Mấy tuần trước, tôi có một chuyến du lịch ngắn ngày tới vùng ven biển Chiết Giang và đã trải qua một việc hết sức kì lạ. Những độc giả tò mò cứ truy hỏi tôi đã đi đâu, bây giờ, tôi sẽ nói với các bạn – đó là một nơi tên là Hoang thôn.
Mọi thứ đều bắt đầu từ cuốn “Quán trọ u hồn” của tôi gần đây mà ra, giống cái tên của nó, câu chuyện trong cuốn tiểu thuyết kinh dị này xảy ra tại một nơi gọi là quán trọ u hồn, quán trọ u hồn chính là tại Hoang thôn – một sơn thôn nhỏ của Chiết Giang, tọa lạc giữa biển và nghĩa trang, do một mặt hướng về phía biển hoang sơ, nên nó có tên gọi là Hoang thôn. Trên thực tế, tôi chưa từng tới Hoang thôn, bởi vì địa danh này đơn thuần chỉ là do tôi hư cấu nên để tạo nên một địa danh độc đáo cung cấp cho tiểu thuyết. Tôi nghĩ nếu như không phải do lần kí tên bán sách đó, thì có lẽ Hoang thôn vĩnh viễn chỉ có thể tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi mà thôi.
Kí tên bán sách “Quán trọ u hồn” được tiến hành trong một hiệu sách tại ga tàu điện ngầm. Không hiểu vì lí do gì, họ lại bố trí thời gian kí tên bán sách sau bảy giờ tối. Tối đó tôi ngồi sau chiếc bàn đặt gần cửa ra vào hiệu sách, hoạt động kí tên bán sách tiến hành trong khoảng hai tiếng đồng hồ, kết quả rất khả quan.
Đúng chín giờ là hiệu sách đóng cửa, người qua lại trong tiền sảnh nhà ga cũng dần thưa thớt, tôi ngồi một mình bên bàn kí sách, cúi đầu sắp xếp đồ đạc chuẩn bị ra về.
Bỗng nhiên, bên tai truyền lại tiếng bước chân nhẹ nhàng, tôi lập tức ngẩng đầu lên thì nhìn thấy một cô gái trẻ đang đứng trước mặt mình. Cô ấy mặc một chiếc áo len rộng thùng thình, không hề vừa vặn với cơ thể, vạt áo gần như chạm tới cả đầu gối, sau lưng khoác chiếc cặp giả da giá rẻ, mái tóc đen dài được chải đuôi ngựa, xem dáng vẻ giống một nữ sinh đại học.
Cô ấy cụp mi xuống, hai tay cầm cuốn “Quán trọ u hồn” của tôi, không nói lấy một lời đặt cuốn sách lên bàn kí tên. Lúc đó tôi có chút ngỡ ngàng, đêm đông rét mướt cắt da cắt thịt của Thượng Hải, điều hòa nhiệt độ cùa hiệu sách bị hỏng đang khiến tôi rét run cầm cập. Cô ấy chính là độc giả cuối cùng kí tên trong buổi tối hôm đó nhưng sắc mặt lại vô cảm, không nói lấy một lời, giống như đang quẳng sách cho nhân viên thu ngân vậy. Tôi ngừng lại hồi lâu, ngẩng đầu tỉ mỉ nhìn cô ấy, đó là một khuôn mặt thanh tú, khiến thu hút người đối diện, thậm chí còn khiến người ta nảy sinh cảm giác thương cảm. Tôi lật trang đầu tiên của cuốn sách, nhìn vào mắt cô ấy hỏi: “Xin hỏi tên của cô?”
Cô ấy hơi ngỡ ngàng, mí mắt lại cụp xuống, trả lời bằng giọng nhỏ nhẹ: “Tiểu Chi.”
“Tiểu Chi?” Thật kì lạ, tôi lập tức nghĩ tới tên của một chiếc sáo. “Là Tiểu Chi trong từ tiểu đại, Chi trong từ chi cảnh ư?”
Cô ấy không nói gì, chỉ gật gật đầu.
