Một chuyện kinh khủng đã xảy ra trong khoảng thời gian ngắn ngủi sau đó: ngài Benedict đang gà gật bỗng nhiên giật mình hoảng hốt khi tiếng chuông gióng giả kêu vang, ông nghiêng người chao đảo về vòng tay đã sẵn sàng của Số Hai. Bọn trẻ còn chưa kịp quay sang nhìn nhau thì tiếng chuông đã tắt ngấm, cùng lúc đó tất cả các đèn đồng loạt tắt, và Constance hét toáng lên. Và rồi, sau một lúc mò mẫm, sờ soạng trong bóng tối, vấp phải người này, thúc khuỷu tay vào người kia, Kate cũng tìm thấy cái đèn pin. Khi Kate bật đèn pin lên, mọi người phát hiện ra Constance đã biến mất.
“Cậu ấy đi đâu rồi?” Reynie gào lên.
“Có thể cậu ấy xuống đầu cầu thang tầng hai, đúng như bọn mình được hướng dẫn,” Sticky nói.
“Thế quái nào mà tớ không tin lắm,” Kate nói.
“Được rồi, tất cả các em,” Rhonda giục giã bọn trẻ trong khi Số Hai đang cố gắng đánh thức ngài Benedict, “xuống chỗ đầu cầu thang ngay lập tức. Milligan sẽ gặp các em ở đó, và nếu cần chú ấy sẽ tìm Constance. Số Hai và chị cũng sẽ xuống ngay khi ngài Benedict tỉnh dậy. Nào, chạy đi!”
Bọn trẻ quờ quạng rời khỏi phòng – dẫn đầu là Kate với cái đèn pin trên tay dùng để soi đường – đi vào hành lang tối om. Khi ngoài kia đang sấm giật, gió hú và mưa rơi dày trên mái nhà thế này, nếu chẳng may có ai đó đang lén lút bám sát bọn trẻ thì chúng cũng chẳng thể nào phát hiện ra. Biết thế, nên cả lũ cứ níu chặt lấy nhau, cùng giật thót mỗi khi có sấm. Đến đầu cầu thang, ánh đèn pin của Kate rọi vào cái chuông yên ắng và lặng lẽ, trước khi đụng phải một khuôn mặt buồn rười rượi.
“Constance đâu rồi?” Milligan hỏi.
“Tớ đã nói với các cậu thế nào?” Kate quay sang hỏi hai cậu bạn.
“Bọn cháu đã hi vọng sẽ thấy bạn ấy ở đây,” Reynie nói.
Milligan nhìn bọn trẻ với ánh mắt thất vọng. “Chắc cô bé đã chạy lướt qua ta trong bóng tối. Phức tạp rồi đây. Không còn thời gian để đưa các cháu tới chỗ an toàn nữa rồi – nếu Constance đang ở trong mê cung thì bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể để lạc mất cô bé. Nhưng ta lại không thể để các cháu ở đây một mình được. Các cháu sẽ phải đi cùng ta.”
“Vào trong mê cung?” Sticky hỏi. “Trong bóng tối thế này ạ?”
6“Không còn cách nào khác đâu. Giờ thì, Sticky, túm lấy áo ta, còn các cháu túm áo Sticky nhé. Dù thế nào cũng phải theo sát ta đấy. Và Kate, tắt cái đèn pin của cháu đi. Nó chỉ giúp bọn họ tìm thấy cháu thôi.”
“Họ?”
“Đúng thế,” Milligan nói. “Bọn họ đã đến, vì các cháu. Thôi không nói chuyện nữa!”
Cả lũ nín thinh, không nói một từ nào, và cùng đi theo Milligan xuống dưới mê cung. Các bóng đèn dưới này cũng tắt ngóm – chúng chẳng còn sáng lên mỗi khi có người bước vào phòng nữa. Bóng tối bao trùm toàn bộ. Lũ trẻ và Milligan, chìm nghỉm trong màu đen đó, dắt díu nhau từ phòng này sang phòng khác cho đến khi Milligan bỗng nhiên đứng sững lại. Bọn trẻ nín lặng. Ban đầu, Reynie không nhìn thấy gì cả. Nhưng rồi, khi quay lại phía sau, cậu bắt gặp hai chùm sáng của hai chiếc đèn pin ở một căn phòng gần đó. Reynie xiết chặt tay Sticky, và Sticky còn xiết lại mạnh hơn.
