Hình Khang Bình bị giam trong Thiên lao đợi ngày xử trảm, nhưng đột nhiên lại xảy ra chuyện không ai dự liệu được – hắn chết bất đắc kỳ tử ngay trong đại lao. Án này đã nghiêm trọng lại càng nghiêm trọng, liên lụy đến cả các trọng thần của Hình bộ, Lại bộ. Thuần Hữu đế lập tức truyền chỉ, hạ lệnh cho Đại Lý Tự tham gia tra án, hỗ trợ bộ Hình, phải làm cho chân tướng sáng tỏ càng nhanh càng tốt. Sau khi khám nghiệm tử thi mới đưa ra kết luận Hình Khang Bình tử vong là do trúng cực độc, mà thân trong Thiên lao lại có thể trúng độc, mọi nghi ngờ đều dồn về Phủ nha Thuận Thiên.
Đủ loại tra khảo dùng hình, rốt cuộc mới nhận được lời khai – người cho lệnh hạ độc vào thức ăn của Hình Khang Bình chính là Phó soái Uông Hoằng.
Điều tra theo những mối liên hệ của Uông Hoằng, quả thực tra ra được vài người thân tín ở Hình bộ. Uông Hoằng là người của Đông Cung, theo lý theo tình mà nói, hạ độc Hình Khang Bình là chuyện không hề hợp lẽ, nhưng từ quản ngục tới thân tín của hắn ở Hình bộ đều một mực khăng khăng, chỉ mũi kiếm về phía Uông Hoằng. Vụ án này còn nhiều uẩn khúc, nhưng vì lời khai thống nhất nên cứ như vậy mà khép lại. Uông Hoằng bị phế chức Phó soái, tống giam Thiên lao, chờ Hoàng đế ban chỉ. Mà hắn thân là võ tướng dưới trướng Đông Cung đã lâu, xem ra là một người trung thành, nay nhất quyết không để bản thân mình trở thành điểm yếu của Đông Cung mà khiến cho người khác thao túng công kích chủ tử.
Phó soái Uông Hoằng tự sát ngay trong Thiên lao, đến khi phát hiện chỉ thấy một chiếc đũa xuyên ngang qua yết hầu.
Thái Tử trong nửa năm đã mất đi hai trung thần thân tín, trở nên phẫn nộ đến không kiểm soát được. Đông Cung đốc thúc Ngự sử ngồi đợi qua đêm để thượng tấu lên Hoàng đế, buộc tội Hình bộ Thượng thư Hồ Lai Ngạn từ khi nhậm chức tới nay lạm dụng chức quyền, cổ súy nhục hình, không tròn chức trách chỉ quản mưu lợi cá nhân. Nhưng Lỗ Vương cũng không phải là người dễ đối phó, ngay thời điểm Đông Cung khốn đốn mà lại án binh bất động, đến bản thân Hồ Lai Ngạn cũng không ngại, ngang nhiên trần tình trên tiền triều. Hắn nói, Hình Khang Bình vì tư thù mà chết thảm trong Thiên lao Hình bộ, bản thân là Hình bộ Thượng thư cũng đành ngậm đắng nuối cay, nhưng thiết nghĩ cũng là vì sơ sẩy, cho nên mong bệ hạ giáng tội.
Ngòi bút trong tấu chương của Ngự sử đanh thép sắc sảo, chứng cứ rõ ràng, Hoàng đế không thể làm ngơ. Trách mắng một buổi, rồi cắt đi nửa năm bổng lộc, vậy là coi như xong. Đông Cung dù chưa hả giận cũng chỉ còn có thể ngậm bồ hòn làm ngọt, bên ngoài nhìn vào thấy án binh bất động, bên trong thực ra đang âm thầm cùng cố, lôi kéo phục binh. Mà cái chết của Hình Khang Bình trở thành dấu chấm hết cho án Thất Phượng lâu, chưa được bao lâu cái chết của Uông Hoằng đã lại là tảng đá chắn trước cái chết đột ngột của Hình Khang Bình, cả vụ việc lớn như thế có tra cũng không còn thấy đường, đành khép lại ở đó mà thôi.
——
Đêm buông, cung thành lên đèn.
