổ đại, chỉcó Đức Phật được tạc tượng. Chuyện này nghe có vẻ buồn cười trong xã hội hiện đại, nhưng đó là tín ngưỡng xa xưa. Thợ thủ công dành cả đời mìnhcống hiến cho công việc. Nghề làm búp bê chỉ trở thành một sợ thích phổbiến vào cuối thập niên 1920.”
“Vậy ý tưởng về Azoth là…”
“Chà, có thế đó là một mối quan tâm về mặt tri thức, nhưng dĩ nhiên nó cũnglà một khái niệm hoàn toàn vô nhân đạo. Sử dụng người thật để làm búp bê là trái với các quy định, là chống lại tự nhiên. Xét về lịch sử, tôi có thể đoán được ông Umezawa lấy ý tưởng đó từ đâu. Có lẽ hầu hết nhữngngười chế tạo búp bê nghiêm túc ở thế hệ tôi đều biết điều này, nhưngkhông ai theo con đường mà ông ta chọn. Đó là vấn đề nguyên tắc. Ý tưởng của ông Umezawa rất xa lạ với những ý tưởng của một thợ làm búp bê.”
“Rất thú vị. Cháu bắt đầu hiểu ý bác là gì rồi, bác Yoshida. Nhưng bác nóicó thể ông Umezawa đã chết. Tại sao bác lại nghĩ như vậy?”
“Đólà phán đoán của tôi. Vừa là thợ làm búp bê vừa là thầy bói, tôi rất tòmò với vụ án này. Bên cạnh đó, như anh biết đấy, tôi biết Yasukawa, bạncủa Umezawa. Rất có thể Umezawa còn sống, nhưng để chứng minh, tôi cầnphải có bằng chứng cụ thể, nhưng tôi lại không có. Cảm nhận của tôi dựatrên cảm giác chứ không phải logic. Tôi trình bày như thế này để anhnghe nhé, anh Ishioka. Giả sử Umezawa còn sống, ông ấy vẫn cần phải cóliên hệ với xã hội. Cho dù ông ấy ẩn nấp trong một vùng núi thì ông ấycũng sẽ vẫn cần ăn. Chuyện đó rất không đơn giản như người ta nghĩ. Nếudân làng nhìn thấy ông Umezawa đi kiếm thức ăn, họ sẽ nghĩ ông ấy là kẻlang thang và sẽ báo cảnh sát. Và nếu Umezawa chọn sống trong một đô thị thì láng giềng của ông ấy cũng sẽ muốn biết ông này là ai và từ đâuđến.
“Người Nhật rất thóc mách, tôi nghĩ họ quá chú ý đến ngườikhác. Nhật Bản là một hòn đảo và do tinh thần đảo quốc nên bất kỳ cộngđồng nào cũng sẽ sớm có thái độ ngờ vực với một người như Umezawa dùrằng ông ta có định sống ở đâu đi chăng nữa. Giả sử Umezawa tự sát saukhi tạo ra Azoth; xác chết chắc chắn sẽ bị phát hiện. Sẽ có ai đó chôncất hoặc hỏa táng cái xác. Rõ ràng, ông ấy không thể làm việc đó mộtmình được. Và chính vì thế nên không thể nghĩ rằng Umezawa còn sốngđược.”
“Bác đã bao giờ nói chuyện này với ông Yasukawa chưa?”
“Có, tôi từng nói rồi.”
“Thế ông ấy bảo sao?”
“Ông bạn tôi không nghe tôi nói. Ông già đó hơi cuồng tín với những quan niệm của riêng mình.”
“Đúng vậy, cháu nghe nói ông Yasukawa tin rằng ông Umezawa vẫn còn sống… Nhưng bác nghĩ chuyện gì đã xảy ra với Azoth?”
“Theo ông Yasukawa, nó đã được tạo ra và đặt ở đâu đó tại Nhật Bản.”
“Ông ấy có đề cập đến vị trí cụ thể nào không ạ?”