Từ phía căn phòng có ánh sáng bỗng vang lên một tiếng thét đau đớn – giọng của Constance – sau đó là tiếng rơi uỵch một cái giống như một người vừa ngã xuống sàn. Rồi tiếng một người đàn ông rít lên, “Tao tóm được nó rồi.”
“Đi nào,” Milligan thì thầm, vội vàng bước về phía căn phòng có ánh sáng. Bọn trẻ líu ríu theo sau, bám chặt lấy nhau. Cùng đi trong bóng tối kiểu này thật khó khăn, và trong khi Kate di chuyển nhẹ nhàng như một chú mèo thì hai cậu bạn lại loạng choạng, và phải cố gắng mới có thể theo kịp. Có lẽ chúng đã cản trở Milligan rất nhiều. Cho nên, dù chỉ mất một lúc để cả bốn người đến được căn phòng, nhưng đèn đã tắt ngóm. Căn phòng trở về trạng thái tối om, im lặng, và gần như trống rỗng ngoại trừ một chút hương cay nồng còn rơi rớt lại.
“Ta ngửi thấy mùi nước hoa co-lô-nhơ của ngươi rồi,”
Milligan nói vào bóng tối.
“Hy vọng là ngươi thích nó,” một giọng đàn ông cất lên. Những chùm sáng chợt loé lên ngay phía sau, in rõ bóng của bốn người lên tường. “Giờ thì làm ơn quay lại. Thật chậm thôi. Hãy cố giữ vẻ lịch sự và bình tĩnh nhé.”
Milligan bắt đầu quay người lại, còn bọn trẻ thì đang quá sợ hãi, và còn vì chúng nhận ra rằng mình đã bị lừa nhưng lại không muốn tin điều đó, nên cứ bám chặt lấy nhau không nhúc nhích.
“Lề mề quá đấy,” giọng nói lại cất lên. “Thôi nào. Hãy để chúng ta nhìn các ngươi. Đừng lo, ta sẽ không soi đèn thẳng vào mắt các ngươi đâu. Ta biết làm thế các ngươi sẽ thấy rất khó chịu.”
Milligan ghì vai bọn trẻ rồi từ từ quay mặt chúng về phía có giọng nói. Gã đàn ông đã nói sự thật – chùm sáng đang được chĩa xuống dưới – và qua khoảng mờ của ánh đèn Reynie có thể nhìn thấy những người đang đứng ở phía bên kia. Cậu không rõ trước đó mình hình dung sẽ nhìn thấy những gì, nhưng chắc chắn đó không phải là những gì đang hiển hiện trước mắt: hai gã đàn ông đẹp trai, trong đó có một gã rất cao, đang nhìn cậu với ánh mắt hài lòng, ân cần. Bộ đồ chúng đang mặc không chê vào đầu được, đồng hồ bạc cỡ lớn trông xa hoa, và nước vẫn đang rỏ xuống từ hai chiếc áo mưa dài họ mặc. Đáng ngạc nhiên là cả hai đều đang cười rất thân thiện. Thú thật, nụ cười tươi rói ấy – đi kèm với vẻ ngoài lịch lãm của chúng – khiến Reynie trong chốc lát đã gần như chẳng còn thấy căng thẳng nữa. Gần như thôi. Bởi vì, ngay sau đó, trong bóng tối ngay phía sau chúng, có thứ gì đó lổn nhổn trong cái túi vải bạt đập vào mắt Reynie. Một bàn chân nhỏ xíu của Constance thò hẳn ra ngoài.
“Mày nghĩ bọn tao không nghe thấy bước chân của bọn mày hay sao?” gã đàn ông cao lớn hỏi với vẻ sảng khoái thấy rõ, cứ như là hắn ta và bọn trẻ đang chia sẻ mấy câu chuyện cười. “Sao nào, bọn mày thật là một lũ trâu bò! Bây giờ giơ tay lên, nhanh!”
Reynie lòng đầy sợ hãi, nhưng chẳng thể nghĩ ra vì sao bọn chúng phải tuân lời hai lão kia, vì chúng hình như không có mang theo vũ khí. Nhưng Milligan đã làm theo yêu cầu của chúng – rõ ràng Milligan biết điều gì đó mà Reynie không biết. Tim đập thình thịch liên hồi, Reynie và Kate buông vội nhau rồi giơ tay lên cao. Còn Sticky, luống cuống do quá sợ hãi nên cứ níu chặt lấy cái áo khoác của Milligan.
