Trước đó ở ngoại môn, mấy huynh đệ kết nghĩa bọn họ có thể nói là nhóm người xuất sắc, không ai địch nối. Nhưng vào nội môn mới biết thế nào là trời cao đất rộng.
Như những người Khương Vọng đã tiếp xúc trực tiếp như: Lê Kiếm Thu, Trương Lâm Xuyên, Vương Trường Tường, khí chất khác nhau, nhưng người nào cũng đều là anh tài kiệt xuất, Khương Vọng tự cảm thấy bản thân mình không thể nào so sánh được.
Chỉ một Đạo viện thành Phong Lâm đã có nhân tài nhiều đến như vậy, nếu phóng mắt nhìn ra toàn bộ quận Thanh Hà, thậm chí toàn bộ Trang quốc thì sao đây?
Mà những thiên kiêu vang danh thiên hạ, khiến hào kiệt các nước ngưỡng mộ, lại là phong thái t’âm nào!
Nghĩtới những điều này, cũng không khiến Khương Vọng nhụt chí, ngược lại còn khiến ý chí chiến đấu của hắn bùng cháy dữ dội.
Chí ít bây giờ, hắn đã đạp chân lên trên con đường siêu phàm, đã đứng chung một sàn thi đấu với những người loá mắt kia. Vậy còn có cái gì có thế e ngại đây?
Nếu như hỏi trong thành Phong Lâm nơi phong nguyệt nào mê hồn nhất, mấy lão tham ăn
chắc chắn sẽ nói cho ngươi biết một đáp án đó chính là Tam Phần Hương Khí Lâu.
Không phải vì chỉ có ba phân sắc son hương phấn, mà là vì nó độc chiếm hết ba phần hương phấn của toàn thiên hạ, nên gọi là Tam Phần Hương Khí Lâu.
Dù chỉ là một tòa nhà nhỏ.
Nhưng từ ngày khánh thành, nó đã càn quét hết thị trường chỉ có những hạng hoa liễu bình thường của thành Phong Lâm.
Nhóm con ông cháu cha của thành Phong Lâm có thế được hưởng phong lưu như bây giờ, thì phải cảm tạ trình độ nghiệp vụ cao cấp trên lĩnh vực oanh oanh yến yến trong toàn bộ thành Phong Lâm của Tam Phần Hương Khí Lâu.
Nó cũng giống như việc đại cao thủ Ngũ phấm là Đổng A nâng cao chuấn mực giáo dục ở Đạo viện thành Phong Lâm vậy. Đương nhiên, lời này chỉ có Triệu Nhữ Thành mới dám lén nói.
Bây giờ, người đang đứng đầu bảng trong Tam Phần Hương Khí Lâu chính là nữ tử tên Diệu Ngọc.
Bao nhiêu người sáng nhớ chiều mong khuê phòng của nàng ta, hận không thế nằm rạp trên mặt đất, bò dưới váy của nàng ta. Nhưng người may mắn được áu yếm một lần cũng chỉ rải rác.
Trên một chiếc giường bộ diêu trang trí hoa mỹ, một gã trung niên biếu cảm cuồng nhiệt tr@n trụi, hoan hỉ nhấp nhô, nhưng dưới thân gã rõ ràng chỉ có một cuộn chăn đệm.
Đối diện với chiếc giường bộ diêu là một cái nhuyễn tháp được ngăn cách với giường chỉ bằng một tấm rèm châu. Diệu Ngọc lấy tay chổng cằm, lười biếng tựa lưng, đường cong cực kỳ lả lướt. Ánh mắt của nàng ta mê ly, cũng không biết người đàn ông trung niên đang “Tự hưởng khoái lạc” kia có ở trong mắt nàng ta hay không.
Một người áo đen quỳ sát phía trước nhuyễn tháp, cung kính báo cáo cái gì đó.
“Nói cách khác, tên Khương Vọng kia biết được một bộ kiếm quyết tương đổi hay, nhưng trước đó lại chưa từng triến lộ trước mặt người khác?”
Giọng nói của nàng ta lười biếng giống như một con mèo vừa tỉnh ngủ, phe phấy đầu tim người khác.
Người áo đen quỳ sát, từ đầu đến cuối chưa từng ngấng lên: “Thật là như thế. Thuộc hạ vô dụng, không tra ra được hắn học từ nơi nào.”
Diệu Ngọc hơi hơi suy nghĩ, vung tay lên: “Lui xuống đi.”