Từ khi Thái Tổ Hoàng đế lập triều nổi dậy lật đổ tiền triều thối nát cho đến nay, các đời quân vương đều đề cao tính chuyên cần chính sự, đức độ cần kiệm không hoang phí. Trừ Cao Tông bị gian thần ngoại thích biến thành Trữ quân hữu danh vô thực, tất cả các đời tử tôn ai nấy cũng đều chuyên chính.
Trong Đăng Hoa điện, cung nữ nội thị tiến lui ra vào hai ba lần, Thuần Hữu đế vẫn ngồi bên án kỷ phê duyệt tấu chương.
Ngự tiền Tổng quản Lý Thuận Đức lấm lét quan sát biểu tình của Hoàng đế, vừa nghĩ nên dùng lời lẽ thế nào khuyên bảo chủ thượng nên tạm thời dừng bút. Cũng vừa lúc có nội thị vào thông truyền Nghi Dương công chúa cầu kiến, Hoàng đế nghe thế, chân mày vẫn luôn nhíu chặt rốt cuộc cũng có thể giãn ra.
“Bệ hạ, vậy nô tài cho Thượng Thiện giám dâng chút điểm tâm lên, cho ngài và Công chúa điện hạ vừa nói chuyện vừa thưởng thức.”
Lý Thuận Đức lui xuống, không bao lâu sau nội thị của Thượng Thiện giám đã mang lên hai đĩa điểm tâm cùng một chung trà. Bước chân tới trước cửa, ánh sáng từ đèn nến trong điện đã soi rõ gương mặt của nội thị kia. Nhìn kỹ, thì ra là Lý An.
Trước khi tiến cung, Lý An có xuất thân bần nông, sau khi Tân đế đăng cơ hết thảy cung nga nội thị trong cung đều bị thay đổi. Triều đình phái người ở các châu phủ tuyển chọn các nam tử tự nguyện nhập cung, cả nhà sẽ được miễn thuế, giảm lao dịch. Gia cảnh Lý An khó khăn mà miệng ăn đông đúc, gia phụ vừa nghe tin ấy liền đưa hai đứa con út lên phủ doãn ứng tuyển.
Kết quả, sau khi tịnh thân, thân huynh của Lý An phát bệnh nhiễm trùng mà chết, trong khi ấy bản thân Lý An hắn lại an lành không xảy ra chút chuyện ngoài ý muốn nào. Miệng lưỡi được mấy phần trơn tru lanh lợi, dễ có bề tiến thân, chỉ mấy tháng sau hắn đã vào cung. Có thể là số phận vốn đã may mắn, tình cờ lại có cơ hội hạnh ngộ đồng hương, chính là Ngự tiền Tổng quản Lý Thuận Đức. Lý Thuận Đức đã hầu qua hai đời vua, đến đời Thuần Hữu đế vẫn còn được trọng dụng, đương nhiên Lý An hiểu được người này cũng có thể giúp hắn có được tiền đồ rộng mở. Mà bản thân hắn cũng không phải loại người cam lòng làm trâu ngựa cả đời, cho nên từ trước tới nay đều hết lòng uốn lưng quỳ gối trước Lý Thuận Đức, không từ thủ đoạn để lấy lòng. Lý Thuận Đức cũng cảm thấy tên này là người có chút cơ trí, có nhiều tham vọng, lại có gan dùng thủ đoạn, cho nên thu làm đồ đệ, ban danh Lý An.
——
“Ta đã nói với ngươi không biết bao nhiêu lần rồi, khi làm việc phải biết nặng nhẹ tiến lui. Ngươi cầu tiến là chuyện tốt, nhưng ngươi như thế là mất cả chỉ lẫn chài! Trong cung này không biết có bao nhiêu người đang đợi ngươi ngã ngựa để mà cười vào mặt ta.” Lý Thuận Đức vỗ vỗ gương mặt mình, khiến Lý An lúc này đang quỳ trên đất đấm bóp cho hắn phải lồm cồm bò dậy, rút khăn lụa ra lau mặt cho hắn.
“Nhưng không phải ngài vẫn thường nói phải xem xét thời thế, thuận nước đẩy thuyền đấy sao? Bệ hạ nếu đã ưa thích vị trong Bích Vân tự kia như thế, đồ nhi nói lời ấy sao lại không lọt tai chứ?”
