Tìm diệu dược chọc cười bọn gia đinh
Nói liễn đối tài kinh Tần thừa tướng
Có thơ rằng:
Đỗ Lăng hàn thực cỏ còn xanh
Trường tụng Kim Cang Bát Nhã kinh
Mưa lạnh còn vang hồn sĩ tư?
Chiêm bao mơ đến Phụng Hoàng đình.
Lý Hoài Xuân đến trước Tế Điên nói:
– Thưa sư phụ, đã lâu không gặp, đệ tử có lời chào. Hôm nay Tần công tửmắc chứng bệnh kỳ lạ, đệ tử tiến cử sư phụ trị bệnh cho công tử. Bấtluận có việc gì không vừa ý, xin sư phụ nể tình đệ tử mà bỏ qua cho.
Tế Điên nói:
– Được, này ông Lý Hoài Xuân, ông muốn ta trị bệnh cho người mà lại để xiềng xích như vầy sao?
Lý Hoài Xuân nghe thế, nói:
– Được, thưa Tần đại nhân, xin ngài cho người triệt bỏ xiềng xích cho Thánh tăng đi.
Thừa tướng lập tức cho cởi bỏ xiềng xích cho Tế Điên.
Lý Hoài Xuân nói:
– Thưa sư phụ, người có điều gì bận tâm không? Chúng ta đi nhé!
Tế Điên nói:
– Lý Hoài Xuân ơi, sư phụ, sư huynh, sư đệ ta bị xiềng trói ở đây, ta còn lòng dạ nào đi trị bệnh cho được?
Thừa tướng nghe nói lập tức cho thả chúng Tăng trở về chùa. Chúng Tăng đi về rồi, Lý Hoài Xuân nói:
– Sư phụ Ơi, người chắc không còn phải bận tậm điều gì nữa, thôi ta đi nhé!
Tế Điên nói:
– Lý Hoài Xuân ơi, binh vây chùa Linh Ẩn, dỡ phá lầu Đại Bi, ta trị bệnh mà lòng lo nặng trĩu làm sao ta đi được?
Thừa tướng biết ý Hòa thượng muốn triệt binh vây chùa, liền sai thủ hạ đitruyền tướng dụ thâu hồi lệnh dỡ lầu và triệu hồi binh lính vây chùa.
Lý Hoài Xuân nói:
– Bạch Thánh tăng, chắc Ngài không có điều chi bận bịu nữa, thôi chúng ta đi nhé!
Tế Điên nói:
– Ừ, thì đi. Rồi đứng dậy nói:
Làm lành thêm đức phước
Gây dữ gặp tai ương
Bần tăng trừ ma nghiệt
Thế gian mắt khó lường.
Thấy Tế Điên nói cười tự nhiên, Thừa tướng nghĩ: “Ông Hòa thượng này phóngkhoáng không câu nệ, chắc là trị lành con tạ Ta nếu không dỡ phá lầu Đại Bi sẽ bị người ta cười chê biết bao! Ông ấy đánh quản gia mình, mìnhxiềng trói ông ấy lại. Chừng ông ấy trị lành bệnh cho con mình rồi, mình cũng dỡ lầu Đại Bi mới được”.
Tế Điên ở phía sau cười ha hả nói:
– Được, được, thiện tai! Thiện tai! Để Hòa thượng ta xướng một bài sơn ca cho đại nhân nghe nhé!
Mũ đen phơ phất
Ngôi nhất phẩm ai tày
Áo tía bào xanh
Vị tột cao chưa thỏa ý
Dò sông biển ngàn trùng
Khó đo lòng nham hiểm
Chim thúy trau lông cánh, để giắt đẹp đầu ai
Lợn trong chuồng béo mập, chỉ ngon sướng miệng người.
Vòi vọi non cao chim kết tô?
Nào quản góc gai có kẻ tìm
Đất bằng rộng rãi thênh thang
Tiêu dao tự tại mấy người rõ thông.
Nghe hát sơn ca xong, Thừa tướng gật đầu thầm nhận là Hòa thượng đã biết rõcả. Mọi người đồng đi đến thơ phòng của Tần Hằng ở hoa viên phía Tây.Đến nơi, nghe Tần Hằng ở bên trong rên rỉ không thôi.
Tế Điên bước vào phòng nói:
– Ôi chao, cái đầu lớn quá tay vậy, không xong rồi!
Lý Hoài Xuân nghe nói, thất kinh nghĩ thầm: “Thế này thì hỏng mất! Mình thỉnh ổng lại, ổng lại trị không được. Thiệt bậy quá!”
Thừa tướng cũng thất kinh, lật đật hỏi:
– Bệnh này có thể trị được không, Hòa thượng?
