Đông Tề, năm Thiệu Nguyên đế thứ mười. Đất nước hòa bình, nhân dân an lạc.
Thái tử Minh Thành Triệt là con trai duy nhất của Hoàng hậu Liễu Nguyệt Đan, sau khi tiên đế băng hà, thuận lợi lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu Thiệu Nguyên.
Tranh chấp giữa các hoàng tử là điều không thể tránh khỏi, tuy nhiên với sự hỗ trợ của hoàng hậu và thế lực “nồng hậu” từ nhà ngoại, cùng với bản tính thông minh nhẫn nại của bản thân, Minh Thành Triệt đã thành công diệt trừ phần lớn các thành phần phản động trong triều.
Sau khi Thiệu Nguyên đế lên ngôi, đất nước ngày càng phát triển hưng thịnh. Thông thương mở rộng, nông sản dồi dào, quân đội được đào tạo nghiêm mật.
Ngay từ nhỏ, Thái tử Minh Thành Triệt đã bộc lộ sự thông minh, hiểu chuyện nên bị nhiều người xem là cái gai cần phải nhổ bỏ. Nhớ lại những biến cố xảy ra làm nguy hại đến tính mạng tiểu Thái tử, Liễu Nguyệt Đan không ngờ rằng trong chốn hậu cung người ăn thịt người này, con trai nàng có thể vững vàng đăng cơ đế vị.
Liễu Nguyệt Đan là trưởng nữ của Thừa tướng tiền triều Liễu Quan Thần, mẫu thân nàng là thiên kim tiểu thư nhà Đại học sĩ Trương Liễng – Trương Thư Điềm, một tài nữ nổi danh kinh thành. Đại ca nàng Liễu Quan Trúc là thống soái chỉ huy mười vạn quân mã. Trong nhà chỉ có hai người là cùng quan hệ phụ mẫu, còn lại đều là con thứ.
Từ lúc Liễu Nguyệt Đan có tri thức đã được phụ mẫu giáo dục để trở thành phi tử của Hoàng thượng. Nàng thừa hưởng sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành của mẫu thân, lại không bỏ qua sự thông minh trầm ổn của Liễu thừa tướng, nhưng nàng chưa từng có ý nghĩ sẽ làm một người nương tử chỉ an phận thủ thường tại gia. Xã hội cổ đại trọng nam khinh nữ, nhưng Liễu Nguyệt Đan không cho là đúng. Nàng có ước mơ, có hoài bão, muốn được mở mang tri thức, giao lưu kết bạn. Nàng muốn mở một cửa hàng sưu tầm và buôn bán cổ vật; vì vậy, nàng thường xuyên ra ngoài giao lưu học hỏi, việc mà nữ tử của các đại thế gia khác chưa bao giờ dám hoặc được thử.
Đáng tiếc năm nàng mười sáu tuổi đã được phụ mẫu gả cho Cảnh Lâm Hoàng đế, trở thành đương kim Hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ, cắt đứt ước mơ hoài bão của nàng.
Nàng không oán trách cha mẹ mình bởi nàng hiểu, con cái sinh trưởng trong hào môn thế gia, số phận định sẵn phải sử dụng hôn nhân để cân bằng thế cục và hỗ trợ lẫn nhau. Nàng cũng biết Cảnh Lâm đế cưới nàng làm hậu chỉ vì hắn e ngại thế lực của Trịnh gia, muốn dùng Liễu gia nàng để kìm hãm bọn họ. Nàng không quan tâm bọn họ muốn tranh cái gì, cho đến khi hài tử của nàng ra đời.
Minh Thành Triệt từ lúc mới sinh ra đã thể hiện ưu tú hơn người của mình, nên rất được phụ hoàng hắn sủng ái và sắc phong Thái tử khi mới lên bốn tuổi.
Liễu Nguyệt Đan chưa bao giờ nghĩ được sủng ái là xấu, bởi mẹ con nàng cần thứ đó để có thể tồn tại ở hậu cung, nhưng nó cũng khiến nàng không thể không đề phòng. Việc hoàng thượng phong con trai nàng làm trữ quân ngay thời điểm ấu nhi như thế chẳng khác nào đẩy mẹ con nàng ra đầu sóng ngọn gió, khiến cho đám người không yên phận kia không ngừng nảy sinh ý đồ hãm hại mẹ con nàng.
Thực ra Liễu Nguyệt Đan nàng chưa bao giờ muốn làm Hoàng hậu, cũng không hy vọng con mình trở thành Thái tử rồi bị nhiều người tìm cách hãm hại, lúc nào cũng phải cẩn thận, dè chừng.
Nhưng nếu đã bước chân vào chốn thâm cung, nàng không thể chỉ lo cho riêng mình. Một khi nàng không còn là Hoàng hậu, bọn người Trịnh phi, Liên Tần, Vương Quý nhân liệu có tha cho con nàng, cho nhà họ Liễu?
Nàng chưa bao giờ muốn đánh cược, nhất là những thứ như mạng sống, vì vậy con đường duy nhất để thoát khỏi cảnh đầu rơi máu chảy chính là phải trở nên mạnh mẽ hơn, nắm giữ nhiều quyền lực hơn.
