08.
Thị phạm.
“Cậu lấy kịch bản cho tôi xem.” Trần Đại Xuyên nghĩ, chỉ nhanh rồi đi thôi.
Lý Tùng Nhất thấy Trần Đại Xuyên không tỏ ý muốn nói chuyện bèn chẳng ép buộc nữa, lấy kịch bản trên bàn đưa cho anh.
Có thể thấy kịch bản đã được lật đi lật lại nhiều lần.
Tuy Lý Tùng Nhất đã xem lời thoại trong đó, song dù nhớ hay không thì chẳng có gì khác biệt.
Dầu gì cũng không để ý tới logic, thà để cậu phát huy tự do còn hơn.
Nhưng Lý Tùng Nhất thấy mình vẫn còn kính nghiệp chán, cậu đã thuộc nằm lòng lời thoại từ đời nảo đời nao.
Trần Đại Xuyên không ngồi mà đứng trong phòng lật vài trang kịch bản.
Anh xem nhanh lắm, xấp kịch bản vài trăm trang chẳng mấy chốc đã lật đến cuối.
Lý Tùng Nhất nghiêng người: “Anh có định rút lại mấy câu mình nói không?”
Trần Đại Xuyên không hiểu ý cậu: “Câu nào?”
“Cái câu “còn có thể làm tốt hơn nữa”.
Anh nhìn kịch bản này mà chả có tí tuyệt vọng nào hả?” Lý Tùng Nhất nói, giọng điệu phẫn uất.
Trần Đại Xuyên cười: “Thực ra tôi cũng quen vài người hay đóng phim thần tượng.
Kiếm tiền thì nhanh nhưng diễn xuất bị đình trệ, thậm chí còn tụt dốc.
Khi tôi hỏi, họ nói rằng kịch bản sơ sài; đội ngũ thiếu quan tâm; các diễn viên khác trong đoàn như đứng ngoài cuộc.
Họ nói ở trong môi trường như thế không cách nào trau dồi kỹ năng diễn xuất, không thể trách họ được.”
Lý Tùng Nhất chớp mắt: “Tôi thấy cách nói này hợp lý đó.
Trau dồi thì cần người khác phối hợp và rèn luyện, đúng không?”
“Hợp lý hay không là do con người quy định.” Trần Đại Xuyên nghiêm túc hẳn, như thể không hài lòng với lời nói của Lý Tùng Nhất.
“Nếu người ta không muốn tiến bộ, thì luôn có thể tìm ra lý do.”
Lý Tùng Nhất im lặng.
Trần Đại Xuyên nhìn Lý Tùng Nhất: “Nhiều người thích so sánh mình với khối ngọc thô.
Không có năng lực thì nói chưa qua đào tạo, chờ hoài không thấy thợ điêu khắc tới.
Nhưng con người là con người, không phải cục đá hay khối ngọc.
Chúng ta chỉ có thể là thợ điêu khắc.”
Lý Tùng Nhất nghiêng đầu: “Hả?”
Trần Đại Xuyên giải thích: “Một thợ điêu khắc giỏi sẽ chạm khắc theo kết cấu và độ mịn của ngọc.
Rất ít viên ngọc nào thuần một màu sắc, hầu hết chúng đều có khuyết điểm.
Thợ điêu khắc sẽ biến mục nát thành tinh hoa, và biến khuyết điểm thành một phần của bức tượng.
Vết nứt thành nếp gấp của váy xòe, vết màu loang lổ thành trâm cài tóc, tạp chất hóa thành đôi mắt —— Đó cũng là lúc, một tác phẩm chạm khắc bằng ngọc trông như thật ra đời.”
“Hay.” Lý Tùng Nhất nói một cách chân thành, đoạn hỏi.
“Nhưng cái này có liên quan gì đến diễn xuất?”
“Diễn xuất là một quá trình chạm khắc.
Diễn viên là một nhà điêu khắc.
Còn nhân vật là một khối ngọc.” Trần Đại Xuyên nói.
“Dù diễn viên phải đối mặt với bất kỳ nhân vật nào chăng nữa, họ vẫn cần phải toàn tâm toàn ý nghiền ngẫm, nghiên cứu và bù đắp cho khuyết điểm; đưa chúng trở thành một thành phẩm có giá trị.
Đây mới gọi là tôi luyện, chứ không phải đợi đạo diễn hay người khác chỉ dẫn.
Tất nhiên điều đó vẫn hữu ích, nhưng nó không đủ trở thành lý do cho kỹ năng diễn xuất bị đình trệ hay thụt lùi.”
“Kịch bản này…!Mặc dù có nhiều sai sót và nhân vật của cậu không thể tỏa sáng, nhưng miễn cưỡng chấp nhận vẫn có thể coi như là một tác phẩm điêu khắc trên đá.” Trần Đại Xuyên búng tay vào kịch bản, anh vẫn không dám nói rằng nó là một viên ngọc có tì vết.
Lý Tùng Nhất gật đầu đồng ý.
