Phiêu Miểu – Cầm đèn
Tác giả: Bạch Cơ Quán
Dịch: Quá khứ chậm rãi
Quyển 1: Hương Phản Hồn
Chương 6: Phi nhân
Trăng tròn như gương sáng, mây đêm như làn khói tỏa ra từ lư hương khiên gương sáng trở nên mờ ảo như trong mơ. Nguyên Diệu theo sau Bạch Cơ đi qua Phường Yên Thọ, Phường Thái Bình, đến đường lớn cổng Chu Tước. Ánh trăng rất sáng, đường phố rất yên tĩnh, thỉnh thoảng mới gặp binh lính tuần tra.
Lần đầu gặp binh lính tuần tra, Nguyên Diệu theo phản xạ muốn bỏ chạy, nhưng binh lính với bộ giáp sáng loáng vẫn bước đi nhịp nhàng, không hề để ý đến hắn. Vì vậy, dần dà hắn cũng không còn sợ nữa.
Qua phường Dịch Thượng rồi rẽ phải đã đến đường lớn Cổng Chu Tước. Đường lớn Cổng Chu Tước là trục chính của thành Trường An, cũng là con đường rộng nhất của Trường An.
Lúc này đã gần đến giờ sửu, Nguyên Diệu đoán đường lớn Cổng Chu Tước chắc chắn phải trống rỗng yên tĩnh như chết. Nhưng không ngờ, vừa rẽ qua Phường Thượng Đức thì trước mắt ngươi hiện ra một cảnh tượng đông đúc nhộn nhịp, tiếng người huyên náo.
Nguyên Diệu dừng bước ngẩng đầu nhìn trăng.
Bạch Cơ ngạc nhiên hỏi: “Hiên Chi đang nhìn gì vậy?”
Nguyên Diệu nói: “Tiểu sinh đang xem coi có mặt trời treo trên đó không. Chẳng lẽ đây là ban ngày sao?!”
Bạch Cơ che miệng cười: “Tất nhiên là không. Ngươi nhìn kỹ xem, đây là một buổi tiệc đêm đấy.”
Nguyên Diệu lau mắt cẩn thận nhìn xung quanh. Không nhìn kỹ còn đỡ, vừa nhìn kỳ thì da đầu như nổ tung, nỗi sợ trong lòng lan rộng như đêm tối này vậy.
Người đi qua bên cạnh Nguyên Diệu, có cô nương lưỡi thè đến rốn, có đứa trẻ mắt rớt ra ngoài, có ông lão cổ vặn thành một vòng cung kỳ dị, còn có nam nhân mặc áo tù cầm đầu mình bước đi…
Bên đường bày ra đủ loại sạp hàng, có sạp thịt, sạp vải, sạp mặt nạ, sạp đèn lồng, sạp diều… Nguyên Diệu vừa đi qua một sạp thịt, trên một bàn gỗ lớn bày ra những miếng thịt đẫm máu, còn có tim, gan, ruột, dạ dày và các nội tạng khác, đều còn đầy máu tươi.
Nguyên Diệu tò mò những thứ này là nội tạng của con gì? Lợn? Bò? Dê?
Một ác quỷ mặt xanh răng nanh đứng sau bàn chặt thịt, vung dao trong tay cười với Nguyên Diệu: “Vị thư sinh này có muốn mua chút thịt người nấu canh uống không? Bổ lắm đó.”
Mặt Nguyên Diệu tái mét, vội vàng lắc đầu: “Không, không, không cần đâu…”
Ác quỷ bán thịt chặt một dao, chẻ đôi vật trên bàn cười niềm nở: “Không mua thịt vậy thì mua chút óc người đi? Xem này, đầu người mới bổ ra trắng ngần, tươi non lắm. Người ta nói ăn gì bổ nấy, thư sinh đầu óc trống rỗng, nên ăn cái này nhiều vào.”