Một khi đã bước vào hoàng cung, sinh ra hoàng tự thì cả hai mẹ con nàng đã mất đi tư cách trở thành người vô tội rồi. Người ta thường nói Hoàng hậu nàng cao cao tại thượng uy nghi quyền quý nhưng họ có biết, để có được ngày hôm nay, nàng đã đánh đổi biết bao nhiêu thứ, đánh mất lòng tin của biết bao người kề cạnh. Nàng không hối hận, nhưng không tránh khỏi tiếc nuối vài phần.
“Lan Phi, Lương Tần tới!”
Tiếng thái giám tổng quản cao vút chen ngang dòng suy nghĩ của vị Thái hậu đang bệ nghễ ngồi trên ghế phượng. Hoàng thượng lên ngôi đã mười năm nhưng vẫn không có ý định lập hậu, vì vậy Thái hậu đành phải ra tay chấp chưởng hậu cung.
Liễu Nguyệt Đan cũng không muốn tiếp tục làm những chuyện này. Ba mươi năm làm cùng một việc, nàng chán đến tận cổ rồi. Mỗi lần hối thúc hoàng thượng lập hậu thì hắn lại mè nheo làm nũng, bảo mẫu thân làm việc thì hắn yên tâm hơn. Khỉ con thối, đại trượng phu gần ba mươi tuổi đầu làm loại chuyện này không thấy mất mặt sao? Làm lão nương ta sống nửa đời người mà vẫn chưa được cáo lão hồi hương là thế nào?
Nói thì nói vậy nhưng Liễu Nguyệt Đan cũng không muốn ép hắn làm chuyện mình không muốn. Làm hoàng thượng đã đủ mệt mỏi rồi, miễn mẫu thân còn sống thì con không cần phải lo những chuyện này.
Gọi mình lão bà là thế nhưng phong thái của Liễu Nguyệt Đan vẫn luôn uy nghi, cao quý. Cả người nàng toát ra một loại khí thế khiến người đối diện phải thần phục. Tuy nhiên điều đó cũng không khiến nàng mất đi sự dịu dàng, thanh thoát. Làn da trắng nõn ngày xưa vẫn như thế, vẫn mịn màng không tì vết. Dáng người uyển chuyển, đôi mắt sáng xuyên thấu nhân tâm, tuy không còn như lúc trẻ nhưng lại khiến nàng trở nên vô cùng trầm ổn. Thời gian tuy không bỏ qua cho ai nhưng hình như cũng đang thiên vị cho vị Thái hậu Đông Tề quốc này.
“Chúng thần thiếp bái kiến Thái hậu!”
Các phi tần sau khi Lan Phi và Lương Tần tới đồng loạt hành lễ với Thái hậu. Lan Phi là phi tần có phẩm vị cao nhất ở hậu cung hiện giờ. Nàng không phải họ Liễu, mà họ Trịnh.
Đây là điều duy nhất Liễu Nguyệt Đan ép con mình làm. Nàng không muốn việc con mình làm đế khiến nhà họ Liễu bắt đầu rục rịch. Thần công cao hơn chủ là chuyện mà bất cứ vị đế vương nào cũng tối kỵ. Nàng không cho phép cả hai bên nảy sinh mâu thuẫn. Nàng chính là ích kỷ như thế, vì bản thân mình và người thân mà không tiếc đẩy người khác vào chỗ nguy hiểm.
Nói thì nói vậy nhưng vị Lan Phi này lại chưa có một ngày nào chịu khổ, âu cũng là nhờ Thái hậu che chở.
Liếc nhìn đám oanh oanh yến yến đấu lưỡi với nhau thật khiến người khác đau đầu. Sau khi cho bọn họ lui về thì tẩm cung nàng mới được yên tĩnh một chút.
“Hoàng thượng vẫn còn đang phê duyệt tấu chương sao?” Đặt nhẹ tách trà hoa cúc xuống bàn, Liễu Nguyệt Đan đưa mắt hỏi cung nữ thân cận.
“Bẩm Thái hậu, vâng ạ. Từ lúc tan triều, Hoàng thượng vẫn chưa rời Kính Tâm điện. Tuy nhiên, người có căn dặn Thái y thường xuyên đến xem bệnh của Thái hậu.” Thường Ngọc cung kính trả lời.
“Cũng chỉ là phong hàn bình thường, không có gì đáng ngại.” Vừa dứt câu, Liễu Nguyệt Đan cảm thấy đầu óc quay cuồng rồi quỵ xuống.
“Mau gọi Thái y, mau gọi Thái y. Thái hậu bất tỉnh rồi!” Thường Ngọc hoảng hốt thét lớn.
Đúng vậy, vốn là phong hàn bình thường, nhưng kéo dài tích tụ từ năm này qua tháng khác, cộng với việc sống trong cung cấm gần ba mươi năm, làm sao có chuyện không tiếp xúc với những thứ ghê tởm, cơ thể hư nhược cũng không phải ngày một ngày hai. Trong cung người mới vào, người cũ cũng dần mất. Sống lâu quá nhiều lúc cũng khiến con người trở nên buồn chán. Xin lỗi Triệt Nhi, mẫu hậu không thể từ biệt con. Trịnh phi, Liên Tần, à cả Tiên hoàng nữa, Liễu Nguyệt Đan ta sắp đoàn tụ cùng các người rồi.