Tế Điên nói:
– Có thể trị được chứ. Không hề chi! Đây là loại bệnh sơ sài. Cả đến cácloại đầu óc ta đều trị được ráo. Bệnh này có tên gọi là “Đại đầu ung”.
Nói rồi, đưa tay vào túi sờ soạng nột lát, rồi nói:
– Cha chả! Không xong! Thuốc của ta rớt đâu mất rồi.
Thừa tướng hỏi: Thuốc gì thế?
Tế Điên đáp: Thuốc trị bệnh đại đầu ung.
Thừa tướng nghe nói, ngạc nhiên hỏi:
– Hòa thượng đến tướng phủ này, làm sao biết con tôi mắc bệnh đại đầu ung mà mang thuốc?
Tế Điên đáp:
– Không phải vậy đâu. Nhân vì có một vị Vương viên ngoại, ông ta cũng cómột đứa con mắc bệnh giống như vầy. Hễ mắc nhằm bệnh này thì chắc chắnkhông phải là người tốt, thế nào cũng có hành hung tác ác chi đây, nhưlà cưỡng chiếm vợ trẻ gái tơ nhà người mới bị như vậy. Con ông Vươngviên ngoại bất hảo nên mang chứng đại đầu ung, mời ta đến trị bệnh. Tamang theo thuốc vừa định đi, kế bị tướng gia phái người bắt Hòa thượngta trói lại. Lúc ta đến tướng phủ, mò kiếm hãy còn mà, bây giờ rờ lạisao đâu mất.
Thừa tướng dặn:
– Bây đâu! Mau ra mò kiếm thuốc cho Hòa thượng!
Bọn gia nhân hỏi:
– Thưa Hòa thượng, thuốc của Ngài là thuốc hoàn hay thuốc miếng? Xin bảo cho bọn tôi biết mới kiếm được.
Tế Điên đáp:
– Nó là thuốc hoàn, có lẫn hột nho nhỏ như gạo, màu da như da đất, cũng không có bao gói chi.
Bọn gia nhân nói:
– Để bọn tôi tìm cho.
Tế Điên nói:
– Thứ bệnh của công tử đây có thể có biến chuyển. Nếu biến chuyển tới mức sọ đầu lớn quá thì không cách gì trị được.
Thừa tướng hỏi:
– Vậy thì làm sao?
Tế Điên nói:
– Tôi phải ăn no rồi mới trị được, nếu không ăn no thì càng gắng trị, bệnh càng chuyển biến, uổng công thôi!
Thừa tướng nghe nói, sợ con cưng bị bệnh biến đầu to thêm, lật đật thét bảogia nhân dọn rượu cho mau. Dọn ba bàn tiệc trên sảnh để mời Hòa thượnglên uống rượu rồi trị bệnh cho công tử.
Lý Hòa Xuân cùng Tế Điênlên đại sảnh. Tới nơi thấy tiệc rượi sẵn sàng, Tế Điên chẳng khiêmnhường chi, đến thẳng ghế giữa đầu bàn ngồi xuống. Thừa tướng thấy vậytrong lòng có ý không vui, thầm nghĩ: “Ông Hòa thượng này cũng là ngườicó chút lai lịch đây, như ta nay là Tể tướng đương triều mà ông vẫnchiếm ghế thượng tọa của ta không nể nang gì hết”. Thừa tướng không cách nào hơn, đành ngồi và bồi tiếp, mời Lý Hoài Xuân ngồi ở ghế phía Đôngvào tiệc.
Rượu quá ba tuần, Tế Điên nói:
– Thưa đại nhân, tiệc rượu này buồn quá, uống không vô.
Thừa tướng hỏi:
– Theo ý Hòa thượng thì phải thế nào, uống rượu mới không buồn tẻ?
Tế Điên nói:
– Chẳng hạn như: Đưa vật đoán, ra tửu lệnh, đối chữ, phê ý chữ, đều có thể giải buồn được.
Thừa tướng hỏi:
– Này Hòa thượng, ông cũng biết chữ sao?
Tế Điên đáp:
– Nói là biết chữ thì không dám, nhưng cũng hơi biên biết một vài.
Thừa tướng hỏi:
– Ông muốn ra tửu lệnh là phạt uống rượu hay ăn thua vật chi?
Tế Điên nói:
– Chẳng cần phạt rượu làm chị Đại nhân cứ ra một câu đối, nếu Hòa thượngta đối được, ta ăn đại nhân một vạn lượng bạc. Bộ đại nhân tưởng ta làmột Hòa thượng nghèo nếu bị thua rồi không có bạc trả sao? Được rồi, nếu ta thua, ta đem lầu Đại Bi ra chung cho đại nhân đó.
Thừa tướng nghe vậy trong bụng khoái tỉ, nói:
– Này Hòa thượng, để ta thử văn lý của ông trước, nếu ông quả có tài học, chúng ta sẽ cùng nhau đánh cuộc nhé. Ta ra hai chữ trước cho ông đốinhé!
