Lúc Thạch Thu Phong trở lại, quạ đen kêu vang.
Ta ngủ không yên giấc vì tiếng quạ kêu, thế là dứt khoát nhổm dậy lấy cái chổi và dụng cụ hốt rác đi ra ngoài quét tuyết. Mở cửa ra đã nhìn thấy gương mặt tươi cười của Thạch Thu Phong.
Gió lạnh thấu xương, lắc cánh cửa gỗ kêu kẽo kẹt.
Ta nhất thời hoảng hốt.
Hắn gầy, đen, phong trần mệt mỏi.
Nụ cười vẫn rực rỡ như cũ, ánh mắt sáng ngời như lúc ban đầu.
Ta cứ tưởng dù Thạch Thu Phong có đến Trường An nữa, thì ít nhất cũng phải là dăm ba năm sau này. Ta cho rằng nếu hắn quay lại thì đôi mắt sáng ngời cũng ảm đạm không ít, nụ cười có thêm vài phần cay đắng phức tạp, nhất định mặt mày cũng nhuốm vẻ mệt mỏi. Ta cứ ngỡ thanh đao sắc bén, khó khăn lắm mới ra khỏi vỏ này chắc chắn sẽ nhanh chóng bị hồng trần cuồn cuộn mài mòn góc cạnh, rồi mai sau sẽ lênh đênh trong thế tục.
Nhưng hắn đứng ở nơi đó, vẫn cõng đàn ba dây của cha hắn, hông vẫn đeo Mi Tiêm Đao của sư phụ, mặt mày sắc bén, mắt ẩn giấu mũi nhọn.
Điều duy nhất khác lúc mới gặp đó là ống tay áo bên trái của hắn trống rỗng.
Thạch Thu Phong cười: “Nửa năm không gặp, không nhận ra ta sao?”
Ta cúi đầu nhìn mũi giày bị tuyết làm ẩm ướt, “Đến đây khi nào?”
“Giờ Mão một khắc.” Hắn đáp.
Giờ Mão cửa thành mở ra, bây giờ là giờ Mão ba khắc, cửa thành vừa mở hắn đã vào thành, vào thành liền đến thẳng chỗ ta.
Chúng ta cùng đi ăn sáng, ngay ở quán rượu nhỏ chúng ta gặp nhau lần đầu.
“Trở lại nhìn xem.” Thạch Thu Phong nói.
Người có tính hay quên rất đáng sợ, người cùng mình chung hưởng buồn vui thoáng chốc phai mờ, biến thành không có quan hệ đúng là đau khổ.
Mặt đá xanh nhuộm máu nửa tháng trước đã bị tuyết lớn bao trùm từ lâu, quán rượu nhỏ vẫn buôn may bán đắt như thường, khách uống rượu nâng ly cạn chén, ăn uống linh đình, xung quanh tràn ngập tiếng oẳn tù tì, cười đùa hô hố. Chẳng ai nhớ trước đó trong quán rượu đã có người chết, không có ai nhớ rõ thiếu niên rút đao trong mưa buông tha đệ tử chính đạo phục giết hắn, hắn nói, kẻ đáng chết là môn chủ của bọn họ.
Khả năng tự chữa lành của con người rất kỳ diệu, dù là ai khuấy đảo giang hồ long trời lở đất mấy phen, đợi khi sóng êm biển lặng, giang hồ vẫn là giang hồ, chỉ là trong đó có vài người mới trở mình mà thôi.
Bây giờ thiếu niên này lại trở về.
Hắn không rút đao nữa, nhưng ta biết hắn vì rút đao mà đến.
Thạch Thu Phong gọi vài món ăn nổi tiếng của quán cộng thêm một vò Thiêu Đao Tử. Phục vụ nhìn thấy Mi Tiêm Đao hắn đặt trên bàn thì run rẩy, ánh mắt rụt rè, chờ gọi xong món ăn liền chạy đi nhanh như chớp.
Thạch Thu Phong thấy lạ: “Nơi này có không ít người giang hồ, sao hắn lại sợ ta?”
