Hoàn Thừa Lân là đứa con duy nhất của đại tướng quân Hoàn Thừa Ngạn, trước từng đóng quân bên kia Vạn Lý Trường Thành, cùng Hồ Sa Hổ cự chiến với Mông Cổ, lập nhiều công trạng. Thành Cát Tư Hãn đích thân mang đại binh tới Trung Đô, gặp quân của Thừa Ngạn bố trí dày đặc, hàng lối chỉnh tề, không phá được mà than, “Vách thành sừng sững như vách núi, trải dài đến tận đường chân trời. Quân Kim đông như kiến cỏ, vô số vũ khí hạng nặng, gươm giáo sáng loà. Quân ta như bị lọt thỏm vào biển người, không thể dành uy phong.” Dứt lời thì rút quân, kinh đô Yến Kinh mới tạm yên ổn.
Chẳng may Thừa Ngạn bị Hồ Sa Hổ e sợ mình cậy công lũng đoạn triều chính, nên tước binh quyền, đuổi về Liêu Dương. Chính sau đó Hồ Sa Hổ bị Thủ Trung nghi kị, áp bức, ép mang một đội tiên phong tử chiến với Thành Cát Tư Hãn, chẳng khác gì tự sát. Hồ Sa Hổ chết rồi, quân Kim không còn tướng tài, Mộc Hoa Lê đánh một trận tan tác. Âu cũng là lẽ trớ trêu.
Thừa Lân lọt lòng đúng tết Đoan Ngọ, trong sân vườn nhà Thừa Ngạn có cây bạch dương nhỏ bỗng cao lên vài trượng. Thừa Ngạn mời pháp sư đến xem điềm lạ này tức là làm sao. Pháp sư nói, “Đây ắt hẳn là điềm lành, cậu quý tử nhà đại quan được ban phước lành từ thần linh.” Thừa Ngạn cả mừng, liền gọi chính thê của mình vào trong, trong mặc áo lụa, ngoài mặc áo da hươu, tóc chít vải tím, cổ đeo vòng nanh rắn, theo đúng tập tục làm lễ cảm tạ thần linh. Thừa Lân lên một tuổi đã nói sõi, lên năm tuổi đã tập đánh trận giả, ở trong nhà thường tay cầm kiếm gỗ, sai gia nhân giả bộ làm quân Mông, rượt khắp nhà, Thừa Ngạn thấy ưng thuận vô cùng, mới mời đại kiếm sư A Hạp Lợp về truyền thụ kiếm giáo. A Hạp Lợp thấy Thừa Lân tuy dáng người mảnh khảnh nhưng tâm pháp vô cùng uyển chuyển, liền khuyên Thừa Ngạn đưa con trai lên duyên hải Hồ Lý Cải lạnh lẽo xa xôi, thỉnh cầu lão sư Ni Kham Gia Tịnh để học Hạc Kiếm pháp. Khi ấy, Thừa Lân mới mười hai tuổi.
Chính thê của Thừa Ngạn, cũng tức mẹ Thừa Lân, thấy con thân hình mảnh mai như liễu, da trắng môi đỏ, phải bắc chinh lạnh lẽo thì thương tiếc vô cùng, nhất mực khuyên con ở nhà. Thừa Ngạn cũng nói, “Lần này ta không thể đi với con. Con đi một mình lên phương Bắc, ban ngày mặt trời chẳng chiếu sáng, ban đêm tuyết dày quá khuỷu chân, con thì thủ túc như con hươu con, chưa chắc đã chịu được lãnh hàn. Chi bằng hãy cứ ở đây, vài năm nữa thân thể cường tráng, đi cũng chẳng muộn.”
Thừa Lân đáp, “Bẩm thưa cha, Khả hãn đã tràn quân tiếnsát Vạn Lý Trường Thành, chính cha ở đó tận mắt chứng kiến. Khả hãn hung bạo,lòng tham vô đáy, giờ còn nhăm nhe chiếm lấy kinh đô. Chuyến này con phải đi, điđể còn về kịp góp chút sức mọn đánh đuổi lũ giặc. Nếu con ở đây, đợi tới khithân thủ cứng cáp thì quốc gia khéo cũng chẳng còn.”
