Quả đúng như Reynie đã nghĩ trước đó, căn phòng nằm trên tầng bảy của tòa nhà. Chẳng có bảng hiệu trên cánh cửa. Nhưng, sau khi lòng vòng khắp một lượt qua các dãy hành lang vắng, soi kỹ tất cả các bảng hiệu trên cửa các căn phòng khác (nào là 7-A, 7-C, 7-D, và 7-E), cả ba quay lại với căn phòng duy nhất chẳng có chữ gì trên cửa. Kate đánh liều gõ cửa. Ngập ngừng một thoáng, cô bạn tiếp tục gõ và còn có vẻ gõ to hơn. Phải qua vài lần như thế mới có phản hồi – nhưng không phải từ phía bên kia cánh cửa mà là từ ngay phía sau lũ trẻ.
“Gõ thế là đủ rồi đấy”, một giọng trầm vang lên gần sát bên tai.
Trước mặt lũ trẻ bây giờ là một người đàn ông cao lớn, đội chiếc mũ bạc phếch; chiếc áo khoác bạc phếch; cái quần bạc phếch, và cả đôi ủng dưới chân cũng bạc phếch. Gò má hồng hào của ông bị che khuất trong bộ râu quai nón lởm chởm, trong khi mái tóc (từ những gì có thể nhìn thấy phía dưới chiếc mũ) thì lại có màu vàng nhạt. Nếu chẳng có đôi mắt tinh nhanh màu xanh nước biển kia, người ta có thể sẽ nghĩ đấy là một con bù nhìn vừa mới thoát khỏi cái cọc chôn chân ở ngoài đồng. Và trên hết là cái nét buồn thảm trên gương mặt đang nhìn chúng. Lũ trẻ ngay lập tức nhận ra cái nét buồn thảm ấy.
Reynie bị ám ảnh đến mức, thay vì chào hỏi cho phải phép, lại hỏi, “Ngài ổn chứ ạ?”
“Ta e là không. Nhưng không quan trọng. Các cháu đã sẵn sàng cho vòng thi tiếp theo chưa?”
“Nhưng mà chúng ta chưa biết gì về nhau ạ!” Kate nói và chìa tay ra.
“Tên cháu là Kate Wetherall, bạn bè gọi cháu là…,” cô bé liếc sang hai cậu bạn đang nhìn mình với ánh mắt ngờ vực.
“À, bạn bè gọi cháu là Kate ạ.”
Người đàn ông miễn cưỡng bắt tay Kate. Nhưng mà, thậm chí cả cái bắt tay cũng ỉu xìu, ông ấy chẳng buồn bỏ sức ra xiết tay Kate. Đến lượt hai cậu bé tự giới thiệu về mình và người đàn ông lại hờ hững bắt tay chúng. “Thế là biết nhau rồi nhé. Bây giờ…,” ông nói.
“Nhưng ngài vẫn chưa cho chúng cháu biết tên,” Kate bướng bỉnh.
Người đàn ông thở dài, đăm chiêu suy nghĩ. Cuối cùng, ông quyết định, “Gọi ta là Milligan.”
“Đấy là tên hay họ của ngài ạ?”
“Milligan thôi. Không hỏi thêm gì nữa đâu nhé. Bắt đầu nhé. Nào, ai là George?”
Kate cau mày giận dữ. Cô bé đang dần dần mất kiên nhẫn rồi.
“Ngài chẳng nghe bọn cháu nói gì cả. Bọn cháu là Sticky, Reynie và Kate!”
Sticky hắng giọng, “Ừm, à, thực ra tên tớ là George. Sticky là biệt danh thôi.”
“Có nghĩa tên cậu là George Washington? Cái tên của tổng thống? Của người đã khai sinh ra đất nước chúng ta á?” Kate hỏi.
“Cũng chẳng phi thường đến mức ấy đâu,” Sticky tự vệ. “Cậu đừng trêu chọc tớ thế nữa.”
“Thoải mái đi,” Kate nói. “Tớ chẳng chọc ghẹo gì đâu nhé.” Rõ ràng là Sticky có vẻ khá nhạy cảm với tên gọi của mình.
Ngài Milligan nói, “Dù là Sticky hay George thì cháu cũng sẽ là người đầu tiên. Đóng cánh cửa kia lại ngay sau khi bước qua nó nhé.”
Sticky mở to mắt, “Cháu phải vào trong kia một mình ạ?”
“Đúng rồi, chỉ là một bài thi thôi mà. Hai bạn này cũng sẽ vào trong đó ngay thôi.”
“May mắn nhé Sticky,” Reynie vỗ vỗ lên vai cậu bạn của mình, động viên. “Tớ chắc bạn sẽ làm tốt.”
“Vào đi, Sticky,” Kate nói.
Sticky tháo kính ra, lau lau hai mắt kính, rồi đeo lại lên mắt. Xem xét một chút, cậu bé lại lặp lại quy trình này một lần nữa. Có vẻ như có đốm trên mắt kính mà mãi chẳng lau sạch.
“Đừng chần chừ nữa, Sticky,” Milligan giục. “Không có gì làm cháu đau đâu.”
Cuối cùng Sticky gật đầu, đeo kính, cất cái khăn lau và bước qua cánh cửa. Milligan lập tức đóng cánh cửa lại, rồi bỏ đi mà chẳng nói từ nào.
“Cậu thấy sao?” Kate nói. “Ngài ấy thậm chí cũng chẳng hướng dẫn chúng ta phải làm gì, hay bài kiểm tra sẽ kéo dài trong bao lâu, chẳng nói gì cả.”
“Ngạc nhiên thật đấy,” Reynie trả lời.
Vừa lúc đó, Milligan quay trở lại và thông báo đã đến lượt Reynie. Không một chút thông tin nào về những gì đã xảy ra với Sticky.
“Hẹn gặp cậu ở phía bên kia cánh cửa nhé,” Kate nói. “Dù là ở bất cứ đâu.”
Reynie hít một hơi thật dài rồi đi vào căn phòng, cùng lúc cánh cửa phía sau đã được đóng lại. Cậu thấy mỗi mình mình trong căn phòng trống. Trên bức tường đối diện, phía trên cánh cửa đóng kín, có dòng chữ:
VƯỢT QUA CĂN PHÒNG NÀY, KHÔNG ĐƯỢC GIẪM CHN
LÊN BẤT CỨ Ô VUÔNG MÀU XANH HOẶC ĐEN NÀO.