Ta nhìn gương mặt như đao của hắn, “Do lệ khí trên người ngươi quá nặng.”
Đối diện quán rượu nhỏ là y quán Thẩm đại phu hành nghề, người khám bệnh xếp thành một hàng dài, mùi thuốc lặng lẽ bay xa. Phương Hàn Hoa mặc xiêm y màu trắng đang bận bịu sắc thuốc, quanh người toàn hơi nước, trông giống như tiên nữ không nhiễm bụi trần.
Lúc biết Thẩm đại phu chữa bệnh miễn phí cho dân chạy nạn, Tiết Vô Y giễu cợt ông nửa ngày, “Ngày trước ông thu tiền khám bệnh của ta nhiều như thế là để hôm nay làm người tốt sao?”
Thẩm đại phu đá y ra ngoài cửa, “Cút!”
Tiết Vô Y cười hì hì quay đầu, “Ông đúng là càng già càng dẻo dai.”
Thẩm đại phu giận đến nỗi chòm râu bạc phơ rung rung.
Thời trẻ Thẩm đại phu hành y bốn phương, sống nhàn nhã nửa đời, đến già ông đặt chân đến Trường An, bầu bạn với vợ già, khám bệnh tùy vào tâm trạng, nổi danh xấu tính. Hai đứa con trai vừa cập quan đã bị ông đuổi ra khỏi cửa, đứa lớn ta chưa thấy bao giờ, đứa nhỏ có gặp hai lần, không biết bây giờ đang kiếm ăn ở ngõ ngách nào nữa.
Mười năm trước, lúc Tiết Vô Y xảy ra chuyện, không ai dám cứu y, chỉ có Thẩm đại phu.
Khi ấy, sợi râu của ông chưa bạc phơ như giờ, ngày ngày lôi kéo vợ già ngồi phơi nắng ở đầu ngõ, một tay phe phẩy quạt hương bồ sắc thuốc, một tay bẻ cành liễu trêu chọc con chó vàng trước nhà, khoan thai giống như thần tiên sống. Tiết Vô Y chưa từng quen biết ông, lúc ta rơi vào đường cùng đến cửa cầu xin cũng chẳng nghĩ rằng ông sẽ cứu người.
Thần tiên sẽ không cứu người phàm, Phật Tổ độ chúng sinh rốt cuộc là vì độ chúng sinh mà độ chúng sinh hay là vì chúng sinh mà độ chúng sinh, giống như Thẩm đại phu là thần tiên nhàn nhã hay là một ông lão quái đản, ta chưa bao giờ suy nghĩ vấn đề này cẩn thận.
Có người to gan hỏi ông, vì sao cứu tên sát thần này.
“Ta thích ánh mắt của thằng nhóc này.” Ông nói.
Người hỏi nghe vậy thì trừng mắt: “Chỉ vậy thôi?”
Thẩm đại phu dựng râu: “Chỉ vậy thôi.”
Một cái chén sứ trắng đặt xuống bàn gỗ tạo thành tiếng động lanh lảnh. Trong chén là Thiêu Đao Tử, màu rượu trong veo, trong đến mức có thể soi gương. Đa số rượu mạnh đều rất trong, nhìn rõ cả đáy, chỉ có rượu nhạt mới có nhiều loại, khiến người ta hoa cả mắt.
Ta hoàn hồn ngẩng đầu, đồ ăn đã được mang lên: “Ta không uống rượu.”
“Ta biết, ” Thạch Thu Phong nói, “Thử một lần thì có làm sao.”
Ta cúi đầu nhìn chén rượu đầy: “Có một số chuyện không thể thử.”
Hắn cười: “Không thử thì làm sao biết.”
Một chén rượu mạnh vào bụng, cổ họng đau đớn như bị dao cứa ngang qua, trong miệng tràn ngập vị cay. Ta bị sặc rượu, ho đến độ khóe mắt trào nước mắt.
Thạch Thu Phong hỏi: “Thế nào?”
Ta lau nước mắt, đẩy chén rượu đi: “Chả thế nào cả.”
