Trước bữa tối của ngày hôm sau, Hội Benedict Thần Bí, với hy vọng tìm được chút manh mối nào đó, đã leo lên ngọn đồi phía sau khu nhà tập để có thể quan sát xung quanh. Ngọn đồi khá cao, nhưng nếu di chuyển với một vận tốc đủ nhanh – mà Kate thì luôn luôn đi nhanh kể cả khi đang cõng Constance trên lưng – bạn chỉ mất vài phút men theo con đường ngoằn ngoèo để lên đến tận đỉnh đồi. Quả thực là Kate đã làm thế, bỏ mặc hai cậu bạn đang hổn hển cố sức để không bị bỏ lại quá xa. Khi Reynie và Sticky lên được đến đỉnh đồi thì Kate đã đang quan sát xung quanh với cái ống nhòm của mình rồi.
Reynie đưa tay quệt mồ hôi trên trán. “Thấy gì không?”
Kate nhún vai. “Những bãi cỏ, và đá, những bụi cây và đá, cây dây leo, và đá, cát, và đá. Rất nhiều đá,” cô bé nói, và hướng ống nhòm xuống thấp hơn một chút. Rồi như chưa bao giờ thản nhiên đến thế, cô bé thêm, “tớ cũng tìm thấy thêm một cái bẫy nữa.”
“Một cái bẫy?” Sticky nói, nhìn khắp xung quanh, cứ như là cái bẫy tự nó đang tiến lại gần và sắp túm lấy cậu bé vậy.
“Đừng lo lắng, nó ở tận dưới kia kia mà, trong một bãi cỏ nhỏ phía sau Nhà Điều hành. Cậu không thể nhìn thấy nó từ bất kỳ nơi nào khác đâu, trừ khi hướng cái ống nhòm qua phía trên mái nhà khu lớp học.” Kate đưa cái ống nhòm cho Sticky, nhưng cậu bé từ chối. Sticky chẳng dám nhìn thêm bất kỳ một cái bẫy nào nữa. Reynie làm theo, và từ vị trí này cậu bé chỉ nhìn thấy bóng dáng của thảm hoa kép và những khối đá cuội kết ở phía sau tòa nhà.
Reynie trả lại chiếc ống nhòm cho Kate. “Tớ đang phân vân, tại sao cả hai cái bẫy đều ở ngay cạnh những khối đá nhỉ.”
“Có phải là cậu đang nghĩ những tảng đá sẽ giúp những cái bẫy khó bị phát hiện hơn không?” Kate nói. “Dù là ban ngày hay ban đêm, những cây hoa kép kia cũng sẽ luôn luôn nằm trong bóng tối.”
“Láu cá thật,” Constance nói.
“Nếu thế thì những cây hoa kép có vẻ là lựa chọn lý tưởng đấy,” Sticky nói. “Đó là một loài cây ưa bóng râm.”
“Giấu cái ống nhòm đi,” Reynie thì thầm. “Chúng ta có bạn đấy.”
Hai Người giúp việc vừa xuất hiện ở con đường bên dưới, mỗi người vác theo hai cái xô đựng đầy những dụng cụ làm vườn. Họ đang từ từ tiến lên đỉnh đồi, vừa đi vừa dọn sạch cỏ dại và các mảnh vụn. Khi bọn trẻ đi đến gần, cả hai im lặng bước vội ra lề đường để không làm phiền đến chúng.
“Xin chào,” Reynie nói. Cậu quên mất rằng mình vẫn thường tránh chào hỏi những Người giúp việc. Reynie đã quá căng thẳng về chiếc ống nhòm và muốn tỏ ra càng tự nhiên càng tốt.
Hai Người giúp việc, một người đàn ông và một người đàn bà, nhìn Reynie với ánh mắt sợ sệt. Để giảm bớt sự lo lắng ở họ, Reynie mỉm cười thân thiện và đưa tay lên vẫy – rồi ngay lập tức cảm thấy hối hận vì hành động của mình. Những Người giúp việc cảm thấy bắt buộc phải đáp lại, nên dừng chân, bỏ hai cái thùng xuống để có thể rảnh rang vẫy tay đáp lại Reynie.
“Mấy cái thùng đẹp đấy ạ,” Kate nói.
“Cảm ơn cô. Chúng khá có ích,” người đàn ông béo phục phịch trông rất giống một chú ễnh ương, và giọng ông ta đáp lại thì càng giống tiếng kêu của một chú ễnh ương hơn.