Tế Điên nói: Đại nhân cứ ra đi.
Thừa tướng nói: U trai (phòng tối).
Tế Điên đối: Mao lư (nhà tranh).
Thừa tướng gật đầu tiếp: Khai song (mở cửa sổ).
Tế Điên đối ngay: Bế hộ (đóng cửa lớn).
Thừa tướng: Độc thư (đọc sách).
Tế Điên: Tả tự (viết chữ).
Thừa tướng nói: Hòa thượng ơi, ông thua rồi, sáu chữ của ta ráp lại thành một câu như vầy:
U trai khai song độc thư.
(phòng kín (tối) mở cửa đọc sách).
Tế Điên nói: Sáu chữ của ta ráp lại cũng thành một câu vậy. Đây:
Mao lư bế hộ tả tự.
(Nhà tranh đóng cửa lớn viết chữ)
Thực ra, câu nói của Tế Điên lại hàm ý rất thô tục.
Thừa tướng nói: Hòa thượng đừng đùa cợt chứ. Ta sẽ ra cho ông một câu đốitheo pháp chiết tự, nếu ông đối được, ta sẽ thua ông một vạn lượng bạc.
Tế Điên đáp: Cũng được.
Thừa tướng ra:
– Tây tốt thị cá túy, mục thùy thị cá thụy, Lý Thái Bạch hoài bảo tửu đàm tại sơn pha thụy. Bất biểu tha thị túy? Bất biểu tha thị thụy?
(Nghĩa: chữ tây + chữ tốt là chữ túy, chữ mục + chữ thùy là chữ thụy. Lý Bạchôm trong lòng bầu rượu gục bên sườn núi. Không biết đó là ông đang say(túy) hay ông đang ngủ (thụy)?)
Tế điên hớp một hớp rượu, cười khà khà rồi nói:
– Chà, câu đối này hay dữ đa, để Hòa thượng ta đối thử coi:
Nguyệt trường thị cá trướng, nguyệt bán thị cá bạn, Tần phu nhân hoài bảo đạithổ tại mãn viện cuồng. Bất hiểu tha thị trướng, bất hiểu tha thị bạn?
(Nghĩa: Chữ nguyệt + chữ trường là chữ trướng, chữ nguyệt + chữ bán là chữ bạn, Tần phu nhân mang bụng to đi đủng đỉnh khắp nhà. Không biết bà ta sưngbụng (trướng) hay bà ta mập (bạn)?).
Thừa tướng xua tay lia lịa, nói:
– Hòa thượng đừng khôi hài chớ!
Và nghĩ thầm: “Ông Hòa thượng này thật dễ ghét, ta lại ra một câu đối khác để cho ông ta biết Thừa tướng ta là bậc văn chương đầy bụng, thốt lờichâu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Bèn ra:
Phật tổ giải nhung điều, khổn Hòa thượng, khấu điên tăng.
(Nghĩa: Phật tổ mở dải nhung, trói Hòa thượng, đánh điên tăng).
Tế Điên nói:
– Chao ôi, câu đối của Thừa tướng thiệt hay quá. Hòa thượng ta tài sơ học kém…
Thừa tướng nói:
– Ông đối đi, nếu mà đối được ta thua thêm một vạn lượng bạc nữa, còn đối không được ta sẽ dỡ lầu Đại Bi nhé.
Tế Điên đáp: Được.
Hớp một ly rượu rồi nói:
– Câu đối của ta:
Thiên tử đẩu ngọc tỏa, nã đại thần, cầm Thừa tướng
(Nghĩa: Thiên tử giũ dải ấn, bắt đại thần, giam Thừa tướng).
– Ta lại ăn thêm một vạn lượng bạc nữa nhé!
Thừa tướng nghĩ: “Hòa thượng này là bậc kỳ tài, mình đối chữ không thắng ông ta rồi”. Bèn nói:
– Này Hòa thượng, thôi không đối chữ nữa, bây giờ ra tửu lệnh đi.
Tế Điên nói:
– Ra tửu lệnh thì ra tửu lệnh chớ, mà đại nhân đề nghị thì đại nhân ra đi.
Thừa tướng nói:
– Ta muốn nói đến hai người xưa, hai vật kiện, hai người xưa đó thích thứ rượu như nhau, nhằm trên hai sự kiện khác nhau, một người sống mộtngười chết. Ông nói được kể là ăn, còn nói không được kể là thua.
Tế Điên nói: Thì đại nhân nói trước đi.
Thừa tướng nói: Này Hòa thượng, bây giờ ta nói đây, ông nghe cho kỹ đi nhé:
Viễn khán nhứt tòa lâu, cận khán nhứt chích ngâu (ngưu), Lữ Đồng Tân túy ngọa Nhạc Dương lâu, Tôn Tẩn giá quải kỵ ngâu.