Hắn cười to.
Lúc về đi ngang qua một gia đình giàu có, chúng ta trông thấy một thằng bé áo xanh vứt một con mèo con đen thui ra ngoài cửa. Lông của mèo con còn chưa xù ra, cứ thế bị ném vào trời đông giá lạnh, chẳng lâu sau nó sẽ chết rét.
Thạch Thu Phong “Ủa” một tiếng, bước lên hỏi: “Sao lại vứt con mèo này?”
Thằng bé áo xanh đang cúi đầu quét tuyết, chẳng buồn ngẩng đầu lên, trả lời qua loa: “Mèo cái là con mèo trắng tinh, sinh một bầy con đều có lông trắng như tuyết, chỉ có một hai con lông pha tạp sắc. Con mèo này cả người đen sì, phu nhân chê nó xúi quẩy, sợ là điềm không may.”
Nói xong ngẩng đầu thấy Thạch Thu Phong thì biến sắc, vung cái chổi đuổi người như đuổi ruồi: “Ăn mày từ đâu tới? Chỗ này không có đồ ăn, mau mau cút đi, đừng làm dơ bẩn chỗ ngồi trước cửa!”
Cửa son “rầm” một tiếng khép lại.
Ta vui vẻ cười to.
Thạch Thu Phong ngạc nhiên nhìn lại mình: “Ta giống ăn mày chỗ nào?”
Cách đó không xa chính là một đám dân chạy nạn đang tụ lại sưởi ấm. Dân chạy nạn đến đây quá nhiều, Thạch Thu Phong người toàn gió bụi, chẳng trách bị nhận nhầm là ăn mày. Ngày nào cũng có vô số dân chạy nạn chết đói chết rét, còn quý phu nhân ghét bỏ màu lông xúi quẩy của mèo con.
Ta cúi đầu nhìn con mèo nhà có tang kia.
Nó nằm co quắp trong đống tuyết, dựa sát vào nửa bụi cỏ khô duy nhất có thể sưởi ấm cho mình, màu lông đen nhánh phá lệ chói mắt. Nó không nhìn cửa son đóng chặt sau lưng mà xoay tròn mắt nhìn chằm chằm hai chúng ta.
Nó không phải mèo nhà có tang mà là mèo hoang.
Gần đó, dân chạy nạn tập tễnh vẫn đang đập cửa son đóng chặt “rầm rầm rầm”, kêu gào thảm thiết cầu xin lão gia phu nhân đang chơi với mèo ở bên trong, mong họ nổi lòng tốt phát cho miếng cháo loãng để uống. Có lúc, con người sống mấy chục năm còn chẳng bằng một con mèo chưa dứt sữa.
Thạch Thu Phong tặc lưỡi, “Con mèo này còn nhỏ nhưng khá thông minh.”
Hắn xách nó lên đặt ở trước cửa son, nắm vuốt mèo khẽ khàng chạm vào cửa rồi lại đưa tay chỉ chỉ phía trước cửa. Con mèo con nhìn ngón tay của Thạch Thu Phong rồi nhìn ta, lại quay đầu nhìn cánh cửa son gần trong gang tấc, vuốt mèo thoáng dừng trước cửa son rồi đặt xuống. Nó xoay người không nhìn cửa sổ nữa, mà ngồi trước bậc thang, nhìn chằm chằm chúng ta.
Lần này khác với lần trước, ánh mắt của nó không còn liếc qua liếc lại giữa ta và Thạch Thu Phong nữa mà chỉ nhìn chằm chằm ta.
Thạch Thu Phong vỗ tay cười to: “Con mèo này thú vị phết, đã là lúc nào rồi mà còn nổi tính đùa nghịch.”
Mèo con lạnh đến nỗi run lẩy bẩy, nó cứ ngồi trên nền tuyết suốt thời gian uống hết một chén trà, chúng ta không đi, nó cũng không đi. Nó không chạy đến cọ vào chân của ta, cũng không có ý định nhảy vào lòng ta…, không làm bất cứ hành động gì mà một con mèo con có thể làm để lấy lòng người. Nó chỉ nhìn chằm chằm ta, giống như đang nhìn chằm chằm một cọng rơm cứu mạng cuối cùng.