Tôi chau mày, viết lên trang đầu dòng chữ “Tiểu Chi gìn giữ,” sau đó kí tên. Tôi trao sách vào tay cô ấy nói: “Cảm ơn cô, muộn thế này rồi mà còn tới mua sách của tôi.”
Cô ấy rốt cuộc mở to mắt nhìn tôi, hình như muốn nói điều gì đó, môi mấp máy nhưng không thốt nên lời. Tôi nhướn nhướn lông mày, ám thị để cô ấy trấn tĩnh lại. Cuối cùng, cô ấy hít một hơi thật sâu nói: “Tôi đến từ Hoang thôn.”
Ban đầu, tôi vẫn chưa hiểu ra nhưng cô ấy cứ nhìn tôi chằm chằm như vậy cho tới khi sắc mặt tôi có chút biến đổi – Hoang thôn? Trong đầu tôi rốt cuộc đã lướt qua cái địa danh trong chính tiểu thuyết của mình. Tôi kì quái nhìn cô gái tên là Tiểu Chi đang đứng trước mặt mình, lẽ nào cô ấy từ trong tiểu thuyết của tôi bước ra?
Đối diện với ánh mắt sắc nhọn của tôi, cô ấy lại cúi đầu, miệng lẩm bẩm thốt ra vài từ gì đó nghe không rõ, hình như là nói “Xin lỗi.” Cô ấy cầm quyển sách bước tới trước quầy thu ngân trả tiền rồi vội vàng đi khỏi hiệu sách.
Hoang thôn? Tim tôi dường như bị cái gì đó tóm lấy, lập tức xoáy chân lao ra khỏi hiệu sách, trước khi tiến vào cửa soát vé một giây, rốt cuộc cũng gọi được cô ấy dừng lại. Cô ấy hơi giật mình, bối rối quay đầu lại: “Xin lỗi, có việc gì không?”
Thực ra tôi còn bối rối hơn cô ấy, căng thẳng xoa tay nói: “Tôi có thể… có thể mời cô uống cốc trà không?”
Cô ấy đắn đo một lúc: “Được thôi, tôi cho anh mười phút.”
Ba phút sau, tôi đưa cô ấy vào một quán trà phía trên ga tàu điện ngầm. Cô ấy ngồi đối diện với tôi, vẫn không nói lấy một lời, chỉ cúi đầu nhâm nhi trà. Tôi nhìn nhìn đồng hồ, thời gian cô ấy dành cho tôi không còn nhiều nữa rồi, tôi ho một tiếng nói: “Xin lỗi, cô nói… cô đến từ Hoang thôn?”
Tiểu Chi rốt cuộc đã ngẩng đầu lên, nhìn vào mắt tôi, cầm gật nhẹ.
“Hoang thôn ở đâu”
“Tại thị trấn Tây Lãnh của thành phố K tỉnh Chiết Giang. Giống như trong tiểu thuyết của anh viết vậy, Hoang thôn tọa lạc giữa biển và nghĩa trang.”
Nhìn đôi mắt đen láy như ngọc thạch của cô ấy, tôi tin cô ấy không nói dối: “Cô nói là Hoang thôn thực sự tồn tại sao?”
“Đương nhiên, Hoang thôn đã tồn tại mấy trăm năm nay rồi. Tôi sinh ra ở Hoang thôn, lớn lên ở Hoang thôn, tôi chính là một người dân Hoang thôn.” Cô ấy lảng tránh ánh mắt tôi, nhẹ nhàng nói: “Tôi nghĩ anh nhất định chưa từng tới thị trấn Tây Lãnh, càng không thể tới Hoang thôn?”
Tôi bỗng nhiên có chút bối rối: “Đúng, tôi chỉ nhìn thấy thị trấn Tây Lãnh trên bản đồ, còn về Hoang thôn thì hoàn toàn là do tôi tưởng tượng ra, tôi thấy cái tên này rất phù hợp với không khí mà tiểu thuyết cần. Tôi không ngờ rằng Hoang thôn thực sự tồn tại, lại còn có cả một người Hoang thôn đến xin chữ kí, cảm ơn cô nói với tôi những điều này.”