“Có chứ,” ông Yoshida đáp và đột nhiên cười phá lên.
“Ông ấy nói đó là chỗ nào ạ?”
“Ở Meiji-Mura… Làng Meiji. Anh có biết chỗ đó không?”
“Cháu chỉ vừa mới nghe đến cái tên đó thôi.”
“Đó là một công viên di sản do Công ty Đường sắt Meitetsu phát triển ởInuyama thuộc tỉnh Aichi, phía bắc Nagoya. Mọi thứ đều mô phỏng theocuộc sống thời Minh Trị (1868-1912) và đến giờ vẫn còn hàng chục tòa nhà cổ tồn tại từ thời đó. Rất tình cờ vì hôm qua tôi vừa mới ở đây về.”
“Thật không ạ? Nhưng Azoth nằm ở chỗ nào tại Meiji-Mura chứ? Được chôn ở đâu đó chăng?”
“Chà, trong công viên có một bưu điện cũ, từ Uji-Yamada, nơi trưng bày nhữngvật lưu niệm của ngành bưu chính Nhật Bản qua nhiều năm. Nó có cả nhữnghình mẫu các nhân viên đưa thư trong bộ đồng phục thuộc các thời kỳ khác nhau, những hòm thư cổ lỗ sĩ – đại loại như thế.”
“Vậy là giống như một bảo tàng ạ?”
“Đúng. Hiện tại triển lãm có duy nhất một ma-nơ-canh nữ trong góc phòng. Yasukawa khăng khăng cho rằng đó chính là Azoth!”
“Sao cơ ạ…? Thật không tin nổi! Nhưng chúng ta không thể truy nguyên xem nóxuất xứ từ đâu ư? Điều đó hoàn toàn có thể cơ mà, phải không bác?”
“Ồ, anh không cần phải truy nguyên xuất xứ đâu, anh Ishioka ạ. Đó là một dự án mà cá nhân tôi có tham dự, Anh biết đấy, tôi là nhân viên Công tySản xuất Ma-nơ-canh Owari ở Nagoya, nằm trong nhóm chuyên qua lại giữaNagoya và Kyoto, sản xuất ma-nơ-canh cho toàn bộ công viên Meiji-Mura.Nhưng có chuyện bí ẩn xảy ra: đúng hôm khai trương, chúng tôi phát hiệnthấy có một mẫu ma-nơ-canh mà chúng tôi không chế tạo đã được cho thêmvào để trưng bày. Đó là một ma-nơ-canh nữ, và không phải là sản phẩm của bất cứ ai trong số chúng tôi cho nên mọi người kết luận rằng ban quảnlý Meiji-Mura đã thay đổi quan điểm và bổ sung vào phút cuối cùng.Yasukawa cũng không hẳn điên khùng khi nghĩ đó là Azoth, bởi vìma-nơ-canh này thực sự có diện mạo rất đặc biệt.”
“Hôm nay bác đến Meiji-Mura để sửa chữa ma-nơ-canh à?”
“Không. Tôi đến thăm một người bạn, cũng là một nghệ nhân. Phải thú nhận rằngtôi mê nơi đó; nó gợi cho tôi nhớ đến thời tuổi trẻ của mình ở Tokyo.Người ta đã dẹp bỏ nhiều công trình cũ: một phần của Khách sạn Hoàng đế – do Frank Lloyd Wright thiết kế – rồi Cầu sông Sumida cũ, đại loại những thứ kiểu như thế. Ở đó rất thanh bình vì ngày thường không có nhiềukhách ghé thăm. Tokyo thì quá đông đúc, tôi chịu chẳng thể sống ở đấyđược nữa. Kyoto cũng tốt, nhưng tôi nghĩ Meiji-Mura rất tuyệt. Thỉnhthoảng tôi lại ghen tị với bạn mình vì được làm việc ở đó.”
“Nó là một nơi đẹp thế kia ạ?”
“Ồ, một nơi hoàn hảo. Không biết liệu cánh thanh niên có đồng ý với tôi không.”