“Làm ơn bảo cái thằng nhái trọc lóc kia giơ tay lên hộ tao cái,” gã đàn ông cao lớn kiên quyết.
“Không sao đâu, Sticky,” Milligan nói. “Làm theo hắn yêu cầu đi. Cố lên nào.”
Cuối cùng thì Sticky cũng buông được tay khỏi cái áo của Milligan. Ngay khi cậu bé vừa làm thế – và trước sự ngỡ ngàng của tất cả mọi người ở đó – Milligan nhảy vọt qua một lối ra bỏ ngỏ và biến mất. Milligan hành động nhanh chóng và bất ngờ đến mức chả ai có được dù chỉ một giây để kịp phản ứng. Hai gã lạ mặt quay sang nhìn nhau rồi bất ngờ cười phá lên.
Reynie thấy cổ họng mình khô rát. Sticky thì chẳng thể kìm nổi tiếng thút thít bật ra.
“Một gã vệ sĩ ra trò đấy,” gã thấp hơn cười ha hả. “Tao phải công nhận là nó làm việc tốt, bảo vệ chính nó ấy. Tao chưa từng thấy ai nhanh nhẹn như vậy cả.”
Gã cao cười khúc khích. “Mày có thấy gã đó quen quen không?”
“Nghe mày nói thế, tao cũng thấy nó quen,” gã còn lại gãi gãi đầu nói. “Dù tao cóc biết chính xác được. Mà thôi, mặc kệ chuyện này đã.”
“Các ông định làm gì chúng tôi?” Kate hỏi chân run lẩy bẩy nhưng giọng nói vẫn đầy vẻ thách thức.
Gã cao lớn kẹp cái đèn pin vào dưới cánh tay, hướng hai lòng bàn tay về phía trước ra vẻ an ủi. “Nào, cứ bình tĩnh đi đã,” gã dỗ dành. Cùng lúc đó, gã thấp hơn cũng lặp lại y chang những hành động này – kẹp cái đèn pin vào nách, giơ hai tay về phía trước. Đến lúc này Reynie mới nhận ra mấy cái đồng hồ bạc của hai gã này giống hệt nhau, và vì một số lý do nào đó mà mỗi tên có hẳn hai – cái mỗi tay một cái.
“Nếu chúng mày cứ ngoan và nghe lời thế này,” gã cao lớn nói, thoáng trên khuôn mặt gã là nụ cười ra vẻ cảm thông, “thì tao hứa là sẽ không đau đâu.”
“Thôi thôi, nói cho chúng biết sự thật luôn đi,” gã còn lại giục. “Đùa thế là đủ rồi đấy.”
Gã cao lớn quay quay tròng mắt. “Thôi được rồi, thật ra thì sẽ đau đấy. Rất đau. Nhưng nếu chúng mày chịu để yên,” gã nói, lắc lắc cánh tay để lộ ra hai chiếc đồng hồ bên dưới tay áo, “tao hứa sẽ không đau quá lâu.”
Reynie cảm nhận bên cạnh mình Kate và Sticky đã đơ cứng cả người. Chúng không rõ điều gì sắp xảy ra, chỉ biết nó sẽ đáng sợ lắm. Hai gã đàn ông lại cười. Reynie nghe thấy một tiếng điện xẹt…
Bất thình lình, tiếng cười im bặt, mà lại chỉ vì hai tiếng huýt sáo vớ vẩn – suỵt, suỵt. Nghe tiếng huýt sáo, gã cao lớn nhắm nghiền mắt, hoảng loạn đánh rơi cái đèn pin, và nằm vật xuống sàn. Tên còn lại cũng hành động y như đồng bọn của mình, ngồi sụp xuống bất tỉnh. Hai cái đèn pin bị rơi lăn lóc khắp phòng.
Chùm sáng của một trong hai chiếc đèn pin rọi thẳng vào lối ra ở ngay sau hai gã đàn ông, ở đó Milligan đang đứng, tay cầm một cái súng bắn thuốc an thần. Milligan bước vào, nhổ hai cái mũi tên nhỏ ra khỏi vai hai gã đàn ông, vừa làm vừa giải thích với lũ trẻ, “Các cháu nhớ đấy nhé. Lối ra nào rồi cũng có lối vào.”