Lý Thuận Đức lạnh mặt liếc hắn một cái, đẩy bàn tay hắn ra: “Ngươi cũng đã hiểu vị trong Bích Vân tự kia có thân phận thế nào. Vị ấy tuy nương nhờ cửa Phật nhưng phong hào vẫn còn đó, theo bối phận thì Bệ hạ phải gọi một tiếng hoàng tẩu. Đã nhiều năm qua Hậu vị bị bỏ trống, Đô Sát viện và Lễ bộ đã dâng không ít tấu chương mong lập phi phong Hậu mà Bệ hạ vẫn lờ đi. Vị kia mang bệnh trong người, cái ý niệm kia của Bệ hạ lại đi ngược luân thường đạo lý. Mà ngươi, ngươi đã ăn gan hùm mật gấu gì lại còn dám mở miệng xúi chủ tử tới Bích Vân tự? Mà chủ tử của chúng ta là dạng người thế nào? Không nói đa nghi, còn nhớ năm đó Ý Từ hoàng hậu không cẩn thận té ngã, đến thể diện đế vương Bệ hạ cũng không quan tâm, nhất định xông vào chùa khiến cho vị kia còn đến nước tự chặt một ngón tay thề không ra khỏi chùa nửa bước. Hiện tại dù có gặp lại thì cũng phải là vị kia ra khỏi chùa mà tới cúi đầu trước Bệ hạ, có phải hay không?”
Bị dạy dỗ một hồi, Lý An rốt cuộc cũng hiểu được, vừa hối hận vừa nghĩ cách vãn hồi. Lý Thuận Đức đương nhiên nhìn ra suy nghĩ trong lòng hắn, lại nghĩ hắn cũng không phải dạng ngu dốt, cho nên vẫn cảnh giác, chỉ nói đến đây mà thôi. Đứng dậy phủi phủi ống tay áo, khẽ cười: “Có điều ngươi cũng không cần quá lo lắng. Bệ hạ chuyển ngươi tới Thượng Thiện giám chính là ban cho ngươi một cơ hội, tiện quan sát biểu hiện của ngươi. Vẫn là nên làm cho tốt chuyện của mình thì hơn.”
Lúc này Lý An đứng sau Lý Thuận Đức vài bước chân, hai tay đan nhau để trước người, một bộ dáng ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe.
“Không nói đâu xa, lấy ví dụ ngay trước mắt cho ngươi thấy.” Lý Thuận Đức dõi mắt nhìn ra đại môn màu son đang đóng chặt, bóng của nội thị và cung nữ đi đi lại lại ngoài kia đổ lên nền gạch xám, hòa vào ánh đèn đuốc nội cung. Hắn đè thấp giọng nói, nhưng từng chữ từng chữ vẫn lọt vào tai Lý An:
“Nhớ năm đó chủ thượng còn đang là một thân vương, Tề Vương đất Tề Châu. Tề Vương gia vì ôm chấp niệm với Ý Từ hoàng hậu mà không chịu lập Vương phi, không chịu nạp trắc thiếp, đây là chuyện hầu như ai cũng biết. Đức Tông hoàng đế vô cùng khó xử, ngài bị kẹt ở giữa hai nhi tử, sao có thể không khó xử? Sau đó Vương phủ tuyển thêm một đám thị nữ, có một nàng kia, số phận được quý nhân nâng đỡ, run rủi thế nào mà lại có dung mạo giống Ý Từ hoàng hậu mấy phần, lúc đó đang ở hậu viện vẩy nước quét sân thì vừa lúc chủ thượng đi qua hành lang nhìn thấy, sau khi nói mấy câu liền lệnh cho Chiêm Sự phủ viết tấu trình lên. Khi ấy tuy rằng Tiên đế đã lên ngôi, nhưng Đức Tông hoàng đế vẫn tham mưu triều chính, mọi việc lớn nhỏ đều đến tai lão nhân gia cả. Đức Tông hoàng đế đương nhiên là chẳng còn suy xét xem nữ tử kia là người ra sao, xuất thân như thế nào, chỉ biết vui mừng vì cuối cùng chủ thượng cũng đã thông suốt. Vui mừng đến mức ngài khỏi bệnh, tự mình xuống giường viết chiếu tứ hôn, phong nàng kia làm Vương phi! Đây há phải là một ví dụ thế nào là gà lên đầu cành làm phượng hoàng đó sao?”