“Nhưng, trở lại với ma-nơ-canh nữ… Bác vẫn cười nhạo ý tưởng của ông Yasukawa về chuyện coi nó là Azoth ư?”
“Chậc, Yasukawa lúc nào cũng đắm chìm trong những điều tưởng tượng. Tôi chẳng bao giờ xem ông ấy là nghiêm túc cả.”
“Nhưng ông ấy đã chuyển tới Kyoto để được gần bác, có phải không ạ?”
“Tôi không biết,” Yoshida mỉm cưới, thoáng chút cay đắng.
“Chắc hai bác là bạn bè thân thiết?”
“Bạn tôi thường xuyên tới thăm tôi. Tôi không định nói xấu người đã khuất,nhưng nói thật với cậu, những ngày cuối đời ông Yasukawa có vẻ rất lạ.Cố gắng giải quyết vụ án hoàng đạo trở thành nỗi ám ảnh của ông ấy. Tôibiết đó là sở thích của nhiều người, nhưng với ông Yasukawa thì nó biếnthành một dạng nghiện. Bạn tôi thảo luận về vụ án với tất cả mọi ngườiông ấy gặp. Ông lão cũng bị ốm. Luôn có một chai nhỏ rượu mạnh trongtúi. Tôi khuyên ông ấy nên cai rượu, nhưng lời khuyên của tôi bị bỏngoài tai. Ông ấy không quan tâm đến cái gì khác ngoài việc nhâm nhichai rượu và say sưa phân tích những quan điểm về các vụ án, cho dùngười nghe có quan tâm dù chỉ chút xíu hay là không. Cho nên cuối cùngngười ta tìm cách lảng tránh ông lão. Những lần ghé chơi nhà tôi thưahơn sau một lần tôi thể hiện thái độ bực bội. Nhưng hễ khi nào có mộtgiấc mơ, ông lão lại chạy ngay đến kể cho tôi một cách tường tận. Phầnlớn thời gian Yasukawa chẳng làm được gì có ý nghĩa. Ông ấy đánh mất mối liên hệ với thực tiễn. Đỉnh điểm là lần ông ấy chỉ một người bạn kháccủa tôi và tuyên bố, ‘Người này chính là Heikichi Umezawa!’ Rồi sụpxuống sàn, vái lấy vái để và kêu khóc ‘Đã lâu rồi mới được gặp lại ông,ông Umezawa!’ Bạn tôi có một cái sẹo phía trên lông mày, và đó có vẻ làđiều khiến Yasukawa chú ý.”
“Ông Umezawa cũng có một cái sẹo ư?”
“Tôi không rõ. Chắc chỉ có ông Yasukawa mới biết.”
“Bác vẫn còn liên lạc với người bạn đó của bác chứ?”
“Có, ông ấy là một trong những người bạn thân thiết nhất của tôi. Ông ấy là người tôi vẫn tới thăm tại Meiji-Mura.”
“Cháu hiểu. Cháu xin tên ông ấy được không?”
“Hachiro Umeda.”
“Hachiro Umeda ạ?!”
“Đừng vội rút ra bất kỳ kết luận gì, anh Ishioka. Yasukawa tin rằng HachiroUmeda chính là Heikichi Umezawa. Tên của họ nghe có vẻ giống nhau, nhưng không hề có bất kỳ bằng chứng gì cho thấy họ là cùng một người. Umedalà một cái tên rất thông dụng ở khu vực Kansai, và trên thực tế, ga lớnnhất tại Osaka lại nằm ở một nơi gọi là Umezawa.”
Măc dù Yoshida cố gắng phủ nhận bất kỳ mối liên hệ nào nhưng sự nghi ngờ của tôi càngtăng thêm nữa. Tôi chú ý đến cái tên Hachiro hơn là cái họ Umeda. Hachinghĩa là “tám” và chính xác đã có tám nạn nhân trong vụ án Hoàng đạo:Heikichi (hoặc kẻ đóng thế, nếu ý tưởng của tôi là đúng), Kazue, và sáucô gái nhà Umezawa.