Thừa Ngạn thấy phải, không cản con nữa, bèn cử gia nhân đoàn hai chục người cùng một viên gia tướng đi cùng. Thừa Lân xin phép chỉ mang theo một đoàn ba người, Thừa Ngạn cũng phải chiều ý con. Thừa Lân lên tới vùng duyên hải thì Ni Kham Gia Tịnh không tiếp. Thừa Lân quỳ rạp trước cửa nhà Gia Tịnh ba ngày ba đêm, tuyết rơi kín đầu cũng không di dịch. Gia Tịnh thấy lạ lùng, bèn sai con trai là Gia Khảm ra đuổi đi.
Gia Khảm nói, “Kiếm pháp họ Ni Kham không truyền cho người ngoài. Xin các hạ hãy đi cho.”
Thừa Lân đáp, “Vó ngựa Mông Cổ đã tới kinh đô, đây là chuyện cấp bách. Nếu họ Ni Kham không định ra tay cứu giúp thì ít nhất hãy giúp tại hạ một tay.”
“Chuyện trong thiên hạ hãy để thiên hạ tự giải quyết, bọn ta không can dự.”
“Nếu như quân Mông Cổ tới tràn tới nhà các người, phanh thây hài nhi các người, hãm hiếp thê thiếp các người, lúc đó kiếm pháp các người không những phải dùng đến, mà còn bị ép truyền thụ lại cho chúng nó. Các người muốn vậy sao?”
Gia Khảm thấy lời lẽ hùng hồn, muốn phản biện cũng không cam tâm, bèn đáp. “Để ta vào nói chuyện với phụ thân ta.”
Gia Khảm vào trong một hồi. Khi trở ra, Khảm chỉ gật đầu một cái, khoát tay ra hiệu cho Thừa Lân vào trong. Thừa Lân cả mừng, chắp tay cảm tạ một hồi rồi mới bước vào.
Hạc Kiếm pháp ung dung, uyển chuyển, kiếm khí như sương tuyết, đối với nội tại của Thừa Lân là vô cùng phù hợp. Kiếm pháp mà Gia Khảm học trong hàng chục năm, Thừa Lân chỉ mất năm năm để thấm nhuần. Chỉ có điều là cơ thể vẫn chưa cao lớn hơn là bao. Tuy nhiên, khi kiếm đạo chưa đạt tới cực hạn thì hung tin Yến Kinh thất thủ tới tai. Thừa Lân vội từ biệt sư phụ mà trở về miền Nam.
Trước khi đi, Gia Tịnh gửi gắm cho Thừa Lân một cuốn sách mỏng, trong đó ghi Hàn Cầm Kiếm Phổ. Gia Tịnh khuyên nhủ, “Trong đây chính là tất cả tinh hoa chiêu thức của Hạc Kiếm pháp, ta chưa bao giờ truyền thụ lại cho ai, kể cả Gia Khảm. Nay ta không còn có thể truyền dạy cho con, nên con hãy đọc lấy, nếu tự ngộ ra được thì con chính là có tư chất, còn không được thì kiếm thuật cũng sẽ chỉ tới đó mà thôi.”
Nói đặng, lại truyền lại cho Thừa Lân thanh Không Ngưng Kiếm. Đốc kiếm dài gần ba thước, lưỡi kiếm mảnh mà sắc lẹm, phản quang sắc trời xanh dương biêng biếc. Thừa Lân cầm kiếm lên, thanh kiếm tưởng nhẹ mà nặng không tưởng, chuôi kiếm lại khảm gỗ bạch dương sần sùi, kể cả cầm hai tay vẫn thấy khó chịu. Thừa Lân vốn nhỏ người, vừa cầm kiếm vừa cưỡi ngựa chắc chắn không thể sử dụng dễ dàng. Gia Tịnh nhìn nét mặt của đồ đệ, biết ý mà nói, “Kiếm thuật không chỉ nằm ở sức mạnh thể chất, mà còn ở nội lực khai tỏa tới đâu. Khi nào một tay con đốc ngựa, tay kia múa được kiếm, ấy mới là vận dụng được tâm lực.”