Reynie nhìn xuống. Trên nền xi măng ngay sau cánh cửa, chính là chỗ cậu đang đứng, có một vòng tròn lớn màu đỏ. Phía bên kia căn phòng, cạnh cánh cửa đóng kín đối diện, là một vòng tròn đỏ khác. Khoảng sàn nhà giữa hai vòng tròn này giống như một bàn cờ khổng lồ với các ô chữ nhật màu xanh, đen và vàng xen kẽ nhau. Reynie tính toán. Có quá nhiều ô màu xanh và đen so với số lượng ít ỏi các ô màu vàng. Cậu nhanh chóng nhận ra, vượt qua căn phòng này mà không đặt chân lên bất cứ ô xanh hoặc đen nào là điều không thể. Các ô màu vàng ở cách xa nhau đến mức, theo Reynie, thậm chí một chú kangaroo cũng khó có thể nhảy được từ ô này sang ô kia. Reynie ngẩng lên xem xét lại dòng chữ. Sau một thoáng suy nghĩ, cậu mỉm cười lắc đầu rồi tự tin rảo bước qua bàn cờ, đi qua vòng tròn đỏ phía bên kia và bước qua cánh cửa.
Sticky và Milligan khi đó đang đợi Reynie ở phía xa. Cả hai đã bí mật theo dõi Reynie qua các lỗ hổng nhỏ xíu trên tường. Sticky bối rối tỏ vẻ muốn hỏi Reynie điều gì đó, nhưng Milligan đã ra hiệu cho cậu yên lặng. “Các cháu có thể xem, nhưng phải trật tự.”
Xong xuôi, Milligan đi ra ngoài để thông báo với Kate là đã đến lượt cô bé.
Vài giây sau, Kate ngập ngừng bước vào phòng 7-B. Đọc dòng chữ xong, Kate quan sát sàn nhà, tính toán xem liệu mình có thể nhảy từ ô màu vàng này sang ô màu vàng khác được không. Cuối cùng, cô bé lắc đầu từ bỏ ý nghĩ này. Tiếp đó, cô bé ước chừng khoảng cách giữa hai cánh cửa, trước khi lôi ra một đoạn dây từ trong chiếc giỏ cô mang theo, tạo một cái thòng lọng ở đầu dây, rồi với một động tác thành thục, quăng chính xác cái thòng lọng vào cái núm trên cánh cửa phía bên kia căn phòng. Buộc đầu dây còn lại vào núm cửa phía sau, Kate kéo căng sợi dây, cẩn thận thắt nút rồi leo lên. “Giờ mà có cái mái chèo nhỉ.” Kate vừa bước trên sợi dây vừa nói với chính mình, “Mình sẽ cầm nó ở đằng trước để giữ thăng bằng.”
Đúng là một mái chèo có thể đã có ích, vì khi đi được một nửa quãng đường, Kate loạng choạng suýt ngã (hai cậu bạn thì thót tim chờ đợi). Nhưng chỉ sau vài giây vung tay liên hồi, cô nhanh chóng lấy lại được thăng bằng. Cẩn thận đi thêm vài bước nữa, Kate nhảy phốc xuống vòng tròn đỏ phía bên kia căn phòng.
“Oao!” Sticky thì thầm. “Cậu ấy làm được rồi!”
Nhưng trước khi Kate kịp nhập hội với hai cậu bạn của mình, Milligan xuất hiện và dắt cô bé quay lại điểm xuất phát. Cô bé sẽ phải làm lại mà không được sử dụng sợi dây, còn Milligan thì hứa sẽ trả lại sợi dây cho cô bé sau khi vòng thi đã kết thúc.
“Chẳng công bằng gì cả,” Sticky thì thầm. “Có ai nói trước với cậu ấy là không được dùng dây đâu.”
Ngay lúc đó, Kate đã bắt đầu lôi mấy thứ đồ đựng trong cái giỏ ra và nhét tất cả vào túi khiến mấy cái túi của cô bé phồng lên trông rất buồn cười. Xong xuôi, Kate tháo quai giỏ rồi quấn nó quanh người. Đá cái giỏ đổ nghiêng trên sàn, cô bạn nhảy lên thành và bắt đầu lấy chân lăn cái giỏ tiến về phía trước. Kate lúc đó trông giống như một chú gấu trong rạp xiếc đang cố gắng giữ thăng bằng trên một quả bóng vậy. Loay hoay một lúc, lăn bên này, bên kia một hồi, cuối cùng cô bạn cũng đến được cái vòng tròn đỏ phía bên kia.
Reynie và Sticky kinh hãi nhìn nhau. Cô bạn này rốt cuộc là người như thế nào?
Nhưng lúc Kate đang lúi húi móc lại cái quai giỏ và bỏ lại mấy thứ vào trong giỏ, Milligan bước tới, lại một lần nữa dắt Kate quay trở lại vòng tròn đỏ xuất phát. Kate còn phải miễn cưỡng nộp lại cho Milligan cái giỏ và cả đống dụng cụ trong đó. Tuy nhiên, cô bạn lấy lại tinh thần rất nhanh. Trước cả khi Milligan kịp đóng cánh cửa, Kate đã nhún vai, vặn các đốt ngón tay, rồi chống cả hai bàn tay xuống sàn xi măng, rồi nhấc bổng cả người và chân lên cao. Bằng cách này, cô nhanh chóng vượt qua căn phòng mà chẳng phải đặt một bước chân nào xuống nền nhà.
“Đừng lo,” Milligan nói khi Kate đẩy tay mở cánh cửa. Trả lại cho Kate đầy đủ những thứ trước đó đã thu của cô bé, Milligan tiếp, “Cháu đã qua.”
“Tớ vẫn không hiểu,” vừa đi theo Milligan xuống một cầu thang tối om, Sticky vừa thắc mắc với Reynie, “là sao cậu lại qua được nhỉ. Dĩ nhiên là tớ vui lắm với kết quả này, nhưng tớ vẫn không tự lý giải được. Tớ bò với tay và đầu gối, nên rõ ràng là bàn chân của tớ không chạm vào bất cứ ô màu đen hoặc màu xanh nào. Còn Kate, bạn ấy đã phải dùng đến cả những màn nhào lộn. Trong khi cậu chỉ ung dung đi qua căn phòng, mà rõ là chân cậu có bước vào cả những ô tối màu.”
Lúc đó, mọi người đã bước xuống đến những bậc cầu thang cuối cùng, trước khi đi vào một đường hầm ẩm ướt, tối tăm trong ánh đèn yếu ớt. Vài chú rết cuộn tròn ngay giữa lối đi, và tai lũ trẻ thì nghe tiếng động từ những con vật đang lẩn khuất đâu đó trong bóng tối. Bằng con đường tối tăm này, Milligan đang đưa lũ trẻ đến với “địa điểm của vòng thi cuối cùng,” Reynie cảm tưởng như có lẫn cả những thanh âm của sự đe dọa trong câu nói của Sticky.
“Chỉ việc bước qua thôi á?” Kate hỏi. “Reynie, quái nào mà cậu vẫn qua nhỉ?”