Bây giờ nghĩ đến, thứ chân chính khơi gợi lòng trắc ẩn còn sót lại chẳng nhiều nhặn của ta là ánh mắt này. Nó khiến ta nhớ đến ánh mắt của Hoài Ngọc khi ngồi trên xe lăn ở tháp Đại Nhạn ngước nhìn bầu trời, ánh mắt của Phương nương tử lúc sốt ruột lôi kéo nha dịch, ánh mắt của Phương Hàn Hoa lúc quỳ gối trên nền tuyết ngẩng đầu nhìn ta cũng là thế này… vừa chờ mong lại vừa tuyệt vọng.
Thỉnh thoảng ta lại nghĩ, rốt cuộc năm đó ông lão nhặt được ta ở bãi tha ma có tâm trạng như thế nào, là bỗng dưng nổi hứng hay là đột nhiên nảy lòng thương xót.
Ta tiến lên ôm lấy con mèo nhỏ, lông nó chưa đủ dài, mới nằm trên đống tuyết lạnh buốt một lát đã chịu không nổi, run lẩy bẩy trong vòng tay ta, băng kết trên lông từ từ rơi xuống.
Ta quay đầu nhìn Thạch Thu Phong, hắn đã quay đầu ra chỗ khác.
“Đặt tên là gì?” Ta hỏi.
“Mèo do cô nhặt.”
“Nhưng cha ngươi là thư sinh.”
Thạch Thu Phong cười, “Thế gọi là Tảng Đá đi.”
Ta lườm hắn, “Khó nghe.”
“Ta thấy rất hay mà, cô nhìn mà xem, tính tình con mèo này khó chịu hệt như tảng đá trong hầm cầu.” Thu Phong giơ tay muốn vuốt ve con mèo nhỏ lại bị nó quơ vuốt đẩy ra, “Ôi, đã ghi thù ta rồi?”
Ta cười to.
Lúc đèn hoa rực rỡ vừa lên, Tiết Vô Y đến.
Hơn mười ngày không nhìn thấy y, sắc mặt của y càng thêm tái nhợt, ánh mắt lại trong trẻo như được tẩy rửa, sắc bén minh mẫn như ngày còn niên thiếu.
Ta bưng một vò Thiêu Đao Tử và một vò rượu mơ lên.
Tiết Vô Y khoát tay: “Ta muốn Hoa Điêu.”
Thạch Thu Phong hơi ngạc nhiên: “Nhạn Cửu nói ngươi quen uống rượu mơ.”
“Đó là lúc trước.” Tiết Vô Y nói.
Đêm đó bọn họ uống đến nửa đêm, nâng ly cạn chén đến khi say mèm mới nghỉ.
Ta ôm Tảng Đá đứng trước cửa sổ, nhìn bóng người yểu điệu trên giấy dán cửa, tiếng cười to mơ hồ tràn ra ngoài khe cửa.
Đã rất nhiều năm Tiết Vô Y không cười lớn như vậy. Thuở thiếu thời nụ cười của y vô tư thoải mái, một nụ cười đã khiến biết bao thiếu nữ khuê các ngẩn ngơ. Sau này phần lớn thời gian y cười mà như chẳng phải cười, còn lại là giễu cợt mỉa mai. Gần đây y cười nhiều hơn, nhiều đến nỗi ta phân rõ được rốt cuộc bên trong cất giấu thứ gì.
Hai người đàn ông uống hết số rượu quý ta cất giữ mười năm qua, qua nửa giờ Sửu mới xiêu xiêu vẹo vẹo ngã lăn ra bàn ngủ thiếp đi, bầu rượu rỗng vung vãi đầy đất.
Ta không biết bọn họ đã nói những gì, hoặc là chẳng nói gì cả nhưng ta biết, sau đêm nay tất cả đều kết thúc.