Mùi tanh nồng nặc lan ra, Nguyên Diệu bịt miệng ói. Không khéo thay lại ói lên váy của một nhân nhân quý tộc. Nguyên Diệu vội xin lỗi: “Xin, xin lỗi… Tiểu sinh không cố ý…”
Nữ nhân quý tộc da trắng mày ngài, môi anh đào, tóc búi cao, cài trâm ngọc, phong thái cao quý và thanh nhã. Bà mặc một chiếc váy hoa văn phức tạp màu tím công, đuôi váy dài khoảng hai mét kéo lê trên mặt đất, lấp lánh dưới ánh trăng. Nguyên Diệu vừa nôn lên đuôi váy dài của bà ra.
Nữ nhân quý tộc quay đầu lại cười nhẹ nhàng, phong thái ung dung cao quý: “Không sao. Vị công tử này, ngài xem váy của thiếp nhăn rồi, ngài có thể giúp thiếp vuốt thẳng lại không?”
Nguyên Diệu nhìn kỹ thì đuôi váy dài của nữ nhân quý tộc đúng là hơi nhăn. Hắn áy náy vì làm bẩn váy của bà ta bên vội nói: “Được, tiểu sinh sẵn lòng giúp.”
Nguyên Diệu đưa tay về phía váy dài trên đất, nhưng bị Bạch Cơ ngăn lại. Bạch Cơ cười nói với nữ nhân quý tộc: “Bà Từ, tên này vụng về, cứ để ta làm thì hơn.”
Bà Từ giật mình, ánh mắt lóe lên rồi cười nói: “Hóa ra hắn là người của Bạch Cơ, vậy lần này coi như xong.”
Bà Từ quay người rời đi, từng bước đi cao quý và thanh nhã. Khi bà Từ bước vào dưới ánh trăng sáng, Nguyên Diệu mới phát hiện trên váy lộng lẫy của bà đầy rẫy rắn rết, da rắn và vỏ rết tỏa ra ánh sáng xanh lam độc hại.
Lúc này, một xác sống lảo đảo vô tình dẫm lên váy của bà Từ, đàn rắn rết lập tức bò lên theo chân xác sống, sau đó lập tức phủ kín toàn thân xác sống. Xác sống đau đớn giãy giụa rồi dần dần biến thành một bộ xương trắng.
Răng Nguyên Diệu va lập cập vào nhau: “Bạch Cơ, bà ta… bà ta là người gì vậy?”
“Khách của Phiêu Miểu các.” Bạch Cơ nhẹ nhàng trả lời, thấy sắc mặt Nguyên Diệu tái nhợt lại nói thêm: “Đừng lo, bà ta không đến thường xuyên đâu.”
Hai người tiếp tục đi về phía trước. Nguyên Diệu thấy một nam nhân trông như thư sinh vừa đi vừa đọc Luận Ngữ: “Tăng Tử nói: ‘Mỗi ngày ta đều tự xét mình ba lần, làm việc cho người khác có tận tâm không? Giao du với bạn bè có thành tín không? Được truyền dạy có ôn tập không?'”
Cũng là người đọc sách, Nguyên Diệu chợt cảm thấy thân thiết bèn nhìn người thư sinh thêm vài lần. Thư sinh tiến lại gần cúi chào Nguyên Diệu: “Vị huynh đài này, nhìn huynh có lẽ cũng là người đọc sách, có muốn thảo luận Luận Ngữ với tiểu sinh không?”
Nguyên Diệu nuốt một ngụm nước bọt, hỏi: “Ngươi… ngươi là ma phải không?”
Thư sinh nghe vậy thì rất tức giận, phất tay áo bỏ đi: “Hừ, lại là một kẻ ngu xuẩn! Chẳng lẽ không nghe Khổng Tử nói không có thần tiên ma quỷ sao…”*
*cái câu “Tử bất ngữ quái lực loạn thần” ấy
Dưới gốc cây Hoè bên đường có một cô nương dáng vẻ thướt tha đang chăm chú vẽ gì đó. Nguyên Diệu đang thắc mắc thì cô nương đã đứng dậy, bắt đầu cởi từng món y phục.