“À, lại là một câu đố mẹo nữa đấy mà. Vì chẳng có ô vuông nào ở trên sàn nhà cả – tất cả đều là hình chữ nhật. Các cạnh của chúng có dài bằng nhau đâu.”
“Ơ đúng rồi,” Kate reo lên.
Sticky thì vỗ vỗ vào trán. “Vậy là cái quần của tớ bị bẩn một cách vô ích rồi. Tớ đã bò lê trên sàn như một đứa trẻ. Tớ thật ngớ ngẩn! Chẳng tin được là họ vẫn để tớ lọt vào vòng thi tiếp theo này.”
“Cậu đâu có ngốc,” Reynie nói. “Cậu đang ở đây, chẳng phải thế sao?”
“Nhưng đây là đâu nhỉ?” Kate xen vào. “Ngài Milligan, ta đang ở đâu thế ạ?”
Chẳng dừng bước, cũng chẳng buồn quay đầu lại, Milligan chỉ trả lời ngắn gọn, “Hiện tại ta đang ở phía dưới Đường Số Năm”.
“Cháu đoán là chúng ta không thể đi ở phía trên kia được, phải không ạ?” Sticky hỏi. “Ở trên đó có ánh nắng, chẳng ẩm ướt giống dưới này, và lại không hề có cái mùi khó chịu giống mùi cá ươn nữa.”
“Và trên đó không có những thứ đáng sợ cứ chực rơi vào đầu chúng ta,” Reynie thêm vào khi đang co rúm vì sợ hãi, cố phủi con bọ cánh cứng cứ cố tìm cách chui vào dưới cổ áo cậu.
“Nắng ở ngay phía trước kia rồi,” ngài Milligan đáp. Quả đúng như thế. Lúc này, lũ trẻ đang cùng đi lên dãy cầu thang dẫn vào một căn hầm trống, ngay ngoài cửa hầm là dãy phố yên ắng với những cây du[1] và những ngôi nhà cổ ở hai bên đường. Phải mất một lúc mắt lũ trẻ mới quen được với ánh nắng chói chang bên ngoài đường hầm.
[1] Vì trong sách không đề cập đến nên mình đành tra trên google. Đây là hình cây du.
Lợi dụng lúc đó, Milligan biến mất.
Cả ba nhớ rõ ràng là chúng đã đi ngay sau Milligan lúc ra khỏi hầm. Nhưng hiện gi, trong khi Milligan cao to, lưng thẳng, đội chiếc mũ cũ mèm, cái áo sờn vải, thì trước mắt chúng lại là một người đàn ông nhỏ thó, lưng còng, bụng phệ, đeo kính râm và đội mũ lưỡi trai màu vàng nhạt.
“Ông là ai?” Kate gào lên, gập người phòng thủ. “Ngài Milligan đâu rồi?”
“Ta đây,” người đàn ông trả lời vẻ mệt mỏi, kéo thấp kính xuống để lộ ra đôi mắt buồn màu xanh nước biển. “Ta đang hóa trang thôi.”
Lũ trẻ tỉ mẩn xem xét người đàn ông lạ. Quả đúng là Milligan. Bằng cách nào đó mà lũ trẻ không nắm bắt được, Milligan đã nhét chiếc mũ và cái áo khoác xuống dưới cái áo sơ mi đang mặc để tạo ra cái bụng phệ, lôi ở đâu đó ra cái kính râm và mũ lưỡi trai (cụ thể là từ đâu thì cả ba đều không tài nào đoán ra được); rồi cố tình rụt vai lại, cúi người về phía trước để trông thấp hơn. Quả là một sự thay đổi rất đáng nể.
“Ngài có phải là một ảo thuật gia không vậy?” Sticky hỏi.
“Chẳng là ai cả,” Milligan trả lời ngắn gọn. Rồi ông chỉ về phía ngôi nhà ba tầng bên kia đường, ngôi nhà với những bậc thang đá dẫn lên cửa trước. “Bây giờ thì ngồi đợi ở những bậc thang kia nhé, Rhonda sẽ ra đón các cháu ngay thôi.”
“Rhonda Kazembe sao?” Reynie hỏi. “Là bạn gái tóc xanh đấy ạ?”
Nhưng, ngay từ lúc Reynie còn chưa kết thúc câu hỏi của mình, cánh cửa căn hầm đã đóng sầm lại, và lần này thì Milligan biến mất thật sự.
“Các cậu có nghĩ là chúng ta sẽ được gặp một người nào đó bình thường vào ngày hôm nay không?” Kate hỏi.
“Tớ bắt đầu thấy nghi ngờ về điều đó rồi,” Reynie trả lời.
Rồi cả lũ băng qua đường, qua chiếc cổng dẫn vào ngôi nhà Milligan chỉ. Đó là một ngôi nhà cổ kính với các bức tường xây bằng đá xám, những khung cửa sổ to và rất cao, và mái nhà lợp ván đỏ đang rực lên dưới ánh nắng chiều như những mảng than hồng. Hoa hồng giăng kín các bức tường rào, và sừng sững ngay gần ngôi nhà là một cây du khổng lồ mà có lẽ nó còn nhiều tuổi hơn chính ngôi nhà nữa. Ở đó, những chiếc lá xanh đã bắt đầu ngả vàng, những sắc vàng đầu tiên của mùa thu. Bên dưới là khoảng sân nhỏ mọc đầy những cây tường vi, và mấy bậc thang đá, nơi lũ trẻ đang ngồi. Ngay cả mấy bậc thang này cũng bị tường vi bao phủ mất quá nửa. Một địa điểm tuyệt vời để nghỉ ngơi đấy chứ! Và thế là cả lũ ngồi bệt xuống những bậc thang dưới tán du, cảm nhận sự thanh thản sau một ngày mệt nhoài với thử thách.
Lúc này, Reynie mới hỏi, “Sticky này, tớ muốn biết thêm về bố mẹ cậu. Họ có biết…”
“Bọn mình đã nói về chuyện này rồi, cậu nhớ chứ?” Sticky ngắt lời rồi quay sang Kate, giải thích. “Cái cô Áo Vàng đó cứ vòng vo mãi khi Reynie và tớ nói cần gọi điện thoại. Reynie sợ cô giáo của cậu ấy lo lắng, và tớ cũng thế, tớ không muốn bố mẹ tớ lo lắng. Hóa ra là trước đấy cô ấy có gọi cho họ thật, nhưng cô ấy cứ kỳ cục sao ấy. Cậu có gặp phải chuyện này không?”
Đây không phải là điều Reynie định hỏi. Cái cậu muốn biết là bố mẹ Sticky có biết việc cậu ấy đã phải mất nửa buổi tối mới tìm ra Tòa nhà Thầy tu không. Vì một lí do nào đó, Sticky đã cố tình lảng tránh ánh mắt tò mò của Reynie.
“Tớ chẳng có ai để gọi điện cả,” Kate nhún vai. “Mẹ mất khi tớ còn bé xíu, bố bỏ đi khi tớ mới có hai tuổi.”