“Thực ra, hôm nay tôi chỉ tình cờ đi qua đây, chuẩn bị ngồi tàu điện ngầm về trường thì nhìn thấy quảng cáo trước cửa hiệu sách. Mấy hôm trước tôi có xem qua cuốn truyện này của anh, nó đã để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc, thế nên tôi vào mua một quyển xin chữ kí của anh.”
“Nói như vậy thì trùng hợp rồi. Tôi cũng rất trùng hợp khi viết về Hoang thôn tồn tại trong hiện thực vào tiểu thuyết, còn cô là một người dân Hoang thôn lại rất trùng hợp gặp tôi trong hiệu sách dưới ga tàu điện ngầm.”
Tiểu Chi khẽ gật đầu.
Tôi tiếp tục hỏi: “Ban nãy cô vừa nói muốn ngồi tàu điện ngầm về trường? Cô học đại học ở Thượng Hải sao?”
“Đúng, năm nay năm thứ hai.”
Bỗng nhiên, tôi giơ cổ tay nhìn đồng hồ nói: “Thời gian cô cho tôi hết rồi.”
“Ngại quá, ngày mai tôi còn phải thi nên phải về trường sớm.”
Cô ấy vội vàng đứng dậy, vẫn cứ cúi đầu bước ra ngoài. Đúng lúc này, lòng tôi đã ra một quyết định quan trọng, tôi lập tức chạy lên gọi cô ấy lại: “Tiểu Chi, cô thi xong thì trường cũng nghỉ đông đúng không?”
“Đúng, đợi tới khi nghỉ đông tôi sẽ về nhà.”
“Về Hoang thôn?”
Tiểu Chi hình như có chút sợ hãi: “Đương nhiên.”
“Tôi cũng muốn đến Hoang thôn.”
“Cái gì?” Cô ấy hiển nhiên chưa chuẩn bị trước tâm lí, chỉ hoang mang lắc đầu nói: “Không thể được… cái này không thể được… xin đừng đùa cợt như thế.”
“Tôi không đùa cợt, đã quyết định rồi. Tôi chỉ muốn đến xem cái nơi đã xuất hiện trong tiểu thuyết của tôi, chắc là rất có ý nghĩa. Cô nói Hoang thôn giống hệt như trong tiểu thuyết viết, nằm giữa biển và nghĩa trang. Đã trùng hợp vậy rồi, thì số tôi nhất định có duyên với Hoang thôn. Tiểu Chi, cô chỉ cần dẫn đường cho tôi là được rồi.”
Cô ấy nhìn vào mắt tôi, nhíu mày lùi lại một bước, tôi chỉ cảm thấy trên người cô ấy toát lên chút sợ hãi. Cô ấy bắt đầu thở dốc: “Không, tôi không biết…”
Tôi cười bối rối nói: “Dĩ nhiên, chúng ta chẳng qua là hai người không quen biết gặp nhau, cô đương nhiên có thể nói không với tôi. Như thế này vậy, tôi đưa danh thiếp cho cô, nếu như cô đồng ý đưa tôi tới Hoang thôn thì gọi điện cho tôi.”
Nói xong, tôi tự mình nhét danh thiếp vào tay Tiểu Chi, cô ấy tay chân cuống quýt, quay đầu đi giống như con thú nhỏ trốn chạy người thợ săn, vội vàng chạy khỏi quán trà. Tôi chậm rãi theo sau, nhìn cô ấy mất hút nơi góc phố Thượng Hải lạnh giá.
Cô ấy đến từ Hoang thôn.
– 2 –
Hai tuần qua đi, Tiểu Chi vẫn không liên lạc với tôi, tôi nghĩ cô ấy có thể là đã về Hoang thôn rồi, có thể Hoang thôn vốn không tồn tại, chẳng qua là cô ấy đùa cợt mình mà thôi? Tôi gần như đã quên mất việc này, quên cả cô gái tên là Tiểu Chi.