Đoạn cậu nói: “Tôi nghĩ, tôi đã tạc nó thành bức tượng có giá trị.”
Trần Đại Xuyên bật cười: “Ừ.
Cậu diễn tốt thật, đó là lý do vì sao hôm nay tôi có mặt ở đây.
Có lẽ yêu cầu của khán giả đối với phim thần tượng là muốn cậu khắc một đóa hoa.
Còn chính xác về loài hoa, cánh hoa, nhị hoa hay cành lá thì không có yêu cầu nào cả.
Vậy, cậu cần thêm những yêu cầu này cho mình.”
Trần Đại Xuyên tìm thấy một hộp bút chì màu trên bàn, đoạn lấy ra những cây màu đỏ và các màu sắc tương tự khác.
Anh vẽ vài đường kẻ ngang ở mặt sau kịch bản, rồi vẫy tay với Lý Tùng Nhất.
Cậu vội ghé đầu sát vào, xem anh đang làm gì.
Trần Đại Xuyên chỉ vào những hàng ngang này: “Trong kịch bản có một cảnh yêu cầu nam chính phải nổi giận.
Ở đây, tôi so sánh sự tức giận với màu đỏ.
Màu đỏ bao gồm đỏ đậm, đỏ đào, đỏ hồng, đỏ tươi…!Cậu chỉ cần đạt tới một trong số các màu đỏ này đã tính là hoàn thành yêu cầu kịch bản.”
Lý Tùng Nhất nói: “Giống như son môi của con gái, màu 99 và màu 98 rõ là y chang nhau.
Mỗi lần nghe mấy cô nói về chủ đề này, tôi luôn thấy họ có khả năng kéo dài sắc đỏ lên hàng trăm hàng nghìn, thậm chí là vô tận.”
“Ừm, chính nó.” Trần Đại Xuyên phì cười trước phép ví von của Lý Tùng Nhất.
“Phạm vi của màu đỏ rất lớn, còn cậu thì dễ dàng đạt tới phạm vi đó.
Thế nên cậu thấy diễn xuất dần trở nên nhàm chán.
Bây giờ nếu tôi gắn tức giận và những điều kiện khác vào màu hồng, có phải nó đã khó hơn và thú vị hơn rồi, đúng không?”
“Đúng, thú vị thật.” Lý Tùng Nhất gật đầu, tỏ vẻ thích thú với lý thuyết màu sắc này.
“Nhưng, tôi gắn vào bằng cách nào?”
Trần Đại Xuyên lật kịch bản ngay màn đầu tiên —— Nữ chính đánh rơi khay thức ăn và làm bẩn quần áo của nam chính.
Sau đó, nam chính nổi giận.
“Ở cảnh này, cậu nghĩ trọng tâm của sự tức giận nằm ở đâu? Nam chính nổi giận vì quần áo bẩn, vì thức ăn mình ghét, hay chỉ đơn thuần là nổi giận vì bị người khác chạm vào? Hay cả ba đều có?” Trần Đại Xuyên hỏi.
Lý Tùng Nhất thử mường tượng: “Chắc cả ba.”
“Vậy cái nào làm nam chính giận nhất?”
Lý Tùng Nhất rối lên: “Quan trọng lắm hả?”
“Ừ, quan trọng.” Trần Đại Xuyên gật đầu.
“Điều kiện cậu gắn vào cơn giận là phải thể hiện được trọng tâm của nó, cho dù kịch bản không yêu cầu.”
Nói đoạn, Trần Đại Xuyên lùi lại vài bước.
Anh đi về phía trước, đột nhiên thân thể khẽ lắc lư.
Anh hỏi: “Chuyện gì vậy?”
Đây là anh đang thực hiện cảnh đầu tiên của kịch bản, và lặp lại nó ba lần liên tiếp.
Lý Tùng Nhất thoạt trông có vẻ mù mờ, nhưng sau ba lần diễn thị phạm thì chợt nghiệm ra.
Lần thứ nhất, phản ứng đầu tiên của Trần Đại Xuyên sau khi bị đụng vào là nhìn bộ quần áo.
Khuôn mặt anh thoáng qua nét đau lòng, tiếp đến là nổi giận.
Nó khiến Lý Tùng Nhất cảm thấy bộ quần áo này dường như rất quan trọng đối với anh.
Lần thứ hai, ánh mắt của Trần Đại Xuyên rơi vào không trung.
Nếu nữ chính có ở đây, Trần Đại Xuyên hẳn là đang nhìn đĩa ăn trên tay cô.
Khi anh trông thấy đó là món mình ghét nhất thì lật đật cúi nhìn quần áo, tiếp theo là nổi giận.
Lần cuối cùng, Trần Đại Xuyên không nhìn quần áo hay thức ăn mà là hất cằm nhìn nữ chính.
Nhưng dáng vẻ cao ngạo ấy khiến người ta thắc mắc chẳng biết anh có nhìn rõ bộ dạng của nữ chính không.