Giọng Sticky trùng xuống, “Tớ rất tiếc…”
“Không phải lo lắng thế đâu,” Kate dịu dàng. “Tớ thậm chí còn chẳng nhớ gì về họ nữa kia.” Trầm ngầm một lúc, Kate nói tiếp, “Thật ra, tớ vẫn còn nhớ một kỷ niệm vê bố.”
“Thế là cậu có nhiều hơn tớ rồi đấy,” Reynie nhận xét. “Kỷ niệm đấy là gì thế Kate?”
“À, hồi ấy, gần nhà tớ có một cái bể nước của nhà máy, và có lần bố đưa tớ đến đó bơi. Lúc đó tớ mới có hai tuổi thôi, nhưng đã là một tay bơi cự phách rồi. Hôm ấy nước hồ mát lạnh, thời tiết thì ấm áp, và tớ cảm thấy thật tuyệt vời. Tớ cười nói, té nước, đùa nghịch cho đến lúc mệt lả. Rồi bố tớ – giờ tớ chẳng tưởng tượng ra nổi khuôn mặt bố nữa rồi, dù tớ vẫn nhớ lắm cảm giác lúc đôi tay khỏe khoắn của ông nhấc bổng tớ ra khỏi hồ nước – điệu tớ lên vai để về nhà. Tớ đã hỏi bố là mình có được bơi ở đó lần nữa không, ông trả lời ‘Có chứ, con mèo Katie bé bỏng của bố’ Tớ nhớ lắm, bố gọi tớ là ‘Con mèo Katie’.”
“Và cậu đã không quay lại đó, đúng không?” Sticky hỏi, cậu bé đang càng lúc càng thấy xúc động trước câu chuyện của Kate.
“Điều tiếp theo tớ còn nhớ được là tớ đang ở trong trại trẻ mồ côi.”
Reynie lắc đầu. “Kate này, thật lạ nhé. Bố cậu có vẻ, ừm, ông ấy có vẻ…”
“Là một người tốt?” Kate hoàn chỉnh ý của Reynie. “Tớ biết chứ, và tớ cũng hay suy nghĩ về điều này lắm. Và tớ đoán là mọi người không phải lúc nào cũng đúng với dáng vẻ bên ngoài của họ. Hoặc là bố tớ đã thay đổi. Chắc là chẳng bao giờ tớ tìm được câu trả lời cả.”
“Tệ thật,” Sticky thì thầm mà chẳng buồn quan tâm xem hai người bạn của mình có nghe thấy không.
“Mà cũng chẳng sao”, Kate bỗng hào hứng. “Chuyện qua lâu rồi. Dù thế nào, tớ cũng đang có một cuộc sống tốt. Rạp xiếc cũng được lắm chứ.”
Reynie tròn mắt ngạc nhiên quay sang Sticky, nhưng Sticky có vẻ quá phiền muộn đến mức chẳng nghe thấy Kate nói gì. Reynie quay lại nhìn Kate. “Có phải cậu vừa nhắc đến rạp xiếc?”
“Đúng thế”, Kate vừa cười vừa trả lời. “Lúc bảy tuổi tớ đã trốn khỏi trại trẻ để chạy theo một gánh xiếc. Người ta đưa tớ quay lại trại trẻ, rồi tớ lại bỏ trốn, và cứ tiếp tục như thế thêm vài lần nữa. Cuối cùng, họ cũng phải đồng ý để tớ ở lại với gánh xiếc, để tớ khỏi gây thêm rắc rối nữa. Và tớ sống như thế trong suốt mấy năm qua đấy. Cuộc sống ở rạp xiếc cực kỳ thú vị, nhưng tớ nghĩ mình đã sẵn sàng cho một điều gì đó mới lạ. Cho nên, khi đọc được mẩu tin về kỳ thi này, tớ chào tạm biệt bạn bè và giờ thì tớ đang ở đây.”
Sửng sốt với những gì Kate kể, Reynie nói: “Thú vị đấy. Và nó – ý tớ là cuộc sống ở rạp xiếc ấy có giúp cậu được nhiều không? Có bao giờ cậu thấy nhớ bố mẹ mình không?”
Reynie vốn luôn tò mò về cảm giác của những đứa trẻ mồ côi khác. Cậu chẳng biết chút gì về bố mẹ cả, vì thế nên cũng chẳng có cảm giác nhớ nhung cụ thể nào. Nhưng, vào những ngày mưa, hay khi bị bạn bè châm chọc, hay những đêm khuya giật mình tỉnh giấc sau một cơn ác mộng, lúc thấy cần một cái ôm, hay một câu chuyện để dỗ đành giấc ngủ. Reynie không hẳn là nhớ bố mẹ mình, nhưng cậu đã mong có họ ở bên cạnh.
Còn Kate, rõ ràng cô bé chẳng có cảm giác đó. “Nhớ gì kia?”, cô bé nói mà chẳng gợn chút buồn. “Tớ đã nói rồi đấy, tớ chẳng có một chút ký ức nào về mẹ. Còn bố, ai cần đến một ông bố sẵn sàng bỏ mặc đứa con gái bé bỏng một mình? Tớ thà dành thời gian ấy cho những con voi và những chú hề còn hơn.” Kate nhíu mày. “Sticky, cậu sao đấy?”
Suốt câu chuyện, vẻ mặt của Sticky càng lúc càng buồn thảm, đôi mắt mỗi lúc lại buồn bã hơn, đến mức giờ khuôn mặt của cậu ấy hoàn toàn giống cái dáng vẻ buồn thảm của ngài Milligan khổ sở.
Reynie đặt tay lên vai Sticky, “Này, cậu không sao đấy chứ?”
“À… ừ.” Sticky lấp lửng. “Chỉ là, các cậu biết đấy, tớ thấy thương Kate. Thật kinh khủng khi phải chịu cái cảm giác chẳng ai cần đến mình.”
Kate cười (Reynie nhận thấy có chút gì đó không thoải mái trong nụ cười này) và nói, “Cậu không nghe tớ nói, phải không anh bạn thân? Tớ nói rồi mà, tớ đang có một quãng thời gian thú vị!” Rồi Kate tiếp tục thiết đãi hai cậu bạn những câu chuyện xung quanh cuộc sống ở rạp xiếc – nào là treo mình trên xà đu, rồi nhảy qua vòng lửa – cho đến khi Sticky đã dần vui trở lại, và chủ đề về những ông bố bà mẹ không còn xuất hiện trong câu chuyện của chúng nữa.