Nhưng vào một buổi sáng sớm, chuông điện thoại đột ngột vang lên, tôi mắt mũi nhập nhèm nghe điện thoại, nghe thấy giọng con gái nhỏ nhẹ… Sau vài giây bất ngờ, mắt tôi bỗng nhiên mở to, là cô ấy?
Là cô ấy. Sáng sớm, Tiểu Chi bỗng nhiên gọi điện thoại cho tôi, vẫn là ngữ khí và giọng nói đó: cô ấy đồng ý đề nghị của tôi, có thể đưa tôi tới Hoang thôn, sáng mai gặp nhau tại bến xe khách liên tỉnh.
Sáng sớm hôm sau, tôi tới bến xe khách đúng giờ. Đang là thời kì cao điểm, tôi chen chúc trong đám người hồi lâu mãi mới phát hiện ra Tiểu Chi. Tôi vẫy vẫy tay về phía cô ấy, biểu hiện của cô ấy có chút ngạc nhiên, miễn cưỡng gật đầu.
Nửa tiếng sau, tôi và Tiểu Chi bước lên một chiếc xe khách liên tỉnh, trạm cuối cùng là thị trấn Tây Lãnh thành phố K. Cô ấy ngồi ở ghế cạnh cửa sổ, trên người mặc một chiếc áo khoác dày cộm, cổ quấn khăn che cả cằm và hai má. Xe buýt ra khỏi thành phố, những máng ruộng vườn vàng đậm hai bên đường cao tốc Lô Hàng, cảnh sắc dần dần trở nên đơn điệu, chuyến đi ủ ê đó còn phài kéo dài bảy tiếng đồng hồ. Tôi càng lúc càng cảm thấy bối rối, Tiểu Chi từ lúc lên xe không nói lấy một câu, dường như nhìn mà coi như không thấy sự tồn tại của tôi. Hình như bên cạnh cô ấy, có một lan can tạo thành từ không khí, giam cầm nhốt chặt cô ấy bên trong, nếu như bước qua thì sẽ là vực sâu thẳm.
Xe khách sau khi tiến vào địa phận Chiết Giang, tôi rốt cuộc không nhịn được nữa bèn nói: “Tại sao không nói chuyện?”
Tiểu Chi rốt cuộc né người sang một bên: “Anh muốn tôi nói gì?”
“Tùy ý cô. Lẽ nào cô sợ đưa tôi tới Hoang thôn? Tự nhiên thấy hối hận?” Tôi nhìn thẳng vào mắt cô ấy, cúi đầu nói: “Nếu như cô bảo hối hận, tôi sẽ xuống ngay ở trạm tới và quay lại Thượng Hải.”
Cô ấy kéo khăn quàng cổ xuống, rầu rĩ nói: “Không, tôi không hối hận, chẳng qua là chẳng biết nên nói gì cả.”
“Nói về Hoang thôn đi.”
“Chỉ là một thôn nhỏ bình thường, một bên là biển, một bên là nghĩa trang.”
“Ngoài ra thì sao?” Tôi nhìn vào mắt Tiểu Chi hỏi. Nhưng cô ấy luôn lảng tránh ánh mắt của tôi, tôi có thể phát giác ra trong ánh mắt cô ấy đang ẩn chứa thứ gì đó khiến người ta khủng hoảng và cô ấy đang cố gắng hết sức không để tôi phát hiện ra điều đó. Còn nhiệm vụ của tôi chính là phải moi móc những thứ này ra từ ánh mắt cô ấy, giống như một hoạt động khảo cổ thần bí. “Hình như cô từng nói, Hoang thôn đã tồn tại mấy trăm năm rồi?”
“Theo như cha tôi nói, tổ tiên của người Hoang thôn đến từ trung nguyên, sau biến cố Tĩnh Khang triều Tống, họ đã theo Tống Cao Tông – Tống Triệu Cấu chạy tới Chiết Giang. Bởi vậy những nạn dân từ nơi khác xa xôi tới, chỉ có thể định cư trên bờ biển hoang sơ này.”