Anh tức giận, chỉ vì bị người khác đụng vào.
Không quan trọng đụng phải ai hay đụng trúng thứ gì, cũng chẳng quan trọng có gì hỏng hóc, trọng điểm ở đây là anh không vui.
Hàng mày cau chặt của Trần Đại Xuyên đã nói lên điều đó.
Kết thúc ba lần diễn thị phạm, Trần Đại Xuyên hỏi Lý Tùng Nhất: “Cậu còn nhớ cảm giác của mình khi diễn cảnh này không?”
Lý Tùng Nhất cẩn thận nghĩ lại, đoạn lắc đầu.
Hình như lúc đó cậu chỉ nổi giận, không hề phân tích kỹ càng rốt cuộc tức giận vì điều gì.
Trần Đại Xuyên nói: “Nếu thêm điều kiện tiên quyết cho mỗi biểu cảm, cậu còn thấy chán nữa không? Đạo diễn chỉ cần sự tức giận của cậu, ông ấy không quan tâm tại sao cậu tức giận.
Vậy cậu cứ thử xem.
Đội ngũ hời hợt, nhưng cậu có quyền nghiêm khắc với bản thân.
Và bởi đạo diễn yêu cầu thấp nên cậu càng có nhiều không gian thử nghiệm.
Cậu hãy “chơi” nó như chơi game vượt ải.”
Lý Tùng Nhất trầm ngâm gật đầu, Trần Đại Xuyên trở thành ảnh đế âu cũng có lý do của nó.
Trần Đại Xuyên nói thêm: “Kịch bản có kẽ hở logic cũng là một vấn đề lớn.
Nếu cậu không tài nào tưởng tượng ra hoặc không thể lý giải hành vi của nam chính, vậy càng diễn càng có khoảng cách.
Vì thế, cậu cần lắp đầy lỗ hổng và hoàn thiện câu chuyện của nam chính ở phía sau kịch bản.
Vẫn lấy cảnh đầu tiên làm ví dụ, cuối cùng nam chính đồng ý yêu cầu đền tiền của nữ chính.
Nhưng đáng lẽ với gia cảnh của anh ta thì đâu cần để bụng chút ít tiền này.
Huống chi bây giờ nữ chính không có tiền, còn năn nỉ anh ta cho mình thời gian.
Với tính cách kiêu ngạo của nam chính, e rằng chẳng muốn dây dưa dài dòng.
Còn cậu thì cho rằng, nhà biên kịch ép phát triển cốt truyện nên tạo cơ hội cho nam nữ chính tiếp xúc.
Ban nãy chúng ta vừa thảo luận ba nguyên nhân dẫn đến sự tức giận, vậy tạm thời lấy lý do thứ ba đi.
Nam chính không vui vì bị va chạm, nên hành động năn nỉ kéo dài thời gian và nỗ lực sửa sai của nữ chính đã làm thỏa mãn anh ta.
Nam chính vui vẻ trở lại, thành thử chấp nhận điều kiện này.”
“Diễn giải như thế lại dễ tiếp thu hơn nhiều.” Lý Tùng Nhất nói, đoạn lật kịch bản sang cảnh chuẩn bị quay.
“Nhưng tôi làm cách nào bù đắp cho mấy cái lỗ này chứ?”
Đây là khi nam chính đã có tình cảm nhất định với nữ chính và chuẩn bị tiến tới kết thúc viên mãn, thì nam số ba với sự nghiệp thành công đang theo đuổi nữ chính đột ngột tuyên chiến —— Đấu rượu.
Mà nam chính, người thừa kế của một tập đoàn đã trưởng thành và có trách nhiệm sau cái chết của cha mình lại đồng ý một thử thách ấu trĩ như thế.
Kết quả không ngờ tới là nữ phụ bỏ thuốc vào rượu của nam chính.
Anh ta xây xẩm mặt mày, nữ phụ nhân cơ hội đó bèn chụp ảnh giường chiếu rồi gửi cho nữ chính.
Cô ta hiểu lầm nam chính và thù hằn nữ phụ; nam chính cho rằng nam số ba cố ý giở thủ đoạn và thù hằn nữ phụ; nam số ba muốn chứng minh bản thân vô tội và thù hằn nữ phụ.
Cứ thế ba bên tranh cãi quyết liệt thêm mười tập, tổng số tập thành công đột phá con số bảy mươi bảy…
Lý Tùng Nhất nói: “Nếu cốt truyện này xảy ra ngay từ đầu, tôi còn có thể hiểu được hành vi của nam chính.
Dầu gì ở giai đoạn trước, nam chính cũng là người thiếu não.
Nhưng ở giai đoạn sau, kịch bản nói rõ anh ta đã trưởng thành và có trách nhiệm.