Phải gần một tiếng sau, khi cả ba đã bắt đầu cằn nhằn rằng chúng đang rất đói, cánh cửa bật mở, Rhonda Kazembe bước ra. Hoặc ít nhất lũ trẻ đoán người này chính là Rhonda Kazembe. Cùng chiều cao, cùng màu da với Rhonda, nhưng không có chiếc váy mây bồng bềnh và mái tóc dài màu xanh. Thay vào đó là mái tóc sẫm màu được tết thành những bím xinh xắn, khéo léo kết hợp với một chiếc áo màu xanh và đôi xăng đan. Nhìn thấy cả ba trên bậc cửa, cô mỉm cười hài lòng.
“Chào các em! Nhớ chị không?”
“Rhonda phải không? Thật là cậu không đấy?” Reynie hỏi.
“Chị hy vọng thế,” cô trả lời. “Nếu không thì chắc đã có ai đó rất khéo léo đóng giả chị.”
Rhonda ngồi xuống bậc thềm, và Reynie có cơ hội quan sát cô kỹ hơn, cậu nhận thấy trước đó mình đã bỏ qua một số đặc điểm ở người bạn này. “Chị không phải là trẻ con!” Reynie nhận xét. “Chị là một người lớn thực thụ.”
“Ờ thì,” Rhonda trả lời, “đúng thế, một người lớn rất bé bỏng, rất trẻ trung.”
“Em đã đoán là chị đang cố che giấu điều gì đó với cái kiểu áo chị mặc mà, nhưng lúc đó em đoán là cái áo đó có liên quan đến việc gian lận kia.”
“Không không,” Rhonda lại cười. “Là để mọi người bị phân tâm, không để ý đến tuổi tác của chị nữa đấy, và để làm em xao nhãng nữa nhóc ạ.”
“Em có ý này,” Kate nói khi cái dạ dày của cô bé bắt đầu kêu ầm ĩ. “Sao chị không giải thích tất cả những chuyện này trong khi chúng em đang có chút gì đó để lót dạ ạ?”
“Sẽ sớm thôi, Kate. Vẫn còn một vòng thi nữa, nhưng ngay sau đó, dù các em qua hay không qua, chị hứa là sẽ đãi cả ba một bữa tối tuyệt vời. Công bằng chưa nào?”
“Cũng xứng đáng đấy ạ,” Kate nói.
“Thế thì bắt đầu nhé. Khi chị yêu cầu, lần lượt mỗi em sẽ đi qua cánh cửa này. Ở phía kia của tòa nhà có một cái cầu thang. Các em phải tìm cho ra cái cầu thang đó nhanh nhất có thể, leo lên và rung cái chuông treo trên đỉnh. Tốc độ là yếu tố rất quan trọng, vì thế đừng có mà lãng phí thời gian đấy. Có em nào muốn hỏi gì không?”
“Có khó hơn các vòng thi trước không ạ?” Kate hỏi, cố tỏ ra can đảm.
“Vài bạn bảo nó khó,” Rhonda nói. “Nhưng các em sẽ làm được khi nhắm mắt lại.”
“Có phải là một trò điên rồ khác nữa không đây?” Sticky lí nhí.
“Cũng có thể, nhưng nó không nguy hiểm,” Rhonda nói, nhưng câu trả lời này cũng chẳng giúp được gì nhiều cho cảm giác tự tin của Sticky.
“Ai đầu tiên ạ?” Reynie hỏi.
“Câu hỏi quá đơn giản,” Rhonda trả lời. “Em đấy.”
Đó là ngày của những thử thách, và Reynie thì đều đã vượt qua những thử thách ấy. Cho nên, cậu bước qua cánh cửa với những bước chân đầy tự tin. “Chắc lại là một trò nào đó nữa đây,” nghĩ thế nên Reynie cảm thấy mình đã hoàn toàn sẵn sàng.
Giờ thì Reynie đang đứng trong một căn phòng đèn đuốc sáng choang, tường màu đen quét hắc ín. Mặt trong cánh cửa trước, nơi Reynie vừa mới đi qua, cũng được sơn đen và chẳng hề có núm cửa, thành ra nó lẫn vào với mấy bức tường. Căn phòng khá chật chội; có lẽ chỉ rộng khoảng hai mét (Kate hẳn sẽ biết chính xác, Reynie nghĩ) và gần như trống rỗng. Không kể cánh cửa trước gần như vô hình, còn có ba lối ra nữa: bên trái, bên phải và trước mặt. Chẳng hề có cánh cửa nào ở những lối ra này, và mấy căn phòng ở các phía xa kia thì tối om nên Reynie chẳng thể nhìn thấy có những gì ở đó.
“Liệu bọn mình có phải đi qua những căn phòng tối om kia không nhỉ?” Reynie nghĩ ngợi. “Nếu có, chắc là Sticky sẽ sợ lắm đấy.” Nhưng, thật ra, Reynie nghĩ về Sticky cốt là để quên đi nỗi sợ hãi của chính mình, bởi cái viễn cảnh phải mò mẫm trong bóng tối đang làm cậu lo sợ nhiều hơn cậu dám thừa nhận.
“Nào,” Reynie nói to để thấy can đảm hơn, “không có thời gian để lãng phí đâu, đi thôi.” Rồi lao qua lối ra ngay trước mặt (đây có lẽ là con đường ngắn nhất dẫn đến phía sau tòa nhà) và, như có một phép lạ, Reynie thấy mình như lại đang ở ngay chính căn phòng cậu vừa rời khỏi. Cũng chật chội; cũng đèn thắp sáng choang, cũng tường đen, và cũng những ô cửa tối om trên mấy bức tường.
“Cái gì thế này?” Reynie nói và vội vàng quay nhìn lại phía sau, rồi lúng túng quay nhìn một lượt khắp căn phòng. Ngay lập tức, cậu biết mình đã mắc sai lầm. Đáng lẽ, nếu không xoay người tứ tung thế, cậu đã chẳng bị mất phương hướng như lúc này. Cậu đang ở trong mê cung của những căn phòng giống hệt nhau hướng nào cũng giống hệt nhau.
Sự tự tin chẳng mấy chốc đã rơi rụng hết.
“Nghĩ đi nào,” Reynie tự nhủ. “Khi mình bước vào phòng, đèn sẽ tự động bật sáng, và rồi lại tự động tắt đi khi mình ra khỏi. Nhưng có công tắc cạnh các lối ra mà, có lẽ nếu mình bật công tắc, đèn sẽ sáng liên tục đấy. Có thể chỉ đơn giản vậy thôi.”
Tuy nhiên, hy vọng của cậu nhanh chóng tan biến ngay sau khi Reynie xem xét cái công tắc ở lối ra gần nhất. Cái mà Reynie đã nghĩ là công tắc ấy, thật ra chỉ là các mảng trang trí bằng gỗ. Cậu bé đang nhẩm tính quay lại và cố lần lại bước chân của mình thì chợt nghĩ đến một khả năng, có thể chính bản thân mấy miếng gỗ đó lại quan trọng. Reynie soi kỹ hơn. Kích cỡ tương đương một quân bài, trên mảnh gỗ có khắc bốn mũi tên chỉ theo bốn hướng và được sơn bốn màu khác nhau. Mũi tên màu xanh lá cây chỉ về phía bên phải, mũi tên màu xanh da trời chỉ sang bên trái, mũi hình lượn sóng màu vàng hướng lên trên, còn lại mũi màu tím chỉ xuống dưới.