“Thế tính ra cũng được mấy trăm năm rồi.”
Lúc này, Tiểu Chi lặng lẽ quay đầu lại, ánh nắng ngày đông xuyên thấu qua cửa sổ soi đèn lên khuôn mặt cô ấy, giống như một lớp mạ vàng lên gương mặt. Cảnh sắc đơn điệu bên ngoài tôn lên khiến khuôn mặt Tiểu Chi càng trở nên sống động…
Ba giờ chiều, đã tới thị trấn Tây Lãnh. Xung quanh thị trấn là những dãy núi miên man, giống hệt như những thị trấn nhỏ ven biển khác ở Chiết Giang, chỗ nào cũng có những người buôn bán nhỏ. Hình như Tiểu Chi không thích thị trấn Tây Lãnh, chiếc khăn quàng cổ của cô ấy che gần kín cả khuôn mặt. Chúng tôi xuyên qua bến xe, đáp lên một chiếc xe buýt nhỏ cũ nát, nó sẽ đưa chúng tôi tới Hoang thôn.
Xe buýt đi trên công lộ giữa làng quê, hai bên đường là những thửa ruộng và rừng cây mùa đông, tất cả đều toát lên vẻ sát khí. Theo đường núi lên dốc, cảnh sắc xung quanh càng lúc càng tiêu điều, ngoài những phiến đá lộ thiên, là những bụi cây thấp lè tè đang không ngừng run rẩy trong gió rét. Tôi không rời mắt khỏi phía cửa sổ, so với sự phồn hoa của thị trấn Tây Lãnh, ở đây giống như một thế giới khác vậy.
Khi chiếc xe buýt khó khăn leo lên dốc núi cao, tôi bỗng khẽ reo lên: “Biển!”
Tôi đã nhìn thấy biển ở phía xa rồi – biển đen. Tôi đã rất nhiều lần nhìn thấy biển, nhưng ở nơi hoang vắng này, biển cho người ta một cảm giác hoàn toàn khác lạ. Khó mà có thể hình dung bằng lời, dưới bóng mây đen trong ánh hoàng hôn, đường mặt biển phía xa xăm mờ ảo giống một bức tranh sơn dầu u uất.
“Tiểu Chi, cô đã đọc cuốn ‘Quán trọ Jamaica’ chưa? Thật kì lạ, tôi mới chỉ đi qua một ngọn núi mà lại giống như từ Chiết Giang của Trung Quốc đến bờ biển Tây Nam hoang vắng của nước Anh.”
“Lúc học cấp ba tôi có đọc qua, thế nên mới thích tiểu thuyết do anh viết.”
Nghe xong câu này của cô ấy, trong bụng tôi không khỏi thầm đắc ý.
Sau hơn chục phút lắc lư nghiêng ngả, trước mắt tôi bỗng chốc rộng mở thênh thang, một bia đá khổng lồ xuất hiện – Hoang thôn tới rồi.
Tôi giúp Tiểu Chi xách hành lí xuống xe, ngửa mặt chiêm ngưỡng tấm bia đá khiến người ta nhìn là đã thấy sợ hãi. Tấm bia đá ít nhất cũng cao mười mấy mét, khắc rất nhiều những hình thù phức tạp, ở chính giữa tấm bia có bốn chữ to thế chữ Khải – “Trinh Liệt Âm Dương.”
Không biết bốn chữ này có nghĩa gì, nhưng đặt lên tấm bia đá to lớn này lại làm người ta sợ hãi rúm ró. Trời đã sẩm tối, bóng của tấm bia đá đổ lên người khiến tôi sững sờ.
Tiểu Chi thò tay chọc chọc vào người tôi: “Anh sao thế?”
“Không thể tin được tôi lại có thể nhìn thấy tấm bia đá to nhường này ở Hoang thôn!”