Vừa nghe thấy giọng nói đó, Reynie giật nảy mình. Người đàn ông này, cậu biết! Cậu tiến lại gần hơn một chút để nhìn được rõ hơn gương mặt ông ta. Nhưng người đàn ông vội lùi lại, ngoảnh mặt đi.
“Chú Bloomburg?” Reynie nói. “Cháu suýt chút nữa đã không nhận ra chú.”
Có vẻ khá lúng túng, người đàn ông quay lại nói với cộng sự của mình, một người phụ nữ nhỏ thó và lúc nào cũng như muốn giấu mình sau mái tóc dài lòa xòa. “Nó đang nói với cô đấy à?”
“Anh điên à?” người phụ nữ rít lên, hết nhìn chằm chằm người đồng nghiệp của mình, lại quay sang toe toét với bọn trẻ, một nụ cười méo mó. Cô ta phải rất cố gắng mới giữ được bình tĩnh: “Nó nói là Chú kia mà. Đúng không, chàng trai trẻ? Thêm nữa là tên tôi cũng chẳng phải là Bloomburg.”
“Đó cũng đâu phải tên tôi,” người đàn ông trả lời, rồi, nhìn xuống khu đất quanh chân Reynie và nói, “Đừng có phật lòng đấy, nhưng tên chú là Harry Harrison.”
“Chú không phải là Bloomburg sao ạ?”
“Chú không muốn làm cháu thấy khó chịu,” Harry Harrison nói (trong khi Người giúp việc còn lại có vẻ như đang rất hăng máu muốn được phát biểu ý kiến), “nhưng không phải.”
Những đứa trẻ còn lại không thể rời mắt khỏi Reynie, còn cậu thì đang cực kỳ bối rối. “Nhưng… nhưng… chú làm việc ở đây bao lâu rồi ạ?”
Người đàn ông liếc sang người đồng nghiệp của mình. “Cũng khá lâu rồi, cô sẽ không nói gì chứ, Mary?”
“Tôi biết là tôi đã ở đây được một thời gian dài rồi,” người phụ nữ nói, cúi gằm mặt xuống đất, “và anh cũng đã ở đây được khoảng chừng ấy thời gian.”
“Được rồi chứ,” Harry nói.
“Nhưng chính xác là bao lâu?” Reynie nhấn mạnh.
“Chú rất tiếc,” Harry nói, có vẻ như anh ta đang thực tâm cảm thấy có lỗi. “Nhưng chú không nghĩ là chú có thể nhớ được chính xác ngày hôm đó. Cô có nhớ không, Mary?”
“Ngày tháng chính thức, tôi cũng không nhớ. Nhưng chắc chắn là cũng lâu rồi.”
Reynie gõ tay lên trán. “Chú chưa bao giờ đến Nhà tế bần Thành phố Đá?”
“Cháu đang hơi lo lắng thái quá rồi đấy,” Mary tỏ vẻ lo lắng. “Cô xin lỗi nếu đã làm cháu buồn. Cả anh cũng thế, phải không Harry?”
“Thực sự là rất thấy có lỗi” Harry khổ sở. “Cô chú không định làm cháu thấy phiền lòng như thế.”
“Không đâu ạ,” Reynie trả lời, nhưng giọng nói thì thực sự buồn bã. “Nhưng cô chú không thấy băn khoăn là tại sao mình lại chẳng thể nhớ được chính xác mình đã đến đây vào thời gian nào hay sao ạ?”
Cả hai Người giúp việc đều lắc đầu và nói, “Chỉ là mọi việc vẫn đang diễn ra đúng như chúng nên thế.”
Bọn trẻ tròn mắt ngạc nhiên, nhưng hai Người giúp việc thì dường như chẳng hề nhận ra sự kỳ cục trong câu nói vừa rồi của mình. Họ chỉ đang chờ để được đi khỏi đây thôi, và hi vọng những đứa trẻ này sẽ không lợi dụng hay gây phiền hà cho mình.
Cuối cùng, Reynie đành nói, “Cháu rất vui khi được biết điều đó ạ.” Cậu dường như đã trấn tĩnh trở lại. Thậm chí còn có thể gắng gượng để nở một nụ cười và nói, “Cháu xin lỗi, cháu ngốc quá. Chú chỉ rất giống chú ấy… người cháu đã từng quen thôi ạ. Chắc là có nhầm lẫn rồi. Rất vui được nói chuyện với cô chú ạ.”