Ta ôm Tảng Đá ngồi trên thềm đá lạnh lẽo suốt cả đêm, nghe tiếng ngáy của hai người đàn ông trong phòng, nghe tiếng tuyết rơi và tiếng tuyết tan thành nước chảy từ trên mái hiên xuống rồi nhỏ vào thềm đá tí tách cả đêm.
Tảng Đá nằm cuộn tròn trong lòng ta, ta vừa tắm rửa cho nó, cơ thể màu đen nhỏ bé cuộn thành một cục. Màn đêm buông xuống là lúc nó hăng hái nhất, giữa đêm đôi mắt màu hổ phách sáng ngời như châu ngọc, đảo tới đảo lui, linh động như chớp.
Có lẽ vì buổi sáng uống một chén rượu mạnh nên giờ trong bụng ta vẫn rất ấm áp. Ta nhớ đến vô số đêm khuya nhiều năm trước, ông lão cũng như thế, ôm bầu rượu trong ngực, nhìn chằm chằm những hạt mưa biến mất, đối mặt với đêm tối lạnh lẽo tịch mịch, gào thét với gió lớn lướt qua, say như chết. Rốt cuộc khi ấy ông tỉnh táo hay say thật, hay là lúc say cũng tỉnh mà lúc tỉnh cũng say, ta chưa từng hiểu rõ.
Lúc ánh rạng đông hiện ra, Thạch Thu Phong tỉnh.
Hắn ôm đàn ba dây ngồi song song với ta trên thềm đá, “Tỉnh lúc nào?”
Ta đáp, “Giờ Mão một khắc.”
Thạch Thu Phong dựng thẳng cây đàn ba dây lên: “Ta gảy một khúc cho cô nghe nhé?”
Ta ngạc nhiên nhìn hắn, “Chẳng phải ngươi không biết gảy đàn à?”
Hắn cười gian xảo, “Ta quay về Mạc Bắc tìm người học.”
Hắn đàn cũng chẳng hay, bị cụt một tay nên khó khăn gảy từng dây cung, động tác vặn vẹo quái dị, tiếng đàn đứt quãng. Âm sắc của đàn ba dây vốn khô khốc, giờ giống như một người cà lăm hốt hoảng uốn lưỡi. Chỉ một khúc thôi mà lưng Thạch Thu Phong mướt mồ hôi, bàn tay vững như đá tảng lúc rút đao cũng hơi run run.
Hắn siết chặt phím gảy, lỗ tai đỏ như nhỏ máu, lắp ba lắp bắp: “Nhạn Cửu, ta… ta… đây là lần đầu tiên ta gảy đàn ba dây cho người khác nghe… Ta…”
Ta cười: “Khúc nhạc này tên gì?”
Thạch Thu Phong sững sờ, vết đỏ ửng trên tai dần tan đi: “Phong Vũ Thiết Mã.”
Phong vũ thiết mã, thiết mã thu phong Đại Tán quan.
(Ngựa sắt đi giữa mưa gió, ngựa sắt cưỡi gió thu vượt Đại Tán.)
Nhìn ánh mắt thấp thỏm của Thạch Thu Phong, ta nhịn cười bảo: “Nghe rất êm tai.”
Ánh mắt của hắn thoáng chốc sáng ngời: “Thật à?”
Ta gật đầu: “Thật.”
Nụ cười của hắn từ từ nở rộ, miệng toe toét không khép lại được.
Thạch Thu Phong cất đàn ba dây, chúng ta ngồi song song trên thềm đá, chờ mặt trời mọc. Sắc trời dần sáng, bầu trời màu xanh trắng đan xen. Hơi lạnh của màn đêm tan dần, ánh rạng đông mờ mờ, vầng thái dương đỏ dần nhú lên, từng chút từng chút xé toạc bóng đêm đen như gỗ mun.
Rạng sáng.
Lúc nắng sớm chiếu rọi khắp nơi, Thạch Thu Phong nói: “Sau này cô cẩn thận chút, đừng làm mất Tảng Đá, mèo con rất dễ bỏ đi. Có Tảng Đá, cô sẽ không cô độc.”