“Đây là tấm bia tiết hạnh được hoàng đế ngự giá ban tặng. Mấy trăm năm trước, vào những năm Gia Tĩnh triều Minh, Hoang thôn có một vị tiến sĩ làm quan lớn ở triều đình, để biểu dương mẹ của ông ấy. Hoàng đế đã ngự giá ban tặng tấm bia tiết hạnh này.” Một cơn gió biển ào tới, Tiểu Chi lại cuốn khăn chặt thêm. “Đừng xem nữa, nhanh vào trong thôn thôi.”
Tôi nhận biết phương hướng trước đã, phía đông là một bãi đá và vách núi, có thể nhìn thấy biển đen hung dữ, trên bề mặt biển ngưng đọng một tầng mây khói dày cộm. Còn phía bên kia lại miên man những dãy núi hoang vu. Và đằng sau tấm bia tiết hạnh, chính là Hoang thôn mà tôi kiếm tìm trong giấc mơ.
Xuyên qua tấm bia đá cao to đó, chỉ nhìn thấy những ngôi nhà ngói cổ kính và lác đác những ngôi nhà kiểu Tây mái tre điểm xuyết, sắc biển trời u ám soi rọi lên những mái ngói làm cả thôn xóm tăng thêm phần lạnh lẽo. Tôi thở dài một tiếng: “Bây giờ tôi đã hiểu tại sao lại gọi là Hoang thôn rồi.”
Tiểu Chi đưa tôi tới một con ngõ nhỏ hẹp trong thôn, hai bên đều là những ngôi nhà cổ, hầu như không thấy bóng dáng người nào cả. Cô ấy cúi đầu bước đi, dường như đem cả sự xa lạ bước vào trong thôn. Tôi bắt đầu thấp thỏm không yên, khẽ hỏi: “Hoang thôn không có khách sạn sao?”
Cô ấy kéo khăn xuống: “Anh cho rằng ở đây có khách sạn sao? Hoang thôn từ trước tới nay đều rất khép kín, đã mấy năm nay không có người từ nơi khác tới rồi.”
Tôi ngớ người ra một lúc: “Thế tôi ở đâu?”
“Thì ở đây.”
Tiểu Chi thản nhiên nói, chỉ vào cánh cổng to bên cạnh.
Đây là một ngôi nhà cổ, hai bên cổng là bức tường vây cao sừng sững, cánh cổng to loang lổ đóng kín mít, trên hai tấm gỗ có một chiếc vòng đồng to. Tôi lùi lại nửa bước, mượn ánh sáng hoàng hôn để nhìn lên ba chữ khắc trên đố cửa cao to: “Tiến Sĩ Đệ.”
Khi tôi vẫn chưa kịp phản ứng lại, Tiểu Chi đã đẩy cánh cổng màu đen. Ngưỡng cửa cao tới mấy chục mét, cô ấy bước một bước rộng tiến vào, quay đầu lại nói: “Vào đi.”
Đối diện với cánh cổng cao to của “Tiến Sĩ Đệ,” tôi lập cà lập cập đứng trước ngưỡng cửa nói: “Đây là đâu?”
“Nhà tôi.”
Tôi ngớ người ra, sau đó cẩn thận bước vào trong ngưỡng cửa, nói nhỏ: “Tổ tiên nhà cô là Tiến Sĩ? Vậy thế thì tấm bia trước cổng thôn là hoàng đế ngự giá ban tặng cho tổ tông gia đình cô ư?”
“Ừm.” Cô ấy thản nhiên trả lời.
Tôi dụi dụi mắt nhìn lên giếng trời của ngôi nhà cổ “Tiến Sĩ Đệ” này, hai bên là những căn phòng xiêu vẹo đang chực đổ ập xuống, đối diện với cửa chính là một gian sảnh đường cấu trúc mái vòm. Ánh sáng mờ ảo từ mái hiên nhà rớt xuống khiến ngôi nhà cổ này càng trở nên âm u.