Người áo đen nghe lời, trán chống sàn nhà, đầu ngón ngón áp út khép lại, ngón cái, ngón trỏ,
ngón giữa thành hình tam giác gắn phủ phía dưới tim, tụng nhỏ: “Vong Xuyên chi đế, Hoàng Tuyền chi uyên. Tôn thần quy thế, chúc chiếu nhân gian (1)”
(1) Vong Xuyên chi đế, Hoàng Tuyền chi uyên. Tôn thần quy thế, chúc chiếu nhân gian: Đáy Vong Xuyên, vực Hoàng Tuyền. Tôn thần về thế, chiếu rọi nhân gian.
Cả người cứ bò sát dưới sàn rồi lui ra như vậy.
“Một bộ kiếm quyết chưa từng xuất hiện trong Đạo viện thành Phong Lâm? Là được truyền từ đại võ phu thử kiếm (2) nào đó trong thiên hạ? Hay là…” Ánh mắt của Diệu Ngọc mê ly.
(2) Như đã có nhắc đến trong các c hương trước, cao thủ thời đại này thích ngao du thiên hạ để tìm hiểu Đạo của mình, nâng cao, củng cố tu vi. Vậy nên, câu này của Diệu Ngọc là đang thầm nghĩ không biết có phải Khương Vọng học được từ vị đại võ tu nào đó ngao du trong thiên hạ hay không.
“Đạo Tử…”
Nàng ta nghĩ càng nhiều, càng xa, càng mờ ảo hơn.
“Vong Xuyên chi để, Hoàng Tuyền chi uyên. Tôn thần quy thế, chúc chiếu nhân gian.”
Nàng ta cũng dùng tư thế như kẻ áo đen trước đó, nhẹ ngàng tụng niệm.
Mà trên giường bộ diêu, người đàn ông tr@n trụi vẫn ngọ nguậy với chính mình, trong huyễn tưởng mỹ diệu, dường như có thể trầm luân vĩnh cửu.
Lúc này, tại một một thôn xóm hẻo lánh nào đó của Ung Quốc, một gã đàn ông đầu trọc hung hãn đang gặm ăn thứ gì đó, máu tươi chảy đầy cả miệng và tay.
Mà từ lổ rách trên ngực thôn dân ngã xuống đất bên cạnh gã mà đoán… rõ ràng là gặm ăn tim người.
Gã gặm vô cùng vui vẻ, đột nhiên một đường ánh sáng lấp lánh xoẹt tới, đánh thẳng về phía gã.
Đáng tiếc đây không phải là phi kiếm trừ ác từ trời giáng xuống.
Gã đầu trọc bỗng đưa tay chụp một cái, nắm được đường ánh sáng kia, hóa ra nó là một thanh trường kiếm cổ xưa.
“Đáng chết! Có ngày nuốt luôn tim của ngươi!” Gã đầu trọc đang ăn thì bị quấy rầy nên hiển nhiên vô cùng nổi giận.
“Lão già, niên đại nào rồi, còn dùng phi kiếm truyền thư!” Gã vừa mắng chửi, vừa dùng bàn tay
dính đầy máu tươi mở thư trên phi kiếm ra.
Bây giờ, hộp truyền thanh ngàn dặm của Mặc Môn đã phổ biến nhiều năm, lượng tiêu thụ cực nhiều. Nhưng vẫn có vài thế lực không chịu sử dụng, bởi vì không ai có thế xác định những người làm cơ quan của Mặc Môn có động tay chân gì bên trong hộp truyền thanh hay không.
Dù cho người trong Mặc Môn từng chỉ trời chỉ đất phát thề — Có điều, ở thời đại mà lời thề tâm ma nghiêm cấn nhất cũng đã bị người ta nghiên cứu ra mấy chục loại phương pháp phá giả thì nào có tác dụng gì chứ?
“Trang Quốc, quận Thanh Hà, thành Tam Sơn?” Gã đọc từng chữ, nhịn không được thán một câu: “Cái nơi xó xỉnh nào vậy!”
Thanh trường kiếm kia lắc lắc trên không, dường như đang thúc giục gì đó.
Gã đầu trọc càng thêm bực bội, nhưng hiến nhiên, chủ nhân gửi thư trước mắt là sự tồn tại mà gã không cách nào kháng cự.