Ít nhất anh ta cũng phải biểu hiện chút dấu hiệu có não chứ? Mắc mớ gì đi đồng ý một thử thách được đưa ra bởi một thằng chẳng hề care nữ chính? Còn nam số ba kia nữa, thiết lập người đàn ông chín chắn có sự nghiệp thành công đâu mất rồi? Trò chơi ấu trĩ như đấu rượu mà vẫn nghĩ ra, bộ ổng buôn rượu hay gì? Còn bà nữ phụ, ảnh giường chiếu cũng chụp sao không gạo nấu thành cơm luôn đi?”
Trần Đại Xuyên cảm thấy buồn cười khi nghe hàng loạt câu hỏi dồn dập của Lý Tùng Nhất.
Anh bèn lấp đầy từng cái lỗ hổng cho cậu: “Nam chính đang yêu, đây là lần đầu tiên anh ta biết yêu là gì.
Anh ta luôn muốn thể hiện sự hoàn hảo của mình trước mặt nữ chính.
Dù là năng lực kiếm tiền hay trình độ bia rượu thì vẫn muốn chứng tỏ mình hơn người.”
Lý Tùng Nhất nghiêng đầu: “Nếu nghĩ theo cách này, nam chính khá dễ thương nhỉ?”
Trần Đại Xuyên cười, nói tiếp: “Nam số ba, một người thành công trong sự nghiệp đưa ra đề nghị đấu rượu quả thật phi logic.
Nhưng nếu muốn, vẫn có thể nghĩ ra lý do.
Ví dụ như anh ta có bóng ma tâm lý về rượu bia khi giao tranh trên thương trường, từng bất tỉnh nhân sự bởi người nào đó chuốc say.
Vì thế sau khi thành công, anh ta muốn dùng bóng ma của mình đối mặt với tình địch.
Nếu thắng, có thể xóa tan nó; nếu thua và mất đi nữ chính, anh ta cũng có lý do để an ủi mình.
Dù sao một người đàn ông ba mươi tuổi thất bại trong chuyện tình cảm trước một cậu trai chừng hai mươi thì mất mặt lắm.”
Lý Tùng Nhất nói: “Nếu nghĩ theo cách này, nam số ba tội nghiệp thật ha?”
Trần Đại Xuyên: “Còn nữ phụ, vì sao không phát sinh quan hệ? Thực ra cũng dễ hiểu.
Nam chính say như chết, đứng còn không nổi.
Dù nữ phụ muốn nấu thành cơm cũng chẳng có gạo.”
Lý Tùng Nhất thở dài nhìn trần nhà: “Nếu nghĩ theo cách này, nữ phụ đúng là thê thảm thật.” Cậu sốt sắng hỏi.
“Mà sao anh biết đứng không nổi? Anh từng say rồi hả?”
Trần Đại Xuyên cạn lời: “Chưa ăn thịt heo, nhưng cũng từng thấy heo chạy.”
Lý Tùng Nhất hết hồn: “Anh xem rồi hả?”
Trần Đại Xuyên vỗ vai Lý Tùng Nhất, nói lời thấm thía: “Lúc nào không đóng phim thì chịu khó đọc sách.
Sách là nấc thang tiến bộ của con người.”
Lý Tùng Nhất vô tình vạch trần sự ngu dốt của mình, bèn đánh trống lảng: “Anh nói nãy giờ, có khát không? Uống gì không?” Cậu chỉ hai thùng bia được xếp gọn trong góc.
Trần Đại Xuyên nhìn thoáng qua.
“Anh đang nghĩ cái gì vậy?”
Trần Đại Xuyên nheo mắt nhìn Lý Tùng Nhất, nói chậm rãi: “Tôi đang dùng phương pháp bù đắp lỗ hổng trong kịch bản của mình để tìm ra lý do vì sao cậu dự trữ hai thùng bia trong thời tiết cuối thu.”
Lý Tùng Nhất cười nhe răng: “Siêu thị đang giảm giá, tôi nhịn không nổi.”
Trần Đại Xuyên gật đầu, miễn cưỡng tin vào lý do có phần “nội trợ” này.
“Được rồi, tôi đi trước.” Trần Đại Xuyên quấn khăn quàng cổ và đeo kính râm.
“Những gì hôm nay tôi nói xem như là một mẹo nhỏ.
Thú vui thực sự của nghề diễn viên là khi cậu có đủ thực lực mới cảm nhận được, thành thử cố gắng lên.
Cậu coi mình là một khối ngọc thô thì vĩnh viễn chỉ là cục đá.
Nhưng nếu cậu coi mình là con người, thì mới có thể điêu khắc thành những tác phẩm nghệ thuật.”
Không hiểu sao đôi mắt của Trần Đại Xuyên đã bị che khuất bởi kính râm mà Lý Tùng Nhất vẫn cảm nhận rõ ánh nhìn sắc bén và nghiêm túc đang rơi trên người mình, khiến cậu ngoan ngoãn khẽ gật đầu.
Trần Đại Xuyên rời đi.
Lý Tùng Nhất sửng sốt một hồi, đoạn chạy ra ban công.
Cậu trông thấy Trần Đại Xuyên đang đi ra hành lang, ánh chiều tà phủ tầng vàng nhạt lên khắp người anh.