Tiểu Chi không vào sảnh đường mà đi vào cánh cửa bên cạnh, tôi bám theo sau, đi vào sân thứ hai trong Tiến Sĩ Đệ. Giếng trời ở đây còn nhỏ hơn, ba mặt đông, tây, bắc đều là dãy cầu hai tầng vây quanh, những lầu gỗ ba mặt đều là mái vòm, có lầu trạm hoa trên cửa sổ và xà nhà làm tôi liên tưởng tới “Nhà ngõ chìm sâu, sâu quá đỗi” của Phùng Diên Tị.
Bỗng nhiên, sau lưng tôi vang lên giọng nói ồm ồm: “Cậu là ai?”
Giọng nói này làm tôi giật bắn mình, tôi lắc lắc lư lư quay đầu lại, chỉ nhìn thấy một bóng người vừa gầy vừa cao đứng trong cửa sổ gỗ đang mở ra.
Tiểu Chi vội vàng nói với người đó: “Cha, thầy ấy là thầy giáo đại học của chúng con, đến khảo sát lịch sử và phong tục tập quán của Hoang thôn chúng ta.”
Hóa ra là cha của Tiểu Chi, tôi nhẹ cả người. Nhưng cô ấy cũng biết cách nói dối thật đấy, nói ngay tôi là thầy giáo đại học của mình, nhưng tôi cũng chỉ lớn hơn cô ấy vài tuổi thôi mà.
“Hoan nghênh cậu tới Hoang thôn.”
Cha của Tiểu Chi đi từ cửa khác ra, tôi lúc này mới nhìn kĩ khuôn mặt ông. Đó là một người đàn ông trung niên cao gầy, khuôn mặt gầy gò tiều tụy, hố mắt trũng sâu xuống. Nhưng da dẻ của ông ấy lại rất trắng, không giống như một người nông dân thông thường, ông ấy hồi trẻ chắc là rất tuấn tú. Ông tới trước mặt tôi mỉm cười nói: “Xin chào. Tôi là giáo viên tiểu học của Hoang thôn, cậu gọi tôi là Âu Dương tiên sinh được rồi. Nếu như không chê thì mời cậu ở lại nhà chúng tôi vài hôm, ngôi nhà này chỉ có hai cha con tôi, vẫn còn rất nhiều phòng trống.”
Tôi quay lại nhìn Tiểu Chi một cái, lúc này tôi mới biết họ tên của cô ấy: Âu Dương Tiểu Chi.
Màn đêm lạnh giá đã dần dần bao trùm lên Hoang thôn, Âu Dương tiên sinh dẫn chúng tôi tới sảnh trước, bật đèn trên xà nhà, ánh đèn chiếu rọi lên tấm biển trước sảnh đường, trên tấm biển viết ba chữ hàng ngang: “Nhân Ái Đường.” Dưới tấm biển là một bức chân dung bằng giấy ống quyển, người đó mặc quan phục triều Minh, chắc là vị tiến sĩ vào năm Gia Tĩnh.
Trong phòng trống huơ trống hoắc, chỉ có trên chính giữa chiếc bàn hình bầu dục là bày biện bữa tối thịnh soạn. Âu Dương tiên sinh lộ ra nụ cười hiền hậu của một người cha, ông nói biết hôm nay Tiểu Chi về nên cố ý chuẩn bị một bữa ăn thịnh soạn. Hoang thôn ở cạnh biển, đương nhiên là nhiều hải sản, rất hợp với khẩu vị của tôi. Âu Dương tiên sinh vốn kiệm lời, lặng lẽ xới cơm. Tôi phát hiện ông ăn rất ít, gần như chẳng mấy động đũa, sắc mặt ông trắng bệch dưới ánh đèn sáng vàng vọt, quả là hình ảnh thầy giáo thanh bần ở thôn quê.
Sau bữa tối, Tiểu Chi dẫn tôi lên căn gác hướng bắc phía sau. Tôi lập cập theo sau cô ấy leo lên những bậc cầu thang gỗ dốc ngược, giống người mù dò dẫm lên tới căn phòng trên gác hai. Tiểu Chi mò mẫm mãi vẫn chưa bật được đèn điện, cô ấy xin lỗi nói: “Căn phòng này lâu lắm không sử dụng rồi, chắc là đường điện lão hóa rồi, anh đợi tôi một lúc.”