Ta quay đầu nhìn hắn, mặt mũi của hắn bị ánh nắng che phủ, mơ hồ không rõ, chỉ lờ mờ trông thấy đường nét góc cạnh: “Ngươi cảm thấy ta rất cô độc?”
Hắn không đáp mà nhìn về phía trước.
“Lần đầu tiên ta gặp cô, cô đi vào quán rượu nhỏ, thu ô giấy dầu, áo đen bay bay, chân trần guốc gỗ, màn mưa to như trút nước bị bỏ lại phía sau lưng. Gương mặt và phong thái của cô cực kỳ giống…”
Hắn ngẩng đầu nhìn tuyết lặng lẽ rơi xuống đình viện.
“Cực kỳ giống một con mèo con màu đen chưa dứt sữa.”
Hết chương 6.
Ngày Thạch Thu Phong quay lại, quạ đông kêu quang quác.
Ta bị tiếng quạ quấy nhiễu ngủ không yên giấc, dứt khoát rời giường, lấy chổi lấy hốt ra ngoài quét tuyết. Mở cửa, đập vào mắt là nụ cười của Thạch Thu Phong.
Gió rét buốt xương, thổi cửa gỗ vang kẽo kẹt.
Ta nhất thời ngẩn ngơ.
Cậu gầy đi, đen hơn, mệt mỏi phong trần.
Nụ cười vẫn rạng rỡ, ánh mắt vẫn sáng rực như xưa.
Ta tưởng rằng Thạch Thu Phong có tới Trường An lần nữa thì ít nhất cũng phải dăm ba năm sau. Ta tưởng rằng dẫu có trở lại, ánh sáng trong mắt cậu ắt sẽ mờ đi không ít, nụ cười ắt sẽ pha tạp đắng cay, dung mạo ắt sẽ nhuốm màu mệt mỏi. Ta tưởng rằng thanh đao sắc bén khó khăn lắm mới ra khỏi vỏ này ắt sẽ bị hồng trần cuồn cuộn nhanh chóng mài mòn góc cạnh, chìm vào trần thế.
Nhưng cậu đứng đó, vẫn đeo trên lưng cây đàn tam huyền của cha cậu, và bên hông là thanh đao mi tiêm của sư phụ cậu. Mặt mày rắn rỏi, mắt giấu mũi nhọn.
Cái duy nhất không giống với lần đầu gặp là tay áo trái rỗng không của cậu.
Thạch Thu Phong cười: “Nửa năm không gặp đã không nhận ra rồi à?”
Ta cúi đầu nhìn mũi giày bị tuyết tan làm ướt: “Đến khi nào?”
“Giờ Mão một khắc.” Cậu đáp.
Thành mở cổng vào giờ Mão, hiện giờ là giờ Mão ba khắc. Cổng thành vừa mở cậu đã vào thành, vào thành rồi là tới chỗ ta ngay.
Cùng đi ăn sáng, ngay tại quán rượu nhỏ nơi hai ta gặp mặt lần đầu.
“Quay lại xem thử xem.” Thạch Thu Phong nói.
Xưa nay con người vẫn mau quên đến đáng sợ, buồn vui liên quan đến mình hay không cũng phai nhòa trong thoắt chốc, trở thành đau khổ vô can.
Mặt đất đá xanh nhuộm máu nửa tháng trước đã sớm bị tuyết lớn bao phủ, quán rượu nhỏ vẫn đắt khách như thường, tửu khách cụng ly đổi chén, tiệc tùng linh đình, tiếng chơi đố số dậy lên bốn bề, cười to vang dội. Không ai nhớ những người đã chết trước quán rượu hôm nào, cũng không ai nhớ từng có cậu thiếu niên rút đao trong mưa, lại buông tha đệ tử chính đạo phục kích cậu, cậu nói, kẻ đáng chết là đám môn chủ.