“Theo như tôi biết,” Yoshida tiếp tục,“Umeda chưa bao giờ sống ở Tokyso. Ông ấy trẻ hơn tôi, cho nên không thể là ông Umezawa được. Ông Yasukawa đã nhầm lẫn vì cho rằng Umeda trônggiống Umezawa thời còn trẻ.”
“Thế ông Umeda làm gì ở Meiji-Mura ạ?”
“Ông ấy làm việc tại đồn cảnh sát Kyoto Shichijo, một tòa nhà nguyên bản từthời Minh Trị. Ông ấy không phải cảnh sát thực sự nhưng làm một số côngviệc của cảnh sát, mặc đồng phục cảnh sát thế kỷ 19 và vác theo kiếm.”
Tôi đang suy nghĩ xem làm cách nào tôi có thể gặp người này thì ông Yoshida xen vào như thể đang đọc được suy nghĩ của tôi. “Có lẽ cậu muốn gặp ông lấy, nhưng tôi cam đoan với cậu rằng cậu không nên coi Hachiro làHeikichi Umezawa. Ông Hachiro trẻ hơn ông Umezawa rất nhiều nếu Umezawacó sống tính đến thời điểm này và tính cách hai ông già đó thì khác nhau như nước với lửa; ông Umeda làmột diễn viên hài kịch bẩm sinh, trongkhi Heikichi Umezawa là người phản kháng xã hội và hướng nội. Thêm nữa,ông Umezawa thuận tay trái, còn ông Umeda thuận tay phải.”
Lúctôi ra về và cảm ơn Yoshida đã dành thời gian tiếp, vợ ông ấy bước rachào tạm biệt, cúi người rất thấp. Yoshida bước ra phố cùng tôi. “Côngviên Meiji-Mura mở cửa từ 5 giờ đến 10 giờ vào mùa xuân,” ông nói. “Hãyđến sớm. Cậu sẽ mất vài tiếng để thăm thú xung quanh đấy.”
Tôicảm ơn ông lần nữa và đi về phía trạm xe buýt. Tôi ngước nhìn vầng tháidương đang lặn, hy vọng nó không phải là khúc xạ của những gì sắp tới.
Khi quay trở về, tôi thấy Emoto đang bình thản nghe nhạc nhưng không thấy Kiyoshi đâu cả.
Kiyoshi đâu? Ông đã gặp cậu ấy chưa?” Tôi hỏi.
“Có, tôi gặp lúc cậu ấy vừa ra ngoài,” Emoto trả lời.
“Cậu ấy thế nào?”
“Chà… Ừm… trông cậu ấy rất giận dữ, chẳng thèm nói với tôi đi đâu, cậu ấy chỉ nói ‘Tôi sẽ không bỏ cuộc!’ và sau đó lao ra ngoài.”
Thật tò mò. Nhưng vì đã câu được con cá của mình nên tôi hỏi mượn Emoto xe hơi vào ngày hôm sau.
“Ổ, cứ lấy mà dùng,” Emoto đáp.
Mệt nhoài sau một ngày hoạt động, tôi quyết định không thức khuya nữa. Tôiđặt chuông báo thức với hy vọng sẽ dậy được sớm. Không biết giao thông ở Kyoto có tệ hại như ở Tokyo không nhưng tôi vẫn quyết định đi từ lúc 6giờ sáng để tránh giờ cao điểm. Đi sớm như thế tôi sẽ không gặp đượcKiyoshi, nhưng biết làm sao được: Rõ ràng cậu ấy đang đi theo con đườngriêng của mình và tôi cũng vậy. Chúng tôi sẽ nói chuyện khi tôi quay vềvào buổi tối.
Tôi trải nệm ra sàn và trải sẵn cả cho Kiyoshi đểđáp lại sự giúp đỡ của cậu ấy lần trước, đoạn kéo chăn trùm kín đầu vànhanh chóng chìm vào giấc ngủ.