Tất nhiên, Reynie nghĩ, những mũi tên này không phải để trang trí, mà có tác dụng chỉ đường. Nhưng biết phải đi theo cái nào đây? Sau khi đi khắp phòng, xem xét một lượt cả bốn mảnh gỗ, Reynie vẫn chẳng tìm ra được điều gì mới mẻ. Bốn ô cửa, bốn mảnh gỗ, có nghĩa là có tận mười sáu mũi tên để lựa chọn, mà lại chẳng có khuôn mẫu nào rõ ràng cả. Reynie vắt óc suy nghĩ. Có nên đi theo cái mũi tên màu xanh da trời không nhỉ? Màu này trên các cột đèn giao thông đều có nghĩa là “Đi” mà. Nhưng nếu thế thì có lộ liễu quá chăng? Cũng có thể mấy mũi tên màu đỏ mới là cái mình nên theo – nhưng nếu đó lại là một thủ đoạn để đánh lừa thì sao? Nhưng mà, sẽ chẳng công bằng, nếu như có ai đó bị mù màu và chẳng thể nhìn thấy sự khác biệt giữa mấy mũi tên đó thì sao?
Ngay khi vừa nghĩ đến đây, Reynie đã phát hiện ra điều bí mật ở đây.
Lấy tay sờ lên những mũi tên khắc trên mấy mảnh gỗ trước mắt, Reynie mỉm cười. Cái duy nhất tay mình có thể cảm nhận được là cái mũi tên lượn sóng này. Rhonda đã trả lời Kate thế nào nhỉ, ‘nếu nhắm mắt, các em sẽ làm được’. Có vẻ như không đơn giản là chị ấy đang động viên bọn mình. Thật ra, chị Rhonda đang gợi ý: Ngay cả trong bóng tối; ngay cả khi nhắm mắt, mình vẫn có thể cảm nhận mấy mảnh gỗ bằng tay để tìm ra mũi tên lượn sóng.
Để chắc chắn hơn, Reynie hối hả kiểm tra tất cả các mảnh gỗ trong phòng và rõ ràng, dù các mũi tên kia cũng chẳng theo một kiểu cụ thể nào cả, thì các mũi tên lượn sóng đều chỉ Reynie đến cùng một ô cửa.
Hít một hơi thật dài, hồi hộp hi vọng, Reynie đánh liều đi qua cánh cửa được chỉ đó. Căn phòng tiếp theo cũng giống hệt hai căn phòng trước, nhưng lần này mũi tên lượn sóng chỉ sang ô cửa bên phải. Reynie lại làm theo.
Sau khi đã đi qua được chừng mười căn phòng với cách này, Reynie chẳng còn cảm nhận được mình đang ở chỗ nào của tòa nhà nữa. Có thể lắm chứ, có khi giờ cậu đang ở ngay căn phòng đầu tiên mà chẳng thể nhận ra. Hoặc cũng có thể giờ cậu đang ở khoảng giữa của cái mê cung này. Và, giữa những bức tường màu đen này, nếu chẳng may tất cả các bóng đèn đều tắt, thì cậu sẽ hoàn toàn chìm trong cái thứ bóng tối đặc quánh. Bỗng nhiên Reynie phân vân, liệu họ có tắt đèn đi, như là một phần của thử thách này không. Ý nghĩ đó làm dậy lên một cảm giác khó chịu ở dạ dày. Nhưng mà, ngay khi vừa bắt đầu thấy lo lắng, Reynie bước vào căn phòng tiếp theo và vấp ngay phải một chiếc cầu thang. Reo lên mừng chiến thắng, cậu chạy ngay lên cầu thang, và ở đầu cầu thang là chiếc chuông đồng Rhonda đã nhắc đến. Reynie rung chuông.
Có tiếng chân bước vội xuống cầu thang. Cánh cửa bỗng bật mở và cô Bút Chì bước vào, kiểm tra chiếc đồng hồ đang cầm trên tay rồi nói:
“Sáu phút mười bốn giây.”
“Đó có phải là một kết quả tốt không ạ?” Reynie hỏi.
Chẳng buồn trả lời, cô Bút Chì tiếp tục với nhiệm vụ của mình, “Giờ thì nhắm mắt lại, đứng im nhé.”
Có gì đó khiến Reynie thấy bồn chồn, lo lắng. Không tốt đến thế sao? Hay họ đang kiểm tra lòng can đảm của mình? Reynie làm theo, nhắm mắt lại, và cố gắng tự trấn an bản thân.
“Sao em có vẻ sợ sệt thế?” cô Bút Chì hỏi.
“Em không biết nữa. Em nghĩ, có thể, cô sắp tát em.”
“Đừng có ngớ ngẩn thế. Ngay cả khi em mở mắt cô cũng có thể tát em. Đơn giản là cô chuẩn bị bịt mắt em lại thôi.”
Xong xuôi, cô Bút Chì dẫn Reynie xuống cầu thang. Đặt tay lên vai cậu, cô đưa cậu xuyên qua mê cung, quay trở lại căn phòng đầu tiên, rồi tháo cái dải khăn mà trước đó ít phút cô đã buộc lên mắt Reynie. Sau khi khởi động lại chiếc đồng hồ, cô Bút Chì nói:
“Nào, bây giờ thì tìm và bấm chuông lại lần nữa nhé.”
Nhiệm vụ này quá dễ dàng. Reynie chạy một mạch qua các căn phòng, liếc nhìn mấy mảnh gỗ để biết phương hướng, và bấm chuông chỉ sau đó vài phút. Cô Bút Chì lên ngay sau cậu, liếc nhìn đồng hồ và nói: “Vừa tròn ba phút”. Rồi cô dẫn Reynie lên cầu thang, vào một phòng khách, bảo cậu ngồi đợi ở ghế.
“Nghĩa là em qua rồi phải không ạ?”
“Cô bảo em làm lại lần thứ hai để xem em có thực sự tìm ra bí mật của mê cung hay không. Cần chắc chắn rằng em không tìm thấy cái cầu thang do may mắn. Nếu em tìm được điểm mấu chốt của cái mê cung đó, thì lần thứ hai sẽ nhanh hơn rất nhiều. Và em đã làm được, do đó có vẻ như không phải do em may mắn. Có nghĩa là em qua. Do đó…” Chẳng kịp nói hết câu, cô Bút Chì đã lôi ra một chiếc bánh quy, bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến, cứ như là cô đã bị bỏ đói trong vài ngày rồi ấy nên chẳng thể đợi thêm giây phút nào nữa.