Thừa Lân hiểu ý sư phụ, nhưng vẫn chưa biết làm thế nào để lĩnh hội. Nhưng thời gian quá cấp bách, đành phải từ tạ mà rời đi, một mình một ngựa một mạch về Liêu Dương đoàn tụ với gia đình.
Trên đường đi, Thừa Lân cứ có phút nào nghỉ ngơi là lại mang sách ra đọc, vừa đọc vừa luyện kiếm pháp theo chỉ dẫn. Tuy nhiên, Không Ngưng Kiếm thì khó điều khiển, chiêu thức thì không cho phép dùng hai tay, Thừa Lân không thể thoải mái ra chiêu. Sử dụng đoản kiếm thông thường thì lại không cảm thấy chút sát thương nào. Thừa Lân trong lòng không vui, nhưng tự dặn mình không được nản lòng. “Từ giờ về tới Liêu Dương, vẫn còn cả một tuần đường. Tới đó thế nào cũng lĩnh hội được chút ít,” Thừa Lân nhẩm trong đầu.
Nhưng khi vừa mới vượt qua Điệu Binh Sơn, tới gần ải Thiết Lĩnh, Thừa Lân không còn thấy quốc kì nước Kim nữa. Chỉ thấy xác chết la liệt bên đường, mùi hôi tanh bốc lên nồng nặc. Thừa Lân cẩn trọng men sơn lộ đi thêm một dặm nữa thì thấy một trại lính ở xa, cắm cờ nheo hình tam giác, mép đỏ răng cưa bao bọc lấy màu xanh bên trong. Khi đó, Thừa Lân mới nhận ra một sự thật kinh hoàng.
Cả Liêu châu đều đã rơi vào tay Mông Cổ.
*Hạc kiếm pháp: Hạc kiếm pháp, hay còn gọi là Ni Kham Gia Hạc Kiếm, là kiếm thuật gia truyền của Ni Kham gia. Kiếm thuật này chú trọng vào sự biến thiên của đường kiếm, sự uyển chuyển của kiếm hình, sự vô định của kiếm ảnh. Kiếm nhân tập trung vào nhu nhuyễn nhiều hơn cương mãnh, những bước di chuyển cần phải thật nhịp nhàng để mở ra cơ hội tấn công, đường kiếm thay đổi đột ngột thường xuyên, liên miên bất tuyệt, bộ pháp cần chú trọng nhanh lẹ và thân thể cần dẻo dai. Dòng dõi Ni Kham vốn không phải tộc Dã Nhân, nhưng vì bất mãn với chính sách bành trướng xuống phương Nam của các triều vua Kim nên di cư lên miền viễn Bắc. Ni Kham Gia Đồng, tức thân phụ của lão sư Ni Kham Gia Tịnh, thành danh vào thời kì hoàng kim của Kim quốc, ngay cả khi cao thủ Kim quốc nhan nhản như kê ngoài đồng vẫn đứng trong hàng thập đại tuyệt nhân, có kẻ đồn đại đã đột phá cảnh giới thứ năm trước khi khước từ giao du với triều đình, trở về hùng bá một cõi Hồ Lý Cải. Về sau Gia Tịnh không kế thừa được toàn bộ tinh hoa của Gia Đồng, tuy vậy cũng kịp lưu giữ Hàn Cầm Kiếm Phổ, trong đó có đầy đủ hướng dẫn luyện chiêu thức Hạc kiếm pháp lên tới thức cuối cùng. Có những chiêu thức trong quyển sách chỉ những kẻ phải đạt nội công ít nhất tứ tầng trung cấp mới có thể luyện được, vậy nên hiện tại không còn truyền lại trong giang hồ.
~ Nếu bạn thích truyện thì hãy tặng mình một cái vote để ủng hộ truyện nhé!~