Căn phòng ăn dường như đã biến thành một nơi hoàn toàn khác. Mưa đã tạnh, giấy tờ không còn vương vãi khắp nơi, và ánh mặt trời rực rỡ xuyên qua những khung cửa sổ. Nhưng không khí trong phòng thì vẫn căng thẳng lắm. Trên bàn, bữa sáng của bọn trẻ vẫn còn y nguyên như trước khi chúng rời khỏi phòng ăn – mới chỉ một tiếng trôi qua kể từ lúc Reynie xin Milligan trà và mật ong – nhưng ấm trà và hũ mật ong cũng có thể chỉ là dàn cảnh trong một vở kịch, thế nên với họ mọi chuyện dường như hư ảo và vô nghĩa với thực tại.
Mọi người đểu tập trung quanh bàn ăn, chỉ trừ Constance vẫn ngồi bệt một mình dưới sàn nhà. Hai gã đàn ông trong mê cung khiến Constance bị sốc (một cú sốc theo đúng nghĩa đen do mấy tia điện thè ra như lưỡi rắn từ mấy chiếc đồng hồ bọn chúng đeo ở tay, cô bé đã kể lại như thế), và còn hơi chút quẫn trí cho đến tận lúc này. Mấy lọn tóc vàng lơ thơ của cô bé dựng đứng lên, chĩa tứ tung, trông chẳng khác gì hình ông mặt trời trong bức vẽ của một em bé, còn hai mắt thì đảo loạn xạ như chẳng hề liên quan gì đến nhau. Mấy phút trước Constance đã lảo đảo lượn mấy vòng quanh cái ghế, cố gắng xoay sở để trèo lên nhưng mãi chẳng được. Cho nên cô bé quyết định ngồi phịch xuống sàn, nói rằng trước hết cứ ngồi ở đó đã.
Ngài Benedict lo lắng quan sát Constance. “Cháu chắc là con bé ổn chứ, Rhonda? Cháu kiểm tra kỹ chưa đấy?”
Rhonda gật đầu. “Cô bé sẽ bình tĩnh lại ngay thôi ạ.”
“Được rồi, những gã đó là ai?” Kate buột miệng.
“Những tên bắt cóc chuyên nghiệp,” ngài Benedict nói, “những gã xảo quyệt làm việc cho Sender. Nên nhớ hắn ta dùng trẻ em để gửi đi những thông điệp.”
“Có nghĩa là hắn bắt cóc trẻ em?” Kate nói.
“Hẳn cũng có những phương thức nhẹ nhàng hơn. Nhưng với một vài đứa trẻ thì đúng là như vậy, hắn bắt cóc. Lũ do thám của hắn có cái mũi thính kỳ lạ đối với những đứa trẻ “yếu ớt”. Nhưng các cháu không cần lo lắng quá đâu, hai gã đó đã bị đưa đến một nơi cách xa nơi này, và sẽ bất tỉnh trong một thời gian nữa, nhờ có Milligan đấy.”
Số Hai lúng búng trong miệng. “Giá như Constance đừng chạy vào trong cái mê cung ấy. Constance, lý do quái nào khiến em quyết định đi vào đó thế?”
“Em đâu có định làm thế,” Constance cáu kỉnh đáp lại. “Lúc đó em chỉ tìm cách để đi đến đầu cầu thang giống như ngài Benedict đã nói thôi mà” – hai cậu bé quay sang nhìn Kate khiến cô bé phải nhún vai thừa nhận mình đã sai – “nhưng em đã bước xuống nhiều bậc cầu thang hơn cần thiết. Rồi em nghe thấy có tiếng người phía sau, nên đành đi sâu hơn vào trong mê cung để mong trốn được. Thế mà chúng đã tìm thấy em,” Constance rùng mình nhớ lại. “Chúng tìm thấy em.”
Số Hai vỗ vỗ vai cô bé. “Đừng lo lắng, Connie, giờ em được an toàn rồi.”
“Đừng gọi em là Connie,” Constance cáu, rồi loạng choạng đứng lên để thử cố trèo lên cái ghế lần nữa. Lần này thì cô bé làm được.
“Ta vui vì thấy cháu đã có vẻ ổn hơn, Constance ạ,” ngài Benedict nói.
“Nhưng những gã đó sẽ không quay trở lại chứ ạ?” Reynie hỏi.
“Có lẽ là có đấy,” ngài Benedict nói. “Cho nên chúng ta cần hành động thật nhanh chóng. Hy vọng chúng sẽ không phát hiện ra chúng ta trong một khoảng thời gian đủ dài cho việc nghiên cứu xong xuôi.”
“Và nếu như chúng ta không thể thì sẽ thế nào?”. Constance hỏi, có vẻ cô bé nghĩ đến thất bại nhiều hơn.