Tiểu Chi xuống lầu. Tôi giơ tay ra phía trước khua khoắng thì sờ thấy một dãy cửa sổ bằng gỗ, đến kính cửa sổ cũng không có, chỉ có một lớp giấy bảo vệ mỏng dán trên khung cửa. Tôi một mình đứng trong bóng tối, thông qua khung cửa sổ gỗ có thể nhìn thấy vài ngôi sao – tim tôi càng lúc càng đập nhanh, bất giác giơ tay ra mở cửa sổ.
Cửa sổ vừa được mở ra, tôi liền nhìn ngay thấy một đốm sáng âm u, giống như ma trơi nhấp nháy liên hồi.
“Đừng sợ! Là tôi.”
Là tiếng của Tiểu Chi, cô ấy đi theo đốm ánh đó trong phòng, trên tay cầm chiếc đèn dầu. Tôi thở phào một cái: “Cô đừng có dọa tôi chứ.”
Cô ấy khẽ cười: “Không phải anh đã từng xuất bản rất nhiều tiểu thuyết kinh dị sao? Sao lại vẫn biết sợ nhỉ?”
“Khủng hoảng khởi nguồn từ vô thức.” Mắt tôi đã dần thích nghi với ánh đèn dầu, dưới đốm sáng bập bùng đó, khuôn mặt Tiểu Chi ánh lên màu sắc kì dị. Cô ấy còn ôm theo một cuộn chăn dày, sau đó đặt chiếc đèn dầu lên bàn gỗ, khiến tôi gần như có thể nhìn rõ căn phòng này. Căn phòng thực chất rất to, ở giữa còn có một tấm bình phong, phía sau có một chiếc giường ngủ.
Kì lạ ở chỗ, trong phòng vốn không có quá nhiều bụi bẩn, xem ra rất sạch sẽ, không giống như lâu rồi không có người ở. Tiểu Chi nói: “Cha tôi thích sạch sẽ, thế nên ông đã quét dọn một lượt mười mấy phòng trống này.”
“Mười mấy căn phòng trống? Quả nhiên là “Tiến Sĩ Đệ.” Nhưng ngôi nhà to thế này chỉ có hai bố con cô ở không cảm thấy sợ sao?”
Tiểu Chi lặng lẽ đóng cửa sổ lại nói: “Bởi vì gia đình tôi không có thêm bất cứ người họ hàng nào cả.”
“Vậy sao cô phải bảo tôi là thầy giáo dạy đại học của cô?”
Cô ấy chau mày, đưa chăn vào tay tôi nói: “Anh đã nhìn thấy tấm bia tiết hạnh ngoài cổng thôn rồi chứ? Phong tục của người dân Hoang thôn từ cổ xưa đều rất bảo thủ, nếu như tôi nói thật sẽ dẫn đến điều tiếng. Thế nên, tôi chỉ có thể nói anh là thầy giáo đại học của tôi đến đây để khảo sát lịch sử và phong tục tập quán của Hoang thôn, như vậy cha tôi sẽ không hiểu lầm mối quan hệ của chúng ta.”
“À, vậy thì hãy để tôi làm thầy giáo của cô vài hôm nhé. Nhưng tôi chỉ hơn cô vài tuổi, cô phải chuyên tâm giúp đỡ tôi đấy.”
“Được rồi, tôi ở trên gác phía tây, nếu có việc gì, kêu tôi một tiếng là tôi có thể nghe thấy.”
“Tiểu Chi,” tôi nhìn vào mắt cô ấy, nhưng ấp a ấp úng mãi không nên lời. “Không có gì, chỉ là rất cảm ơn cô.”
“Tôi cũng phải cảm ơn anh, cảm ơn anh cả đường đi đã giúp tôi xách hành lí.”
Tôi không nhịn được bật cười: “Hành lí của cô nặng thật, làm tôi mệt gần chết. Không phải cô muốn tìm một cửu vạn miễn phí nên mới đồng ý dẫn tôi tới Hoang thôn chứ?”