“Phi lễ không nhìn.” Nguyên Diệu vội vàng quay đầu đi, nhưng Bạch Cơ đã xoay đầu hắn trở lại: “Hiên Chi nhìn đi, lát nữa sẽ rất thú vị đó.”
Nguyên Diệu lại nhìn về phía cô nương dưới gốc cây Hoè, nàng ta đã không mặc gì, cúi đầu xuống hai tay vòng ra sau lưng. Da cô trắng như tuyết, ngực đầy đặn, chân dài, eo thon, nom thấy vô cùng xinh đẹp và quyến rũ.
Nguyên Diệu cảm thấy cổ họng khô nóng, nhưng tiếp theo lại thấy cô nương kia động đậy cởi thêm một lớp y phục nữa. Không, không thể nào, nàng đã không mặc gì rồi thì còn gì để cởi nữa chứ?
Nguyên Diệu nhìn kỹ thì lập tức nổi da gà, cô nương kia đang cởi lớp da người. Cơ thể không da của nàng ta là một khối thịt mờ mịt, xương tay và xương sườn lộ rõ, còn có giòi đang bò rúc. Nàng ta ném lớp da cũ rồi cầm lấy lớp da người mới vẽ, bọc lên người như mặc quần áo. Chỉ trong chốc lát, khối thịt mơ hồ biến thành một cô nương khỏa thân khác. Cô nương da trắng, chân dài, eo thon, dung mạo xinh đẹp, dáng vẻ quyến rũ.
Cô nương quay đầu thấy Nguyên Diệu đang nhìn mình thì cười duyên dáng: “Công tử, thiếp hơi chóng mặt, ngài có thể đến đỡ thiếp một chút không…”
Nguyên Diệu đã sợ đến choáng vàng, nào dám đến đỡ nàng? Hắn bỏ chạy, lảo đảo đuổi theo Bạch Cơ, mặt mếu máo nói: “Bạch Cơ, đây rốt cuộc là nơi nào thế? Làm tiểu sinh sợ chết đi được…”
Bạch Cơ cười nói: “Đây là đường lớn Cổng Chu Tước.”
“Tiểu sinh biết đây là đường lớn Cổng Chu Tước, nhưng những thứ trước mắt này là sao?”
Bạch Cơ mỉm cười thần bí, nụ cười trên môi làm nàng trở nên quyến rũ như yêu tinh: “Đêm trăng tròn, bách quỷ dạ hành là thế đấy.”
Nguyên Diệu lắp bắp: “Họ đều là yêu quái sao?”
Bạch Cơ đáp: “Cũng không hẳn. Theo kinh Phật thì gọi là phi nhân* sẽ chính xác hơn. Mọi sinh linh đều là chúng sinh.”
*không phải người
“Phi nhân là gì?”
“Trong kinh Phật, phi nhân là những sinh linh có hình dáng giống người, nhưng thực tế không phải là người.”
Nguyên Diệu nuốt nước bọt, hỏi: “Ngươi, ngươi cũng là phi nhân sao?”
Bạch Cơ không trả lời trực tiếp mà chỉ nhẹ nhàng nói: “Thiên Long Bát Bộ* cũng được coi là phi nhân nhỉ.”
* Thiên Long Bát Bộ: thuật ngữ Phật giáo, bao gồm: thiên chúng, long chúng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hô la già. Nhiều kinh Đại thừa mô tả rằng khi Phật thuyết pháp cho các Bồ Tát, Tỳ Kheo, thường có Thiên Long Bát Bộ tham dự. Bạch Cơ trong văn bản thuộc về Long chúng.(chú thích của tác giả)
Nguyên Diệu còn muốn hỏi thêm nhưng đã nghe phía sau có tiếng ngựa, tiếng bánh xe, tiếng bước chân. Tiếng bước chân rất đều, giống như đoàn nghi trượng của vương hầu khi đi tuần.
Bạch Cơ và Nguyên Diệu quay đầu lại, quả nhiên thấy một đoàn nghi trượng giáp trụ sáng loáng đang chầm chậm tiến đến. Yêu quái và ma quỷ trên đường đều tránh xa, Bạch Cơ cũng kéo Nguyên Diệu qua bên đường.