Những Người giúp việc cuối cùng cũng thoát. “À, ừ, thật ra thì … rất vui,” cả hai nói và đeo những chiếc thùng lên vai rồi vội vã đi xuống phía nửa kia của ngọn đồi.
“Được rồi, tóm lại thì chuyện này là thế nào?” Kate hỏi khi chắc chắn rằng những Người giúp việc đã đi đủ xa để không nghe được chúng nói gì.
Reynie nhíu mày tập trung suy nghĩ. “Đó chính xác là chú Bloomburg, không nghi ngờ gì cả. Khuôn mặt đó, dáng người đó, và cả cái giọng nói như tiếng kêu của ễnh ương đó nữa. Nhưng chú ấy giả vờ như không biết tớ – và giả vờ không phải là mình nữa. Sao chú ấy làm thế?”
“Có thể chú ấy là một đặc vụ bí mật,” Constance nói. “Cậu biết đấy, cũng giống như Milligan vậy. Và cậu thì lại cứ cố để bóc mẽ chú ấy.”
“Chú Bloomburg á?” Reynie nói. “Tớ không tin lắm.’
“Dù thế, đúng là chú ấy có làm tớ nghĩ đến chú Milligan,” Sticky nói. “Các cậu có ai nhìn thấy chú ấy buồn thế nào không? Có nhận ra là cả hai đều buồn thế nào không? Ý tớ là từ ánh mắt của các chú ấy. Trước đó tớ chưa từng có cơ hội được nhìn kỹ mắt của những Người giúp việc, vì họ lúc nào cũng tránh ánh mắt của bọn mình. Nhưng với cô chú vừa nãy thì tớ có thể thấy rõ được nỗi buồn trong mắt họ.”
“Đúng đấy,” Kate đồng tình. “Tớ không nghĩ là mình đã từng gặp một người nào đó buồn như chú Milligan đâu, trừ hai Người giúp việc khi nãy. Reynie, cậu có nghĩ là… Reynie, có chuyện gì thế?”
Khuôn mặt Reynie trắng bệch. Cậu bé cứ đứng lặng im nhìn vô định về phía xa.
“Cậu không sao đấy chứ?” Sticky nói.
Reynie không trả lời. Nhưng cuối cùng, cậu cũng đã hiểu được một việc mà đáng lẽ đã phải quá rõ ràng ngay từ đầu nếu không có cái vẻ ngoài bất khả thi như thế: Milligan, những chuyên viên bị mất tích, chú Bloomburg – tất cả đều đã bị ăn cắp ký ức.
Đến đây, những mảnh ghép rời rạc như đã tìm về được vị trí của chúng. Lúc bị bắt, Milligan đã nhầm tưởng ngài Curtain đã phát hiện ra chứng hay quên của chú ấy, trong khi thực ra chính ông ta lại là nguyên nhân của nó. Vì thế, ngài Curtain đã tức giận biết mấy khi Milligan nói trí nhớ của chú ấy khá ổn. Ngài Curtain muốn ăn trộm hết những ký ức của chú ấy, hoặc là xóa chúng đi – hoặc là làm bất cứ việc gì tương tự với chúng – để sau đó có thể đào tạo Milligan trở thành một Người giúp việc. Giống như ông ta đã làm với các chuyên viên khác. Ngài Curtain đã biến tất cả những người này thành nhân công của riêng ông ta, và họ chẳng hề nhận thức được điều đó.
Những Người giúp việc như được lập trình để tin rằng “mọi việc vẫn đang diễn ra đúng như chúng nên thế.” Nhưng, từ những đôi mắt ấy, bạn vẫn có thể nhìn thấy được cuộc sống đã mất của họ, gia đình của họ – có gì đó bên trong những con người ấy đang cồn cào nhớ về những thứ đã bị đánh mất đó.
“Reynie, cậu đang làm bọn tớ thấy lo lắng đấy,” Kate nói. “Có vấn đề gì thế? Reynie!”
Cuối cùng ánh mắt Reynie cũng hoàn hồn trở lại. Cậu trở về với những người bạn của mình, kể cho chúng nghe những điều cậu vừa mới hiểu ra.