Cậu ôm mộng tưởng muốn thấy người nào đó trong khu chung cư nhận ra Trần Đại Xuyên.
Nhưng Trần Đại Xuyên đã tới cổng, người đi trên đường nhiều nhất thì nhìn anh thêm vài lần bởi dáng vóc cao ráo mà thôi, chứ chẳng ai tin rằng đây là ảnh đế số một của Trung Quốc.
Cậu háo hức muốn hét lên một tiếng “Trần Đại Xuyên”, liệu nó có gây ra rung động cục bộ cho toàn thể dân cư ở đây không nhỉ? May sao, Lý Tùng Nhất đã dập tắt ý tưởng về trò chơi khăm này.
Đến khi Trần Đại Xuyên đã biến mất khỏi tầm mắt, Lý Tùng Nhất vẫn đứng lặng trên ban công.
Cậu đang tự hỏi về những gì Trần Đại Xuyên đã nói.
Thú vị thật.
Phải công nhận rằng một lối suy nghĩ khác đã khiến cậu vén lên một thế giới mới của nghề diễn viên.
Cậu bỗng nhiên khao khát muốn tìm hiểu thú vui thực sự ấy trong suy nghĩ của Trần Đại Xuyên..
09.
Ký hợp đồng.
Nguyên nhân để Trần Đại Xuyên nghiêm túc chỉ dẫn Lý Tùng Nhất, là bởi ngoài ấn tượng tốt mà cậu dành cho anh đối với triều đại Nam Tuyên trong kịch bản “Con tin” thì còn cảm thấy có lỗi. Anh gửi cậu đến Thịnh Thiên Nhu mà không điều tra cẩn thận, đây là trách nhiệm của anh. Nhưng anh không ngờ ngay dưới mí mắt mình, công ty con lại dám làm càn tới vậy.
Lý Tùng Nhất có thể cảm nhận rõ sự nghiêm túc nơi Trần Đại Xuyên, thành thử cậu ghi nhớ tất cả những lời anh nói và lần lượt áp dụng chúng vào diễn xuất của mình.
Trên phim trường, Lý Tùng Nhất chơi vui cực kỳ. Mặc dù diễn phối hợp với nhiều người khác nhau, nhưng tất cả đều là bong bóng hư ảo trong suy nghĩ của cậu. Cậu đang diễn một phim thần tượng hoàn toàn mới với những người do chính tay cậu chạm khắc —— Cậu bù đắp kẽ hở logic kịch bản bằng chính sự tưởng tượng của mình.
Tất nhiên những người khác chẳng thể nhận ra Lý Tùng Nhất đang đắm chìm vào thế giới của riêng cậu, bởi đẳng cấp của họ còn quá thấp. Có lẽ Thịnh Thiên Nhu cảm nhận được đôi chút, bởi cô nhận thấy người trước mặt đang sở hữu một ma lực kỳ diệu. Thịnh Thiên Nhu lăn lê bò trườn trong ngành giải trí hơn mười năm. Cô đã tạo cho mình bộ quy tắc đơn giản mà thô lỗ: đau buồn đi kèm với những biểu cảm đau buồn; dễ thương đi kèm với những hành động tiêu chuẩn thể hiện sự dễ thương. Hơn nữa trải qua nhiều năm đóng phim, cô đã vận dụng chúng một cách thuần thục đến mức tạo thành bản năng —— Và đó chính là khuyết điểm lớn nhất của cô, cách tiếp cận như thế là vô cùng chiếu lệ trong mắt khán giả.
Bằng cách này, Thịnh Thiên Nhu với lối diễn xuất “một màu” luôn cảm thấy mượt mà lẫn tự nhiên mỗi lần nhìn vào ánh mắt trìu mến và lắng nghe lời thoại sến rện khi diễn phối hợp với Lý Tùng Nhất. Đôi lúc cô muốn đáp lại bằng một số biểu cảm mới, song chưa kịp thay đổi động tác cách điệu hóa*, Lý Tùng Nhất đã bước sang màn tiếp theo. Cô không theo kịp tiết tấu, và Lý Tùng Nhất cũng chẳng chờ cô.
Thịnh Thiên Nhu buồn bã nhận ra rằng, ngay cả khi cô muốn diễn xuất tốt hơn thì năng lực cũng không đủ. Trí nhớ cơ bắp* chỉ cho phép cô nhớ rõ nhưng phương thức biểu diễn hời hợt đó; khi muốn tiến sâu hơn, mọi tế bào lại uể oải ca thán.
Tuy nhiên nỗi buồn này chỉ thoáng qua trong nháy mắt, nhanh đến nỗi chính bản thân cô cũng không hay.
[1] Động tác cách điệu hóa (hoặc động tác cách điệu): phương thức mang tính ước lệ trong nghệ thuật biểu diễn kịch hát truyền thống dựa vào những động tác có thực trong đời sống đã được tước bỏ những chi tiết phụ.