(Nghĩa: Nhìn xa một tòa lầu, thấy gần là một con trâu. Lữ Đồng Tân say nằm ở Nhạc Dương lâu, Tôn Tẩn gác tó cưỡi mình trâu).
Tế Điên nói: Ta cũng đọc đây:
Viễn khán nhứt tòa lư, cận khán nhứt vĩ ngư.
(Nghĩa: Nhìn xa một nhà lá, thấy gần một chú cá. Trương Phi đến nhà lá, Kính Đức ngồi câu cá).
Thừa tướng nói:
– Này Hòa thượng, ông thua một vạn lượng bạc rồi đấy nhé! Trương Phi cốlư nghĩa là ba lần chầu nhà tranh, chuyện đó coi như được đi. Chớ cònKính Đức điếu ngư thì cá làm sao lại có chân được?
Tế Điên nói: Vậy chớ giáp ngư (cá ngựa) không phải có bốn chân là gì?
Thừa tướng tịt luôn, lại thua thêm một vạn lượng bạc. Thừa tướng thầm nghĩ:”Thiệt mình không có cách gì thắng được ông ta được”. Bèn bước ra ngoàikêu Tần An bảo:
– Ngươi lấy một hộp bánh tổ đứng bên ngoài chờ ta kêu Hòa thượng đoán. Nếu ông đoán trong hộp không có vật chi thì ngươiđể cái bánh tổ vào. Còn như ông ấy đoán trong hộp có vật thì ngươi đemcái hộp không vào.
Tần An gật đầu. Thừa tướng trở vào bên trong, nói:
– Này Hòa thượng, ta lâu nay nghe nói ông là người đoán được mọi việc,khéo biết các việc quá khứ vị lai. Ta đã bảo gia nhân đem cái hộp ra cho ông đoán xem trong hộp có đồ vật gì không. Nếu ông đoán đúng thì theolệ cũ ta thua ông một vạn lượng bạc nữa, còn như ông đoán sai thì ta cho dỡ lầu Đại Bi của ông đa.
Tế Điên nói:
– Vậy thì chuyến này đại nhân thua gấp rồi.
Thừa tướng nói:
– Ta trái lại không chắc thua gấp đâu mà muốn thử tài ông đó.
Tế Điên nốc một ly rượu, định thần rồi lại nói:
– Chủ ý của đại nhân cao quá, món đồ đem đối cũng thật rắc rối, bây giờ trong hộp không có chi.
Câu thứ ba, Tế Điên cố ý nói dài tiếng ra.
Tần An nghe nói trong hộp không có món chi liền lấy cái bánh để vào. Đi vào được vài bước lại nghe Tế Điên nói:
– Bên trong chỉ để cái bánh.
Tần An nghe nói rất đỗi ngạc nhiên, rốt cuộc lại bị Hòa thượng đoán trúng.
Thừa tướng nghĩ thầm: “Bây giờ cũng khuya rồi, ta cũng không nên tranh đốilàm chi, mà lo trị bệnh cho con ta mới phải”. Nghĩ rồi bèn nói:
– Hòa thượng ơi, ông uống rượu xong chưa, mời dùng cơm để rồi còn đi trị bệnh nữa chớ.
Tế Điên nói:
– Phần ta ăn uống đã khá no rồi. À, à, còn viên thuốc của ta các ngươi đã tìm thấy chưa?
Bọn gia nhân nói:
– Bọn ta bò trên mặt đất, lấy mũi hít cùng hết mà chẳng thấy nó đâu cả.
Tế Điên thò tay vào túi móc ra một gói, nói:
– Ta hãy còn một ít dược liệu mà chưa đủ, phải thêm vào hai vị nữa mới đủ lượng.
Thừa tướng xem thử, bên ngoài viết chữ tháu quá, coi không ra. Mở ra xemthấy bên trong có chất bột trắng trắng. Lý Hoài Xuân ghé mắt nhìn biếtđó là bột mì để ăn, mới hỏi:
– Thưa Hòa thượng, vị thuốc này tên là gì vậy?
Tế Điên đáp: Thuốc này tên là Đa – ma – đa – la – đa – ba – la.
Thừa tướng hỏi: Cần phải thêm vị nào nữa?
Tế Điên đáp: Cần phải có chu sa 1 lượng, bột mì 4 lượng, chậu 1 cái, nước sôi 1 thùng, lại dùng bàn chải 1 cái.
Thừa tướng dặn bọn gia nhân chiếu theo đó lo liệu cho mau. Giây lát, gianhân thưa rằng tất cả các thức cần dùng đều đầy đủ. Tế Điên mới buôngchén đũa xuống, theo Thừa tướng cùng thẳng đến thư trai…