Kate, Sticky, Constance chết lặng không nói nên lời – cố gắng đấu tranh, cũng giống như trước dó Reynie đã làm, để có thể chấp nhận rằng những việc như thế có thể xảy ra. Và một khi bạn đã tin được điều đó, sẽ có rất nhiều điều được làm sáng tỏ. Cuối cùng thì bọn trẻ cũng giải thích được thái độ bình thản của những Thành viên mới, đặc biệt ngay cả khi vì bị bắt cóc nên chúng mới tới đây: Các bạn ấy đã bị bắt cóc, điều này chính xác, nhưng lại không hề nhớ gì về việc đó cả. Và Charlie Peters! Anh ấy trông u u mê mê – rất giống với biểu hiện của những thành viên mới đặc biệt trong ngày đầu tiên họ đến đây – và anh ấy đã thấy phiền toái đến thế nào lúc mấy cậu bé hỏi về những đặc quyền bí mật. “Anh không thể nói được.” Thật ra, anh ấy thấy phiền toái là bởi vì thực sự anh ấy không thể nói – hay đúng ra là không thể nhớ.
“Việc này nghe có vẻ điên rồ, nhưng tất cả lại khớp với nhau,” Kate nói, đi dần về phía con đường mòn. “Ngoại trừ việc không hiểu sao những trường hợp tuyển dụng đặc biệt lại không sầu não như những Người giúp việc. Ngược lại, các bạn ấy thậm chí còn có vẻ hạnh phúc được đến đây nữa.”
“Và Charlie nữa, anh ấy cũng không có cái vẻ buồn khổ đó,” Sticky thêm vào. “Anh ấy buồn, nhưng không đến mức cực đoan. Có khi lại có một cách giải thích khác ngoài cái chứng quên cục bộ đó ấy. Có lẽ là…”
“Đợi một phút,” Constance cắt ngang. “Nói lại bằng tiếng người đi xem nào.”
“Chứng quên cục bộ á? Có nghĩa là bạn không thể nhớ được một sự kiện cụ thể nào đó.”
“Đây, đây chính là cách lý giải,” Reynie nói. “Bạn sẽ chỉ đau khổ khi không thể nhớ được bất cứ điều gì thân thuộc. Nếu chỉ bị mất một chút ký ức thôi, cảm giác của bạn chỉ là sự bối rối thoáng qua thôi – bối rối chứ không phải là buồn nhé.”
“Tớ cũng đang nghĩ chính xác như thế đấy,” Kate nói. “Chú Bloomburg là ai thế Reynie? Sao chú ấy lại ở đây?”
“Đó là một chuyên viên kiểm tra các giáo cụ trong trường học. Cứ khoảng sáu tháng chú ấy lại đến nhà tế bần của bọn tớ. Thầy Rutger sợ chú Bloomburg lắm – sợ chú ấy tìm ra cái gì đó bị hỏng hóc và rồi nhà tế bần sẽ phải bỏ tiền ra để sửa chữa – nhưng chú Bloomburg lại rất tốt bụng. Cười nói suốt ấy. Chỉ cần có người chịu lắng nghe là chú ấy sẽ hào hứng trò chuyện ngay. Rồi còn cho lũ trẻ bọn tớ bánh gừng nữa. Tóm lại là một người thân thiện, tốt bụng…”
Giọng Reynie nhỏ dần. Cậu đứng lặng nhìn về phía bên kia eo biển, về đất liền. Chẳng biết nhìn như thế có đưa cậu trở về được vùng đất đó, và trở về với quãng thời gian trước đây, khi Reynie chẳng hề có chút ý niệm nào về những thứ đang ở trong đầu cậu bây giờ.
“Chú ấy kể gì?” Kate hỏi.
“Về những đứa con,” Reynie nói.
“Ồ,” giọng Kate chùng xuống.
“Chú ấy yêu con mình lắm,” Reynie nói. “Bây giờ thì nhìn chú ấy đi, sợ tất cả những đứa trẻ mình gặp. Chỉ mới chưa đầy một năm thôi, kể từ lần gần đây nhất tớ gặp chú ấy.”
Kate chắp nối lại các thông tin. “Như vậy là chú Bloomburg đến Học viện để tiến hành một cuộc kiểm tra, và không vui với những gì mình thấy…”
“Và ngài Curtain muốn đảm bảo rằng chú ấy sẽ không bao giờ quay trở về được nữa,” Reynie hoàn thành ý của Kate.
“Nhưng làm cách nào chú Bloomburg có thể quên đi các con của mình?” Sticky vẫn chưa chịu tin. “Điều đó thực sự có thể sao? Liệu có cái nào trong tất cả những chuyện này là có thể không?”
Reynie không đáp lại.
“Tớ không thể tin được điều đó,” Sticky nói, và cầu mong rằng mình thực sự có thể không tin.