[2] Trí nhớ cơ bắp: là khi não bộ đã học được cách thực hiện một động tác thành thục đến mức cơ thể có thể thực hiện động tác đó mà không cần tập trung suy nghĩ.
Thịnh Thiên Nhu nũng nịu kết thúc cuộc gọi với nhà sản xuất, dù cô hỏi thế nào chăng nữa vẫn không nhận được bất kỳ thông tin đáng tin cậy nào về gia thế của Lý Tùng Nhất. Nhưng, Thịnh Thiên Nhu đã hạ quyết tâm phải xây dựng mối quan hệ keo sơn với cậu.
Cô hiển nhiên nhận thấy kỹ năng diễn xuất của Lý Tùng Nhất khá tốt, chưa kể còn có ngoại hình xuất sắc. Đã lâu lắm rồi cô chưa gặp một chàng trai tươi tắn và đầy sức hấp dẫn như cậu. Một diễn viên tài sắc vẹn toàn, chỉ cần có người sẵn lòng nâng đỡ thì nhất định thành danh.
“Tùng Nhất, tối nay ăn bữa cơm không?” Thịnh Thiên Nhu ngỏ lời mời như thường lệ.
“Cảm ơn chị Thiên Nhu. Nhưng hôm nay tôi phải chuyển nhà.” Lý Tùng Nhất không viện cớ, hôm nay cậu chuyển nhà là thật.
Có lẽ lần trước Trần Đại Xuyên đến chơi nhà đã sâu sắc cảm nhận rõ cuộc sống bần cùng của cậu. Thế nên sau khi trở về, anh đã ký hợp đồng giao dịch kịch bản với Lý Tùng Nhất.
Đến khi chính thức ký hợp đồng, Trần Đại Xuyên mới phát hiện Lý Tùng Nhất cũng là tên thật của cậu, chẳng phải bút danh hay nghệ danh. Trần Đại Xuyên có lý do nghi ngờ rằng, Lý Tùng Nhất để ý tới con người nhỏ bé như viên sỏi trong một triều đại kéo dài hàng nghìn năm chính vì cái tên này.
Có lẽ, đây là duyên phận.
Lý Tùng Nhất trở thành triệu phú sau một đêm. Việc đầu tiên cậu làm là dọn ra khỏi căn nhà thuê thấp bé tối tăm, chuyển tới một ngôi nhà sạch sẽ và sáng sủa với những ô cửa sổ lồi quá khổ. Nhưng sáng sớm hôm sau, khi mà cậu háo hức mở rèm cửa thì đập vào mắt là bầu trời xám xịt đầy mây. Thế là, cậu tịt ngòi.
Hóa ra, ánh mắt trời không phải muốn có là có.
Điều thứ hai mà nhà triệu phú muốn làm là mời Thai Hành ăn tối.
“Gọi cái gì đắt vào. Khỏi tiết kiệm cho tôi.” Lý Tùng Nhất dựa hẳn vào lưng ghế, dáng vẻ lố lăng hệt như mấy thằng nhà giàu mới nổi.
Lý Tùng Nhất cố tình chọn một nhà hàng hải sản cao cấp, mức giá trung bình khoảng mấy vạn cho một món. Thai Hành đã cố ngăn cản nhưng không thành công. Lý Tùng Nhất đang bay lơ lửng trên trời bằng đôi cánh làm bằng tiền, bây giờ chẳng một ai có thể kéo cậu xuống.
Thai Hành nhìn lướt qua thực đơn với vẻ mặt táo bón. Bẵng đi một lúc, hắn bèn lắp bắp gọi vài món dưới sự thúc giục không ngừng của Lý Tùng Nhất: “Ờm… Một phần rau xào tỏi, một phần salad trái cây, một ly chè bột báng*…”
“Tôi đã nói, khỏi tiết kiệm cho tôi mà.” Lý Tùng Nhất chậc lưỡi, cầm thực đơn gọi vài món theo bảng giá từ cao xuống thấp. “Cua hoàng đế Alaska*, cua tuyết đỏ Hokkaido*, một phần bào ngư… Nhưng nếu bào ngư nhỏ hơn bàn tay tôi thì thôi nhé…”
[3] Chè bột báng: Bản gốc là “西米露”, tên tiếng anh là “saimailo”. Đây là một món chè tráng miệng làm bằng trân châu mini, dừa và sữa đặc.
[4] Cua hoàng đế Alaska: giá trị kinh tế cao, chất lượng thịt xếp vào hàng thượng hạng. Kích thước cơ thể đặc biệt to hơn so với các loại cua bình thường, cua hoàng đế có thể to đến 2m và nặng khoảng 10kg.
[5] Cua tuyết đỏ Hokkaido: được mệnh danh là “vua của các loài cua”. Ở Nhật, chúng có tên gọi chính thức là “Hon-zuwai kani”.
Đến khi người phục vụ mỉm cười rời đi, Lý Tùng Nhất mới cảm thấy thỏa mãn từ thân đến tâm.