Nguyên Diệu ngạc nhiên hỏi: “Cảnh tượng này chẳng phải là đế vương đang tuần tra sao?”
Bạch Cơ liếc mắt một cái rồi cười nói: “Thực sự là đế vương từ Lệ Sơn đến tuần tra đấy.”
Đoàn nghi trượng tiến lại gần, Nguyên Diệu mới phát hiện họ là những tượng đất có kích thước như người thật, từng người đều mặc trang phục binh mã, sống động như thật, tinh thần phấn chấn. Nhưng trang phục của tượng đất không giống võ tướng nhà Đường, mà giống phong cách thời tiền Tần.
Sau đoàn nghi trượng, là một cỗ xe bốn ngựa nghiêm trang chầm chậm tiến đến, trang trí cờ rồng của đế vương, bốn con ngựa kéo xe cũng là tượng đất.
Nguyên Diệu ngạc nhiên vì lời của Bạch Cơ, đế vương từ Lệ Sơn? Hoàng thượng đáng ra đang ở Đại Minh Cung, sao lại đi Lệ Sơn? Sao lại tuần tra ban đêm?
Cỗ xe bốn ngựa dừng lại trước mặt Nguyên Diệu, trong xe vang lên một giọng nam trầm uy nghiêm: “Lâu rồi không gặp.”
“Ể?!” Nguyên Diệu kinh ngạc, người trong xe đang nói chuyện với mình sao? Không thể nào. Mặc dù không nhìn thấy người trong xe nhưng chỉ nghe giọng nói với khí thế này thì hắn có thể chắc rằng mình không quen biết nhân vật cao quý như vậy. Người đó chắc chắn nhận nhầm người rồi?
Nguyên Diệu đang nghi ngờ thì nghe Bạch Cơ bên cạnh cười hờ hững: “Lần cuối bệ hạ đến Phiêu Miểu các là chín trăm năm trước, đáng tiếc thứ ngài muốn Phiêu Miểu các không có. Nguyện vọng của ngài, Bạch Cơ không thể thực hiện được.”
Người trong xe nói: “Bạch Cơ từng nói Phiêu Miểu các không có thuốc trường sinh, nhưng Đông Hải có núi Bồng Lai, trên núi Bồng Lai có suối bất lão. Ta nghe theo lời ngươi phái Từ Phúc đi Đông Hải, nhưng cuối cùng chẳng chờ được hắn mang nước suối bất lão từ núi Bồng Lai về.”
Bạch Cơ nhẹ nhàng đáp: “Mọi việc đều có nhân duyên, không thể cưỡng cầu càng không thể nghịch thiên.”
Người trong xe nói: “Thật ra cái chết cũng không đáng sợ như trẫm tưởng tượng khi còn sống. Ít nhất là sau khi chết, trẫm đã hiểu vì sao trẫm hứa hẹn cả kho báu quốc gia mà ngươi vẫn không chịu đến núi Bồng Lai ở Đông Hải để lấy nước suối trường sinh, cũng như đã hiểu vì sao thế gian này lại có Phiêu Miểu các.”
Bạch Cơ mỉm cười nhẹ nhàng như mây khói: “Ta không phải không chịu đi Đông Hải, mà là không thể đi. Chúng sinh có dục vọng thì thế gian mới có Phiêu Miểu các.”
Người trong xe nói: “Rồng không thể vào biển, quả thật là sự trừng phạt đau khổ nhất trên thế gian. Thôi, cũng đã muộn rồi, trẫm phải trở về Lệ Sơn, hẹn gặp lại.”
Bạch Cơ cười nói: “Hẹn gặp lại.”
Đoàn nghi trượng khởi hành, xe ngựa rời đi, hoàng đế từ Lệ Sơn dần dần biến mất trên đường lớn Cổng Chu Tước.
Bạch Cơ thu ánh mắt lại nói với Nguyên Diệu đang ngẩn ngơ: “Hiên Chi đi thôi, ngươi còn đang nhìn gì nữa thế?”