Reynie nghểnh cổ tò mò, “Nhưng sao phải bắt em làm lại trong khi cô có thể chỉ cần hỏi thôi là đủ rồi. Em có thể miêu tả lại điều bí mật đó, cô biết mà.”
“Em sẽ ngạc nhiên đấy khi biết rằng có rất ít bạn tìm ra bí mật đó,” cô Bút Chì trả lời Reynie khi đang đi ra cửa.
“Ý cô là cô nghi ngờ không biết có đúng là em làm được không?”
Cô Bút Chì nháy mắt, “Và giờ thì cả cô và em đều biết đó là sự thật, phải không nào?”
Rồi cô vội vàng rời khỏi căn phòng, để Reynie lại một mình. Dẫu sao thì cậu cũng quen với cái kiểu xuất hiện và biến mất bất thình lình này của cô ấy rồi. Dù thế, Reynie vẫn cảm nhận đôi chút lạ lẫm khi một mình ở trong một căn nhà hoàn toàn xa lạ. Cậu nhìn khắp lượt căn phòng. Trên các bức tường xung quanh, toàn những sách là sách. Có nhiều cuốn được viết bằng thứ ngôn ngữ mà Reynie chẳng thể nhận ra nó là tiếng gì. Ở một góc phòng có một chiếc đàn piano cũ, ở góc khác là một quả địa cầu màu xanh trông rất lạ. Reynie bước lại phía quả địa cầu. Nếu Sticky và Kate cũng mất chừng ấy thời gian để qua được mê cung, thì phải một lúc nữa Reynie mới có thêm bạn. Vì thế mà cần phải tự mình tìm ra trò tiêu khiển cho khoảng thời gian đó thôi.
Nhưng khi quả địa cầu còn chưa kịp quay hết một vòng – và Reynie chưa kịp định vị Bến cảng Thành phố Đá trên đó – thì đã có tiếng chuông kêu. Tiếng kêu to, liên tục, và chẳng có dấu hiệu nào là sẽ ngừng cả. Từ đó Reynie đoán chắc Kate đang ở đầu cầu thang.
Và quả đúng như thế, chỉ vài giây sau tiếng chuông ngừng lại và cô Bút Chì dẫn theo Kate đi vào phòng. Kate ngoác miệng cười, còn cô Bút Chì thì bóp bóp trán, có vẻ như tiếng chuông kêu liên tục làm cô thấy đau đầu.
“Bạn ấy không phải làm lại lần thứ hai sao?” Reynie ngạc nhiên.
“Chẳng ích gì,” cô Bút Chì trả lời, rồi lại một lần nữa, đi ra bỏ mặc lũ trẻ trong phòng.
“Ý cậu là gì, cái gì mà lần thứ hai ấy?” Kate hỏi.
“Tớ phải đi qua mấy căn phòng đó những hai lần để chứng minh đúng là tớ có tìm ra bí mật của mê cung đấy. Trong khi cậu thì qua rất nhanh, tớ đã nghĩ rất khó để có ai đó vượt qua nhanh như thế.”
“Sẽ chẳng khó, miễn là tớ có cái giỏ này ở bên cạnh,” Kate đồng tình.
Nghĩ đi nghĩ lại mãi không ra, Reynie quyết định hỏi thẳng Kate, “Được rồi. Nhưng cái giỏ giúp cậu đi qua cái mê cung đó thế nào?”
“À, dĩ nhiên là tớ đoán ngay đó là một mê cung, và tớ biết mình phải đến được phía bên kia của tòa nhà. Vì thế, tớ nhìn quanh để tìm một cái lỗ thông hơi… “
“Một lỗ thông hơi thật á?”
“Chắc chắn rồi. Và tớ tìm thấy một cái ở ngay dưới sàn của căn phòng đầu tiên. Tớ lôi con dao ra, gỡ tấm chắn, quỳ xuống và chui vào đường ống thông hơi. Cái ống đó vừa khít người tớ luôn nhé, nên tớ phải buộc cái giỏ vào bàn chân và kéo nó theo. Mấy cái đường ống cũ kỹ ấy chạy dọc ngang khắp tòa nhà, nhưng đường ống trung tâm sẽ gần như chạy theo một đường thẳng đến phía sau. Nên tớ, lúc đó tay cầm đèn pin, tay cầm con dao, bò theo cái ống đó đến tận đây, mở nắp đậy và nhảy xuống ngay đầu cầu thang đấy. Để chui ra được khỏi cái ống, tớ phải uốn cong cái nắp đậy. Chắc cô Áo Vàng sẽ phát điên lên vì điều đó mất.”
“Tớ cá là cô ấy sẽ bỏ qua thôi.”
“Cậu nghĩ thế thật đấy? Có vẻ là sẽ không đâu, vì chẳng dễ để sửa cái nắp đó. Này, quả địa cầu ấn tượng nhỉ.”
Rồi Kate và Reynie giết thì giờ bằng trò tìm các địa điểm trên quả địa cầu. Nhưng mãi đến khi cả hai đã bắt đầu thấy chán mà vẫn chưa thấy bóng dáng Sticky Washington đâu cả. Kate đi đến chỗ cây đàn piano, đưa đưa tay lên các phím đàn, nhưng chẳng có âm thanh nào phát ra. Reynie và Kate hợp sức nhấc nắp đàn lên. Bên trong, chẳng còn dây đàn nào cả, chỉ có những cuốn sách.
“Những người sống ở đây chắc phải đọc nhiều lắm đấy,” Kate phát biểu. “Dù sao thì tớ cũng biết mỗi cuốn Những đôi đũa thôi.”
Đã gần hai mươi phút trôi qua, Sticky vẫn chưa xuất hiện. Kate giờ đã chuyển sang trò sắp xếp lại mấy thứ đồ trong giỏ. Cô bạn đã định ra được một cách sắp xếp hoàn hảo cho cái giỏ của mình; đảm bảo những đồ đựng trong đó được an toàn và dễ lấy nhất, và Kate thì lại rất lưu tâm về vấn đề này. Reynie thấy Kate thuộc tuýp những người lúc nào cũng muốn mình bận rộn, nên chẳng mấy khi thấy Kate ngồi không. Nghĩ đến đây, Reynie chợt nhớ ra một điều cậu vẫn muốn hỏi cô bạn của mình. “Kate này, có một điều cứ khiến tớ băn khoăn mãi. Cậu bảo cậu mang theo tất cả những thứ này, vì cái nào cũng có ích cả, phải không?”
“Chính xác,” Kate trả lời.
“Vậy tại sao lại có cái kính vạn hoa này? Nhìn qua nó thì cũng thú vị đấy, nhưng nó giúp ích thế nào nhỉ?”