Thai Hành khẽ nói: “Giờ cậu giàu rồi, phong cách cũng khác hẳn ha.”
Lý Tùng Nhất cười nhẹ: “Bình thường à, bình thường à. Sao bằng Trần Đại Xuyên được.”
Thai Hành trợn mắt. Đoạn hắn điềm nhiên nói: “À mà, nếu cậu ký với Bình Xuyên thì sau này khỏi cần lo lắng chả có phim đóng. Cậu cũng không cần mạo hiểm bán hủ với tôi nữa.”
Thai Hành đã muốn nói điều này từ lâu. Khi biết Lý Tùng Nhất đóng vai chính trong phim của Thịnh Thiên Nhu, Thai Hành đã lường trước chiêu trò này chẳng còn hiệu quả. Bán hủ với hắn trước mấy trăm ngàn fans nào đáng kể bằng Lý Tùng Nhất có thể ký hợp đồng với Bình Xuyên. Khoảng thời gian trước Thai Hành không chủ động bắt chuyện với Lý Tùng Nhất vì sợ cậu đa nghi, lầm tưởng rằng hắn mặt dày mày dạn muốn dựa hơi.
Đúng lúc hôm nay Lý Tùng Nhất ngỏ ý mời cơm, hắn bèn nói cho rõ lời. Lý Tùng Nhất có cơ hội phát triển, Thai Hành mừng thay cho cậu. Sợi dây ràng buộc lợi ích giữa hai người biến mất, Thai Hành sẽ không kỳ vọng cậu tiếp tục hợp tác với mình, cũng sẽ không uy hiếp Lý Tùng Nhất bằng chuyện này.
Thai Hành quả thật muốn nổi tiếng. Hắn cứ luôn miệng bảo rằng chẳng có giới hạn, nhưng giới hạn của hắn vẫn đứng chễm chệ nơi xa. Chứ không thì bây giờ hắn đâu cần phải vùng vẫy thế này.
Ngờ đâu Lý Tùng Nhất nhướng mi nhìn hắn: “Chuyện của trai đẹp sao gọi là bán hủ được? Tụi mình là quan hệ bình thường mà.”
“Ý cậu là sao?” Thai Hành ngạc nhiên nhìn Lý Tùng Nhất.
“Ý là, hồi đó thế nào bây giờ thế ấy.”
Người phục vụ bưng bữa tối hải sản lên, thoạt nhìn đắt đỏ phết.
Lý Tùng Nhất lấy điện thoại ra: “Nào, chụp một tấm.”
Thai Hành sững người, ngồi yên không động đậy.
Gọi mấy bận mà không thấy hắn trả lời, Lý Tùng Nhất bèn thò hẳn người qua đó. Cậu chụp một tấm, đoạn thở dài: “Thảo nào người ta nói con gái hay kết bạn với mấy cô có ngoại hình bình thường, chủ yếu làm nổi bật vẻ đẹp của mình chứ gì. Mặc dù tôi không nhất thiết phải làm vậy, nhưng lâu lâu so sánh mới thấy cái tuyệt vời của nó.”
Thai Hành vốn đang xúc động, song tim hắn bất chợt nhói đau khi nghe thấy những lời này. Hắn che ngực, nói với cảm xúc lẫn lộn: “Cảm ơn.”
Lý Tùng Nhất chấp nhận lời cảm ơn mà không có tí gánh nặng nào: “Ừ, cảm ơn đúng rồi. Thiếu cái mặt này của tôi chả biết khi nào anh mới hot nữa.”
Trái tim Thai Hành càng đau hơn.
“Đừng bắt chước Tây Thi che ngực, ăn nhanh đi.” Lý Tùng Nhất đưa mắt nhìn hải sản trên bàn.
Thai Hành hỏi: “Sao cậu không ăn?”
Lý Tùng Nhất hất cằm lên trời: “Tôi mời anh ăn, đương nhiên anh phải gắp đũa trước.”
Thai Hành lần lữa mãi mới nói: “Thực ra tôi không thích ăn hải sản…”
Lý Tùng Nhất tròn mắt: “Sao không nói sớm?”
Thai Hành nghe tới đây thì bực liền: “Bộ cậu có cho tôi cơ hội nói chuyện hả? Tôi bảo đổi nhà hàng, còn chưa kịp nói lý do đã dặn đừng tiết kiệm cho ông, ông đây có tiền. Tôi muốn gọi vài món rau, thế mà cậu tưởng tôi khách sáo bèn giật thực đơn. Học cái gì không học, mà đi học cái tánh “tổng tài bá đạo” của Trần Đại Xuyên!”
“Tôi…” Lý Tùng Nhất chưa bao giờ nghĩ rằng một khi mình có tiền thì trí thông minh lại tụt dốc không phanh, đồng thời còn lây nhiễm thói độc đoán của Bát Vương gia ở kiếp trước. “Thực ra, tôi cũng không thích hải sản.”