Gã dùng ngón tay nhuốm máu vẽ năm nét xiêu vẹo trên lá thư, là vẽ một con ngựa đơn giản, ý nghĩa chính là: Đi ngay.
Tiện tay cố định phong thư này trên thân kiếm, thanh kiếm giống như lúc đến, chớp nhoáng mà đi.
Đến khi phi kiếm kia đi xa, gã đầu trọc mới chợt nhớ ra cái gì: “Lão đại sẽ xem có hiếu không nhỉ?”
Gã nghĩ một lát, liền bỏ phiền não nho nho này qua một bên.
“Như vậy mà nhìn còn không hiếu thì làm lão đại làm gì!”
Đi đến cửa túc xá, Khương Vọng nghe tiếng nói được truyền đến từ bên trong.
Sau khi tiến vào nội môn, hắn vẫn ở cùng một chỗ với Lăng Hà và Đổ Dã Hổ để thuận tiện cho việc luận bàn cầu đạo. Triệu Nhữ Thành cứ ba năm hôm đến ở một đêm. Mặc dù gian phòng này so với trước thì tốt hơn rất nhiều, nhưng đối với Triệu Nhữ Thành mà nói… vần chẳng có gì khác biệt.
Nghe được tiếng bước chân của Khương Vọng, Lăng Hà bước nhanh tới: “Đệ về rồi à, người nhà của đệ chờ đệ đã nửa ngày!”
Người nhà…
Khương Vọng giật mình, gấp gáp đi vào phòng thì nhìn thấy một phụ nhân phong vận du tồn (1) bên bộ bàn ghế hoa lê vàng cạnh cửa – Đương nhiên bộ bàn ghế kia, cũng là đồ vật Triệu Nhữ Thành chết sống cho người dọn tới.
(1) Phong vận du tồn: dùng để miêu tả phụ nữ trung nhiên nhưng vẻ ngoài bảo tồn tốt, dáng vẻ tươi đẹp.
Đỗ Dã Hố thì ngồi ở bên cạnh khoanh tay bó gối, dáng vẻ thật thà, đáp lời theo bổn phận. Phụ nhân hỏi một câu, hắn ta đáp một câu. Giống hệt một hùng hài tử kiềm chế dã tính trước mặt gia trưởng của bằng hữu.
Chỉ là “hài tử” này, râu ria có phần quá rậm rạp, tướng mạo có phần quá sốt ruột. So ra thì dường như còn lớn tuổi hơn so với phụ nhân bảo dưỡng tốt kia.
Thấy Khương Vọng đến, phụ nhân kia liền đứng lên, trong mắt là sợ hãi xen lẫn vui mừng: “Tiểu Vọng, đã lâu không gặp! Con cao lên rồi, cũng cường tráng hơn!”
Khương Vọng gật đầu vấn an: “Chào Tổng di nương.”
Mầu thân hắn mất sớm, phụ nhân này là kế thất của phụ thân hắn. Hắn cũng không sửa được miệng, trước giờ chỉ xưng di nương.
Di nương này cũng không phải người xấu,
cũng chưa từng ngược đãi hắn. Chỉ là sau khi phụ thân tái giá chưa được mấy năm, Khương Vọng thi được vào ngoại môn Đạo viện. Việc tu hành vất vả nên trừ ngày lễ hoặc cuối năm, dường như sẽ không về nhà. Bọn họ chưa từng có mâu thuẫn, nhưng tình cảm cũng không thế nói là sâu đậm.
Tổng di nương vừa chào hỏi, vừa kéo đứa bé gái trốn ở sau lưng tới trước mặt: “Mau chào đi con!”
Đây là một bé gái rụt rè, được mẫu thân thúc giục mới mở miệng nhỏ giọng nói: “Ca.”
Tống di nương mặc trên thân một bộ y phục được làm từ lụa, tươi sáng xinh đẹp, cộng thêm ba phần nhan sắc. Tiểu cô nương ăn mặc cũng không kém, ngũ quan của cô bé xinh xắn rực rỡ, quả thực khiến người ta phải ngợi khen.
Chỉ tiếc vừa gọi một tiếng xong, cô bé lại lập tức lui ra sau mẫu thân, chỉ nhô ra nửa cái cái đầu nhỏ, quan sát huynh trưởng đã lâu không gặp của mình.
Đương nhiên Khương Vọng rất thương muội muội của mình, máu mủ tình thâm, chuyện này dù ai cũng không thể thay đổi. Chỉ là, hắn một lòng tu hành, mỗi lần về nhà cũng chỉ vội đến vội đi nên tiếng “Ca” này đã lâu rồi không được nghe.