Nguyên Diệu quay đầu lại: “Bạch Cơ, hắn… hắn… Lệ Sơn, Từ Phúc, thuốc bất tử… hắn chẳng phải là vị hoàng đế đó sao? Tần…”
“Suỵt!” Bạch Cơ đặt ngón tay lên môi, cười nói: “Hắn đã không còn là người, không phải người thì không được nhắc tên, đó là quy tắc của thế giới này.”
Nguyên Diệu hơi kích động, mặc dù là một học giả, nhưng hắn luôn ngưỡng mộ tài năng và sự vĩ đại của Tần Thủy Hoàng và Hán Võ Đế.
“Hắn… hoàng đế, cũng sẽ đến Phiêu Miểu các sao?”
Bạch Cơ cười nói: “Người có duyên đều sẽ đến Phiêu Miểu các.”
Khi Nguyên Diệu theo Bạch Cơ đến phường Phong An thì trăng tròn đã lặn về phía tây. Mặc dù đi một đoạn đường dài nhưng không hiểu sao Nguyên Diệu không cảm thấy mệt chút nào. Phường Phong An rất yên tĩnh, như thể hoàn toàn khác biệt với đường lớn cổng Chu Tước đầy ma quỷ kia vậy.
—
Biệt viện của Võ Hằng Hào nằm ở phường Phong An. Trong suốt một năm, Võ Hằng Hào hầu như rất ít ở lại phủ đệ ở phường Vĩnh Hưng mà sống ở biệt viện yên tĩnh hẻo lánh này.
Dưới ánh trăng, Nguyên Diệu nhìn thấy một căn nhà xung quanh cỏ dại mọc um tùm, diện tích rất lớn nhưng tường và sơn đỏ của cổng chính đã tróc hết, cỏ dại mọc tràn lan. Không giống như biệt viện của một gia đình giàu có mà giống như một ngôi đền bị bỏ hoang.
Nguyên Diệu gõ vào vòng đồng trên cửa nhưng chờ mãi không ai trả lời. Có lẽ là người hầu đã ngủ say hoặc là không có người hầu. Nguyên Diệu khó xử nhìn Bạch Cơ: “Phải làm sao đây, không ai ra mở cửa?”
Bạch Cơ suy nghĩ một lúc rồi nói: “Ừm, leo tường đi.”
Nguyên Diệu dẫm lên những chỗ lồi lõm của tường đá run rẩy trèo lên đầu tường, ngồi trên mép tường. Mặc dù tường cao không quá ba mét, nhưng đối với một thư sinh yếu ớt quen đọc sách thánh hiền như hắn thì đúng là một việc khổ sở.
Nguyên Diệu nhăn nhó nói với nữ tử áo trắng cầm đèn xanh đứng dưới tường: “Bạch Cơ, việc này không ổn đâu? Nếu bị người ta nhìn thấy tưởng là trộm thì dù có nhảy xuống sông Hoàng Hà cũng không rửa sạch được…”
“Ôi, Hiên Chi đã ngồi trên tường rồi à. Dù gì cũng không rửa sạch được, thôi mau nhảy xuống đi.”
Thư sinh muốn kéo thêm một đồng phạm: “Bạch Cơ không lên à?”
Bạch Cơ nói nhẹ bẫng: “Ngươi xuống rồi thì ta sẽ vào được.”
Thư sinh “ừ” một tiếng rồi cắn răng lấy can đảm nhưng vẫn không dám nhảy xuống. Bạch Cơ ở dưới đợi hơi không kiên nhẫn. Đột nhiên có một cơn gió mạnh thổi đến khiến thư sinh bị thổi ngã xuống như cây cỏ trên đầu tường.
“Bịch!” Nguyên Diệu rơi từ đầu tường xuống đất. May mà dưới tường là cỏ dại mềm mại nên mới không bị thương. Thư sinh xoa đùi đứng dậy đau đớn kêu lên: “Ôi, sao tự dưng lại gió nổi, ngã chết ta rồi.”