Kate dừng tay, nhìn Reynie vẻ dò xét. Sau cùng, cô bé gật đầu. “Thôi được. Cậu biết đấy, tớ nghĩ tớ có thể tin tưởng cậu. Và đây là điều bí mật.” Kate lôi ra chiếc kính vạn hoa, rồi tháo rời cái mắt kính sặc sỡ. Chỉ đến lúc này Reynie mới nhận ra cái mẩu kính nhiều màu kia thật ra để che cho một cái mắt kính khác ở bên dưới.
“Đây thật ra là một cái kính thiên văn cỡ nhỏ được ngụy trang dưới hình dáng của một cái kính vạn hoa đấy,” Kate giải thích. “Cái kính này rất tốt nên tớ chẳng muốn bị mất nó. Cái kính vạn hoa trông lại có vẻ tồi tàn, nên chẳng hấp dẫn được ai đâu.”
Cái ý tưởng ngụy trang kính thiên văn dưới vỏ bọc của một cái kính vạn hoa làm Reynie bật cười sảng khoái. “Ý tưởng vĩ đại đấy,” Reynie thốt lên.
Dù chẳng rõ lắm Reynie đang cười cái gì, nhưng cô bé chẳng cảm thấy khó chịu, thậm chí còn cười hùa theo. Để cho Reynie săm soi xong cái kính, Kate cất nó vào giỏ rồi gieo mình xuống ghế. “Cậu nghĩ Sticky có qua được không? Tớ đang có khoảng thời gian tuyệt vời, nhưng mà hình như sắp chết đói mất rồi.”
Dường như để đáp lại câu hỏi của Kate, tiếng chuông bất ngờ cất lên – một lần duy nhất và tiếng kêu khá nhỏ như là Sticky chỉ dùng móng tay để bấm chuông vậy. Qua cánh cửa vẫn đang đóng kín, Reynie và Kate nghe thấy tiếng cô Bút Chì với âm giọng cộc cằn vốn có, đáp lại là tiếng lí nhí đầy vẻ bối rối, ắt hẳn đây là câu trả lời của Sticky. Sau đó ít lâu, mọi thứ lại trở về trạng thái im ắng vốn có của nó. Còn Reynie và Kate lai tiếp tục đợi.
“Không lâu nữa đâu,” Reynie nói. “Lần thứ hai này sẽ nhanh hơn rất nhiều một khi cậu ấy đã phát hiện ra bí mật của mê cung. Lần thứ hai của tớ chỉ mất có ba phút thôi mà.”
Tuy nhiên, chẳng máy chốc đã hết ba phút. Rồi bốn phút, năm phút, phải mất gần mười lăm phút sau mới nghe thấy tiếng chuông kêu lần nữa, cũng nhỏ như lần trước vậy. Một giây sau cánh cửa bật mở, Sticky bước vào phòng, theo sau là cô Bút Chì. Thấy Reynie và Kate đang ở đó, Sticky cười rạng rỡ. Không hẳn vì cậu đã vượt qua thử thách, mà phần lớn là vì giờ đây cậu gặp lại những người bạn của mình.
“Chúc mừng,” cô Bút Chì nói. “Cả ba em đều qua.”
Lũ trẻ hò reo chúc mừng lẫn nhau, vỗ vỗ vào lưng nhau. Khi màn ăn mừng vừa kết thúc, cả ba mới nhận ra cô Bút Chì đã lại bỏ rơi chúng rồi.
“Cô ấy có vẻ thích kiểu bỏ đi như thế nhỉ,” Kate nhận xét. “Tớ chưa từng gặp ai có cái kiểu biến đi như thế cả. Có phải cô ấy lại muốn chúng ta đợi thêm nữa không nhỉ?”
“Có thể là Rhonda đang đi tới đây đấy”, Reynie nói.
“Hy vọng thế, nếu không chắc tớ phải ăn vài cuốn sách ở đây mất. Sticky, sao cậu lâu thế hả? Cậu có biết tớ là đang rất đói không hả?”
Sticky như sắp khóc, lại đang định với tay tháo cặp kính mình đang đeo, cậu ấy mới nhận ra Kate chỉ đang trêu cậu. Sticky mỉm cười, “Tớ phải đi đi lại lại tận hai lần kia đấy.”
“Reynie cũng thế. Nhưng cậu ấy bảo có một bí mật nào đấy để vượt qua mê cung rất nhanh chóng. Tại sao đến lần thứ hai cậu vẫn mất nhiều thời gian vậy?”
“Có nhanh hơn một chút đấy chứ,” Sticky chống chế. “Cái bí mật cậu vừa nhắc đến là gì thế?”
“Bí mật của mê cung ấy”, Reynie trả lời. “Những mũi tên ấy”.
“Mũi tên? Ý cậu là mấy cái khắc trên các mảnh gỗ trang trí đấy á?”
Reynie sửng sốt nhìn Kate, nhưng Kate trả lời, “Đừng có nhìn tớ. Tớ chẳng biết gì về mấy cái mũi tên mà cậu bảo, nhớ chứ? Tớ đi đường tắt mà.”
“À đúng rồi nhỉ,” Reynie nói. “Sticky này, nếu cậu không dựa vào những mũi tên, thì sao cậu vượt qua được mê cung?”
Sticky di di ngón chân xuống sàn và nói, “Tớ cứ thử từng cửa một thôi, cho đến khi tớ tìm thấy cái cầu thang. Đơn giản chỉ là may mắn thôi.”
“Và cậu lại tìm được cái cầu thang nhanh hơn ở lần thứ hai? Tớ đoán cái này mới thực sự là may mắn ấy.”
“Ồ, không phải, lần thứ hai dễ dàng hơn chứ,” Sticky nói. “Tớ nhớ và làm theo đúng như lần đầu tiên thôi: Đầu tiên là đi qua ô cửa bên phải, rồi ô cửa bên trái, rồi đi thẳng, trước khi rẽ phải; rồi rẽ phải tiếp, tiếp tục rẽ trái, lại trái tiếp, rồi rẽ phải, đi thẳng, và cứ như thế, cho đến khi tớ đi đến chân cầu thang. Tớ chẳng mất công vò đầu bứt tai với mấy cái mảnh gỗ trang trí hay lo lắng liệu họ có tắt tất cả các bóng đèn đi, hay đại loại thế. Tớ cứ di chuyển theo đúng như trước đó tớ đã đi thôi.”
“Cậu đúng là…” Kate choáng váng, lúc lắc cái đầu. “Thật không thể tin được.”
Reynie cười lớn. “Cậu chọn cách khó khăn đấy, Sticky ạ.”
“Thế cách dễ là cách nào?”
“Cứ đi theo mấy cái mũi tên lượn sóng thôi.”
“Ơ,” Sticky trầm ngâm. “Giá mà biết trước được điều đó thì tốt quá nhỉ.”