“Nếu chúng ta không thể, các cháu, sẽ mất tất cả,” ngài Benedict hét lên. Rồi ngay lập tức tỏ vẻ hối hận, dịu giọng lại, ông tiếp, “ta xin lỗi vì đã lên giọng. Thất bại trong trường hợp này là một viễn cảnh buồn thảm. Để ta giải thích. Hai gã đó định bắt các cháu để đưa đến một ngôi trường có tên là Học Viện Siêu Tài Năng.”
“Cháu đã từng nghe đến nơi đó,” Reynie nói. “Vài bạn ở nhà tế bần muốn đến, nhưng ngài Rutger nói điều đó không đúng quy định và ông ấy không đồng ý.”
“Chẳng có gì đáng nghi ngờ, và ít nhất thì nó đi ngược lại với chính sách của chính ông ấy. Không chỉ là giám đốc trại tế bần, Rutger còn là hiệu trưởng trường học ở đó nữa phải không nào? Và ông ấy được trả tiền cho từng học sinh.”
“Cả những học sinh học gia sư ạ?” Reynie hỏi.
Ngài Benedict nhìn cậu bé vẻ cảm thông.
Reynie thấy căm phẫn. “Vậy đó là lý do ông ấy không cho cháu chuyển đến một trường chuyên nào đó! Vì lòng tham nên ông ấy muốn giữ cháu lại cái trường đó.”
“Cũng có thể ông ấy nghĩ điều đó là tốt nhất cho cháu,” ngài Benedict nói. “Thường thì lòng tham lại khiến hành động của một người xuất phát từ những nguyên nhân mà chính bản thân người đó cũng chẳng biết. Dù thế nào, việc đó là tốt cho cháu. Cái Học viện đó nhận bất kỳ đứa trẻ nào, nhưng nó đặc biệt thích thú với trẻ mồ côi và những kẻ bỏ trốn. Thật ra, như các cháu cũng có thể thấy, những đứa trẻ này được đưa đến Học viện bất kể chúng có muốn hay không.”
“Vậy có phải những thông điệp bí ẩn kia xuất phát từ Học viện đó không?” Reynie hỏi.
“Ta tin nó được dựng lên vì chính mục đích đó,” ngài Benedict nói. “Thỉnh thoảng Sender cần có những đứa trẻ mới, và Học viện đào tạo thì lại có được một nguồn cung ổn định.”
“Thật khó tin là Sender lại có thể làm được như thế,” Sticky nói.
“Hắn vô cùng xảo quyệt, Sticky ạ. Học viện đào tạo đó cực kỳ bí mật và được bảo vệ nghiêm ngặt – đây chẳng thể là một điều bình thường đối với một trường học, các cháu cũng biết mà – và lại còn có danh tiếng nữa. Những thông điệp bí ẩn kia đã khiến người ta tin vào ưu điểm lớn lao của nó.”
“Có một cụm từ thường được lặp đi lặp lại ở những các thông điệp,” Rhonda giải thích. “Không dám thách thức Học viện. Rõ ràng đó là một cơ chế tự phòng vệ.”
“Vì thế mà cái Học viện đó đã hoàn toàn đứng ngoài mọi quy định,” ngài Benedict nói. “Nó hoạt động dựa trên những luật lệ tự nó đặt ra, và không hề phải chịu bất kỳ sự can thiệp nào.”
“Việc đó là tàn nhẫn!” Kate kêu lên. “Cháu không thể tin nổi là lại không có ai đi tìm những đứa trẻ đó!”
“Ta e là những kẻ bỏ trốn, những đứa trẻ mồ côi biến mất còn dễ dàng hơn là những người thuộc cơ quan chính quyền ấy. Các cháu đừng quên nhé ‘Những người bị mất tích không phải bị mất tích, họ chỉ bị chia cách thôi’.”
Bọn trẻ thất kinh quay sang nhìn nhau.
“Thật may vì có Milligan ở đây bảo vệ bọn mình,” Kate rùng mình. “Học viện là nơi cuối cùng trên trái đất này tớ muốn đến.”
Lúc này, trông ngài Benedict có vẻ lo lắng. Ông hắng giọng và nói, “Ồ, chúng ta không ép các cháu đến Học viện nếu các cháu không muốn, sự thật là như thế. Nhưng các cháu phải tới đó, tới đó để trở thành những đặc vụ bí mật của ta.”