Nguyên Diệu ngẩng đầu nhìn bức tường đợi Bạch Cơ leo tường vào. Chờ một lúc lâu nhưng trên đầu tường vẫn không có động tĩnh gì, ngoài cổng lại vang lên tiếng gõ cửa.
“Hiên Chi mở cửa đi.”
“Ngươi xuống trước rồi thì ta sẽ vào được.” Nguyên Diệu vừa cà nhắc đến mở cửa, nhìn thấy Bạch Cơ cầm đèn xanh ưu nhã bước vào thì hiểu ý của câu nói này.
Trong biệt viện cỏ xanh mướt, cây hoa mọc đầy, ngay cả lối đi bằng đá cũng gần như bị cỏ dài tràn lấp. Bạch Cơ và Nguyên Diệu men theo lối nhỏ đi về phía phòng nhỏ đang sáng đèn ở sâu trong biệt viện.
Nguyên Diệu tò mò hỏi: “Nơi này nhìn hoang vắng giống như không có một người hầu nào. Võ tướng quân là trọng thần của triều đình, hắn thật sự sống ở đây sao?”
Bạch Cơ thản nhiên nói: “Trong dân gian có lời đồn rằng, sau khi Ý Nương chết, Võ Hằng Hào luôn coi như nàng còn sống, mỗi ngày nói chuyện với không khí, ngồi ăn uống với không khí, chơi đàn với không khí, ngắm hoa uống trà, như thể Ý Nương vẫn còn sống. Đồng liêu chê cười, xa lánh vì hành động kỳ quặc của hắn. Người hầu sợ hãi nên cũng rời khỏi phủ đệ. Ngay cả thái hậu đau lòng nói hắn bị ma ám. Có lẽ, Võ tướng quân thích yên tĩnh nên mới sống ở đây. Chỉ khi sống ở biệt viện xa lánh thế tục này mới không bị người đời chỉ trích, hắn mới có thể yên tĩnh bên thê tử đã mất.”
“Nhưng nơi này hoang vắng quá rồi. Những cây cỏ hoa lá ở đây cũng phải tìm vài người làm vườn để cắt tỉa chứ?”
“Hiên Chi không thấy sự hoang vắng này cũng có sinh khí sao? Khu vườn được chăm sóc kỹ lưỡng có khi lại mất đi sinh khí.”
“Ở đây làm gì có sinh khí, đến một người hầu cũng không có mà?”
“Cỏ xanh, rêu, bèo, dây leo, cây chuối, hoa cẩm tú, mẫu đơn, côn trùng đêm, cá bơi, chim đậu, cáo hoang… tất cả những thứ này không phải là sinh khí sao? Suỵt, Hiên Chi nghe đi, trong gió đêm có rất nhiều tiếng thì thầm đó. Nếu con người có thể hiểu được cuộc đối thoại của chúng thì có thể biết năm nay có phải là năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu hay không, cũng có thể biết những gì đang xảy ra ở nơi khác đấy.”
Nguyên Diệu tập trung lắng tai nghe, nhưng ngoài vài tiếng quạ đêm rùng rợn thì không nghe thấy gì cả.
Bạch Cơ và Nguyên Diệu đi qua cây cầu, căn phòng nhỏ sáng đèn hiện ra trước mặt hai người. Nguyên Diệu đang định bước tới nhưng bị Bạch Cơ kéo lại, đứng dưới một lùm cây chuối, nhìn từ xa.
Phòng bên mở toang cửa sổ, có thể lờ mờ nhìn thấy cảnh tượng bên trong. Trong phòng đèn đuốc sáng trưng, Võ Hằng Hào mặc áo dài trắng ngồi trên đất gảy đàn tỳ bà, một bộ xương mặc áo đỏ đang nhịp nhàng nhảy múa theo tiếng đàn. Những khúc xương trắng, chiếc áo đỏ thẫm lại có thể múa được một điệu uyển chuyển, khó tả nên lời, vừa quái dị vừa yêu kiều, ghê rợn. Võ Hằng Hào nở nụ cười dịu dàng, hắn đắm đuối nhìn Ý Nương đang múa. Ý Nương thỉnh thoảng cũng cúi đầu nhìn lại bằng đôi mắt đen tối sâu thẳm đầy tình cảm.