Lý Tùng Nhất và Thai Hành đực mặt nhìn nhau. Cả hai đều trông thấy chữ N bên trái và chữ D bên phải trong mắt của đối phương.
[6] N và D, ý là “ngu dốt”. Thực ra bản raw là S và B, tức “傻逼” (shabi) nghĩa là ngu ngốc.
Lý Tùng Nhất thở dài, đăng một tin lên Weibo.
Lý Tùng Nhất: Tôi mới trúng số nên mời Thai Hành ăn tiệc hải sản. Kết quả cả hai đều không thích món này. May sao mặt mày tàm tạm, đói bụng cũng có thể soi gương cho qua bữa.
Cư dân mạng bình luận bên dưới: Không thích thì cho em đi!
Lý Tùng Nhất lập tức trả lời: Được đó, tôi đang ở nhà hàng Hải Dương.
Chốc sau, Lý Tùng Nhất bồi thêm: Trong vòng một giờ, bạn nào có thể đến cứ đến. Tôi gọi hơi nhiều. Một, hai người ăn không hết đâu.
Có vài người hâm mộ ở gần đây, vừa nhìn thấy bình luận này đã xúc động khôn nguôi —— Lẽ dĩ nhiên không phải xúc động vì bữa tiệc hải sản, mà vì có cơ hội gặp Lý Tùng Nhất và Thai Hành ở ngoài đời. Dẫu là ngôi sao nào chăng nữa vẫn có sức hấp dẫn mãnh liệt đối với các bạn trẻ.
Một số bạn táo bạo chạy tới nhà hàng. Họ ôm tâm lý muốn nhìn thử, song chẳng ngờ Lý Tùng Nhất và Thai Hành thực sự có mặt ở đó. Quan trọng hơn hết, người thật còn đẹp trai ngời ngời! Các bạn trẻ liền ồ lên thích thú.
Họ đờ đẫn ngồi vào bàn ăn. Dưới cái nhìn của hai thần tượng đang dùng salad trái cây, các cô bé dần dần giải quyết từng món hải sản đắt đỏ trên bàn.
Mãi về sau, các cô mới hoàn hồn đăng ảnh lên Weibo. Chiếm tám mươi phần trăm nội dung là tiếng thét í ới, hai mươi phần trăm còn lại là xuýt xoa khen ngợi. Ai cũng nói rằng Lý Tùng Nhất và Thai Hành cực kỳ thân thiện, không hề mắc bệnh ngôi sao như hằng hà thần tượng bây giờ.
Bên cạnh đó, cũng có vài người qua đường ăn nói chua ngoa: Tên của hai người này chả bao giờ xuất hiện trước công chúng, ngôi sao cái mẹ gì chứ? Không phải ngôi sao thì hiển nhiên làm gì mắc bệnh ngôi sao.
Đối với Lý Tùng Nhất, đây chỉ là một tình tiết nhỏ bé. Cậu đã sớm quên béng nó đi và dành hết tâm trí cho việc quay phim.
*
Hôm nay, Khang Kiều đến thăm Lý Tùng Nhất.
Khang Kiều luôn thấy có lỗi vì không thể đích thân đưa cậu vào đoàn phim. Mấy ngày đó, hắn quả thật bận tối mày tối mặt. Diễn viên dưới sự quản lý của hắn bỗng rộ lên tin đồn “giở thói ngôi sao” khắp các trang mạng xã hội, hắn phải vội vàng nhờ vả người khác đè tin này xuống.
Kỳ thực Khang Kiều tới đây hay không cũng chẳng ảnh hưởng gì đến Lý Tùng Nhất.
Nhưng đối với Khang Kiều, đây là một chuyến viếng thăm có sức ảnh hưởng rất lớn.
Hắn chẳng ngờ rằng Lý Tùng Nhất lại có tài diễn xuất. Hắn vừa nghe lời thoại đã biết đây là phim thần tượng não tàn, nhưng cách thức cậu diễn không hề mang tính chiếu lệ.
Khang Kiều xuất thân từ biên kịch, ít nhiều gì vẫn nhận ra kỹ năng diễn xuất của Lý Tùng Nhất khá bài bản —— Cậu xây dựng mạch cảm xúc tương đối phức tạp. Dù đóng vai chính có tính cách ngang ngược và thiết lập chẳng mấy nổi bật, song cậu vẫn thêm thắt chút da chút thịt vào nhân vật. Chỉ tiếc rằng, hạn chế từ kịch bản khiến cậu không thể phát huy tối đa năng lực.
Vì thế khi bộ phim sắp sửa đóng máy, Khang Kiều đã đến hỏi Trần Đại Xuyên nên sắp xếp Lý Tùng Nhất như thế nào.
Trần Đại Xuyên hỏi: “Cậu thấy sao?”
Khang Kiều nói ngay: “Tôi thấy được lắm!”
“Ừm, vậy ký đi.” Trần Đại Xuyên nói. “Cậu tiếp tục dẫn dắt cậu ấy.”