Lý Thuận Đức nói đến câu cuối, mặt mày cũng hớn hở. Nhưng Lý An nghe vào lại nhăn mày khó xử, không nhịn được mà thốt lên: “Sư phụ, vậy như Anh Tông hoàng đế sủng nam sắc…” Vừa nói xong đã bị Lý Thuận Đức liếc một cái, quát lớn làm cho hắn rụt đầu cúi mặt.
“Chỉ là một ví dụ mà thôi, ngươi theo ta mà không biết thế nào là nói một hiểu mười ư?”
Tiếng chuông đồng vang lên, báo đêm đã khuya rồi. Lý Thuận Đức ra cửa nhìn sắc trời, có chút kinh ngạc không ngờ lần này Nghi Dương công chúa và Bệ hạ lại tán ngẫu lâu đến như thế. Lại nghĩ, không biết tân ngẫu chuyện gì mà tới giờ vẫn chưa kết thúc?
Quay đầu nhìn bộ dáng lấm lét rụt rè của Lý An, Lý Thuận Đức đang tức giận cũng cảm thấy nực cười: “Thôi đi, không cần phải khúm núm! Hôm nay Bệ hạ triệu mấy vị đại thần vào nghị sự, từ đầu đến cuối đều ổn thỏa tốt đẹp, tâm trạng ta cũng không đến nỗi. Nhân đây cũng muốn nói cho ngươi nghe vài chuyện, còn cả chuyện về Thượng Thiện giám…”
“Tiên đế và Ý Từ hoàng hậu có một vị Thái tử, hai vị công chúa. Trưởng công chúa, tức Vĩnh Gia điện hạ đấy, là người được sủng ái nhất, chỉ là không biết vì lí do gì mà một năm kia… phải rồi, chính là năm sau khi công chúa mọc răng sữa, năm ấy nàng đổ bệnh nặng. Bị bệnh nặng, cứ uống thuốc vào thì liền trớ ra. Từ Thái Y viện đến Nội Các gấp đến độ nghĩ ra đủ cách mà cách nào cũng vô ích. Vậy mà có một vị ngự trù ở Thượng Thiện giám lại nghĩ ra cách kết hợp đông y với thức ăn, làm riêng ra một loại bánh mà công chúa thích, vậy là qua mấy ngày điều trị là khỏi bệnh. Tiên đế vui mừng vô cùng, phá lệ thưởng lớn cho vị ngự trù kia, ban cả đất lập phủ đệ.”
Lý An giật mình, lại trách bản thân đã còn không biết người ấy là vị nào ở Thượng Thiện giám, liền hỏi ngay: “Sư phụ, vậy vị ngự trù kia tên là gì, hiện tại có còn trong cung hay không?”
Tĩnh lặng kéo dài, một hồi sau Lý Thuận Đức mới thở dài, con ngươi mờ đục toát ra vài phần thương cảm tiếc nuối: “Không còn nữa, đã chết rồi. Mười hai năm trước, khi biết được Tiên đế bệ hạ đã băng hà, ông ấy cũng treo cổ tuẫn táng.” Hắn cất bước đi về phía cửa đang khép hờ, khóe môi câu ra một mạt cười mà ánh mắt âm u không rõ, “Chính là sư phụ của ngươi đây liệm y quan rồi hạ táng.”
Đôi tay đầy nếp nhăn và những vết chai bám vào cánh cửa, chậm rãi mở cảnh cửa khép hờ ra. Hai tiếng kẽo kẹt vang lên, theo đó là luồng gió mát lạnh từ ngoài tràn vào phòng.
“Nhìn xem, trời mưa rồi.”
Lý Thuận Đức bước chân ra cửa, ngẩng đầu nhìn màn mưa phủ khắp cung thành, nghe tiếng những hạt mưa sa gõ lên lớp mái ngói trùng trùng điệp điệp. Hắn chắp tay sau lưng, đôi mắt khép lại. Tấm lưng năm xưa vẫn thường cõng các vương tử công chúa nhà Đế vương dạo quanh Đại Nội, ngày hôm nay nhìn kĩ mới thấy đã không còn thẳng như xưa.