Rõ ràng là một cảnh tượng rất quái dị, nhưng Nguyên Diệu lại cảm thấy hòa hợp tựa như đôi uyên ương đang thắm thiết bên nhau. Một người một quỷ, duyên trần đã dứt, chỉ còn giữ lại một chút chấp niệm và khát vọng không tàn lụi, vẫn làm đôi tình nhân sâu đậm nhất thế gian.
Nguyên Diệu hơi cảm động, cũng hơi buồn bã. Một điệu múa kết thúc, Võ Hằng Hào và Ý Nương cùng nhau ngồi xuống rồi dựa vào nhau. Võ Hằng Hào nắm tay Ý Nương, bàn tay ấm áp của người sống đan vào những đốt xương lạnh lẽo, mười ngón tay quấn quýt, tình cảm vẫn sâu đậm như thuở ban đầu.
Bạch Cơ thở dài một hơi: “Hiên Chi, chúng ta về thôi.”
“Ơ? Không phải ngươi đến thăm Ý Nương sao? Sao còn chưa gặp nàng mà đã muốn đi rồi?”
“Thôi, gặp nàng cũng vô ích. Khát vọng của nàng quá mạnh, ta không thể thay đổi được.”
Nguyên Diệu không hiểu lời của Bạch Cơ. Thấy Bạch Cơ cầm đèn xanh đi xa, hắn đành phải đi theo. Cuối cùng hắn đã quay đầu nhìn vào phòng bên, bóng dáng Võ Hằng Hào và Ý Nương tựa vào nhau tỏa lên vẻ đẹp bi thương.
Trên đường về, Bạch Cơ không nói gì mà chỉ lặng lẽ bước đi.
Nguyên Diệu không nhịn được hỏi: “Đêm nay ngươi thăm Ý Nương, là muốn khuyên nàng thay đổi ý định sao? Chẳng lẽ chuyện nàng hồi sinh sống trọn đời với Võ Hằng Hào không tốt sao?”
Bạch Cơ nhẹ nhàng nói: “Quay ngược thời gian, chết đi sống lại, mãi mãi thanh xuân… những việc này đều trái với thiên đạo, đều là điều cấm kỵ, đều nghịch với trời. Mà nghịch trời là làm đảo lộn trật tự trời đất, chắc chắn phải trả giá đắt.”
“Giá đắt gì?”
“Giá đắt còn đáng sợ hơn cả việc biến thành hư không?”
Nguyên Diệu rùng mình: “Vậy tại sao ngươi lại cho họ hương Phản Hồn?”
“Bởi vì đó là dục vọng của họ. Phiêu Miễu Các là vì dục vọng của chúng sinh mà tồn tại…”
Trở lại Phiêu Miễu Các, Nguyên Diệu kinh ngạc phát hiện một thư sinh đang ngồi kiết già trên giường mình trong đại sảnh. Đi đến gần xem, kỳ lạ thay lại chính là hắn. Thư sinh đó là hắn, vậy hắn là ai?
Nguyên Diệu đang bối rối thì Bạch Cơ lại vỗ nhẹ lên vai mình: “Hiên Chi về đi thôi.”
Nguyên Diệu lập tức mất ý thức.
Phía đông vang lên tiếng gà gáy dài, yến tiệc đêm dần kết thúc, sự ồn ào của phi nhân dần dần lặng lẽ, sự ồn ào của nhân gian theo ánh sáng từ bầu trời dần hé ra.
Bạch Cơ thổi tắt ngọn đèn xanh, đèn xanh lại biến thành hoa sen xanh. Nàng cắm hoa sen vào bình sứ trắng, đi vào trong phòng. Trên giường của Ly Nô vẫn có một con mèo đen lật ngửa chiếc bụng tròn lẳn, bốn chân chổng lên trời, ngủ say xưa.
Bạch Cơ ngáp dài rồi đi lên cầu thang: “Buồn ngủ quá, phải ngủ một lát thôi…”