Một tiếng này tuy nhỏ tuy nhẹ, nhưng như
trân châu lăn trên mâm ngọc, trong trẻo êm tai không thế nói nên lời.
Trải qua sát phạt, thường thấy máu tanh u tối, tim của Khương Vọng đã tự trở nên lạnh cứng, bổng nhiên có cảm giác được hòa tan.
Sau khi trở về từ trấn Đường Xá, khó có lúc Khương Vọng lộ ra nụ cười thật lòng: “An An!”
Liếc qua nước trà chưa động qua trên bàn, Khương Vọng quan tâm nói: “Di nương và mọi người ăn cơm chưa? Chờ ta một lát, để ta đến tửu lâu đặt một bàn.”
“Để ta đi đặt!” Đỗ Dã Hố như được đại xá: “Ta biết rõ tửu lâu trong thành Phong Lâm hơn!”
Tống di nương ngồi xuống, xua xua tay: “Không vội, lần này di nương tới là có chuyện cần tìm con.”
Nhìn Khương An An đang trộm quan sát mình, Khương Vọng nở nụ cười ôn nhu, mở miệng: “Có chuyện gì người nói đi.”
Tống di nương xoa xoa đầu nhỏ của Khương An An: “Con cùng hai đại ca ca này ra ngoài dạo được không? Nhìn nơi huynh trưởng của con sinh hoạt tu hành.”
Đỗ Dã Hổ lập tức giang hai cánh tay đối với Tiểu An An, mặt to cười đến giống như đóa hoa cúc già túm lại một chỗ: “Đến đây, Hổ ca dẫn muội
đi mua thức ăn ngon!”
Lăng Hà cũng tự giác nói: “Di nương yên tâm, chúng ta và Khương Vọng là giao tình sinh tử, nhất định sẽ chăm sóc tốt cho An An.”
Tiểu An An rất hiếu chuyện, mặc dù dáng vẻ rụt rè, gan cũng nhỏ, nhưng Tống di nương đã lên tiếng nên cô bé vẫn bẽn lẽn đi vài bước đến bên Lăng Hà.
Dù nhìn thế nào thì Lăng Hà diện mạo đoan chính tươi cười ôn hòa cũng đáng tin hơn nhiều so với Đổ Dã Hố mặt râu quai nón cười đến khoa trương đáng sợ.
Lăng Hà dẫn Khương An An ra ngoài, ngược lại trước khi đi Đỗ Dã Hổ hung hăng trừng Khương Vọng một cái, ánh mắt kia rõ ràng là nói: Muội muội của ngươi có ý gì?
Đợi mấy người kia đi rồi, Khương Vọng mới thu lại nụ cười, nhìn Tống di nương: “Gần đây trấn Phượng Khê có còn yên bình? cửa hàng trong nhà vẫn tốt chứ?”
“Cũng không có vấn đề lớn gì, chỉ là…” Tống di nương hơi ngại ngùng.
Khương Vọng nhẫn nại: “Có chuyện gì di nương cứ việc nói.”
“Từ ngày cha con đi, việc làm ăn trong cửa hàng ngày càng đi xuống, chẳng mấy chốc nữa
hai mẹ con chúng ta cũng không sống nối…”
Tống di nương mở lời, lấy khăn ra lau nước mắt.
Cửa hàng còn sót lại trong nhà buôn bán chính là dược liệu, mặc dù quy mô không lớn nhưng cũng đã làm ăn nhiều năm, có danh tiếng khá tốt trong trấn Phượng Khê. Năm đó, gia đạo sa sút, nhà hắn gần như đã bán tất cả sản nghiệp, chỉ dư lại mỗi tiệm dược liệu này là bởi vì nó đã tồn tại lâu năm. Có cửa hàng này trong tay, tuy không thế đại phú đại quý, nhưng chắc chắn có thể duy trì được kế sinh nhai.
Rốt cuộc là nhân tài bậc nào, mới có thể kinh doanh một tiệm dược liệu tế thủy trường lưu (1) ngày càng lụn bại trong mấy năm ngắn ngủi đây?
(1) Tế thủy trường lưu: khe nhỏ sông dài, ý nói tiệm dược liệu đã có quy mô và định hướng sẵn, có thể tự hoạt động không phải nhọc công nhiều.