Bản lĩnh tự chữa khỏi của con người cũng lợi hại xưa nay, dù là ai đùa bỡn giang hồ long trời lở đất mấy phen, đợi đến khi gió êm sóng lặng, giang hồ vẫn là giang hồ đấy, chỉ là người trong đó đã thay mới rồi thôi.
Bây giờ, thiếu niên này lại trở lại.
Cậu không rút đao nữa, nhưng ta biết, cậu tới là để rút đao.
Thạch Thu Phong gọi mấy món tủ của quán rượu, kèm một vò thiêu đao tử. Tiểu nhị vừa trông thấy thanh đao mi tiêm cậu đặt trên bàn đã run lên, ánh mắt dè chừng, gọi đồ xong lập tức chạy biến.
Thạch Thu Phong lấy làm lạ: “Nơi này có thiếu gì người giang hồ đâu, sao chỉ sợ mỗi tôi thôi vậy?”
Ta liếc thanh đao mi tiêm của cậu: “Lệ khí trên người cậu quá nặng.”
Đối diện quán rượu là sạp nhỏ Thẩm đại phu hành nghề chữa bệnh, người xếp hàng dài, rất yên tĩnh, mùi thuốc lan xa. Phương Hàn Hoa đang bận bịu sắc thuốc chỗ khác, y phục trắng xóa, người ngâm trong hơi nước, tựa một tiên nữ không nhiễm bụi trần.
Lúc biết Thẩm đại phu chữa trị cho dân chạy nạn không lấy tiền, Tiết Vô Y giễu cợt ông nửa ngày: “Hồi trước ông lấy tiền chữa bệnh của tôi cao vậy là để làm đại thiện nhân à?”
Thẩm đại phu nhấc chân đá hắn ra cửa: “Cút!”
Tiết Vô Y cười hềnh hệch ngoái lại: “Ngài thật đúng là gừng càng già càng cay.”
Thẩm đại phu giận đến rung rinh chòm râu bạc.
Hồi trẻ, Thẩm đại phu hành y tứ phương, nhàn tản thoát tục nửa đời, cuối cùng dừng chân ở Trường An, làm bạn với vợ già, chữa bệnh phải xem tâm trạng, nổi tiếng cáu kỉnh. Hai đứa con trai vừa cập quan đã bị ông đuổi ra khỏi nhà, chưa thấy cậu lớn bao giờ, cậu bé thì từng gặp hai lần, hôm nay chẳng biết đang kiếm sống trong ngõ ngách nào.
Mười năm trước Tiết Vô Y xảy ra chuyện, không ai dám cứu hắn, chỉ có Thẩm đại phu.
Khi đó chòm râu của ông còn chưa trắng hết, ngày ngày kéo vợ già ngồi đầu hẻm phơi nắng, một tay phe phẩy quạt sắc thuốc, một tay bẻ cành liễu chọc con chó vàng trước nhà, khoan thai như thần tiên sống. Tiết Vô Y chưa từng quen biết ông, lúc ta cùng đường cầu tới cửa cũng chưa từng nghĩ ông sẽ cứu người.
Thần tiên không cứu người phàm. Phật tổ độ chúng sinh, rốt cuộc là độ chúng sinh để độ chúng sinh hay độ chúng sinh vì chúng sinh, cũng như Thẩm đại phu là một ông tiên rảnh rỗi hay một ông lão quái gở, ta chưa bao giờ nghĩ thông.
Có người to gan hỏi ông, vì sao cứu sát thần này.
“Ta thích ánh mắt của thằng nhóc này.” Ông nói.
Người tới trợn mắt: “Chỉ thế thôi?”
Thẩm đại phu thổi râu: “Chỉ thế thôi.”
Một chén sứ trắng đặt lên bàn gỗ, tiếng va chạm lách cách. Trong chén là thiêu đao tử, màu rượu mát rượi, soi được bóng người. Đa phần rượu mạnh đều thuần sắc, trong suốt thấy đáy, chỉ rượu nhẹ mới lắm hoa lắm vân, chọc người ta hoa mắt.
Ta tỉnh táo lại, ngẩng đầu, thức ăn đã được dọn lên: “Tôi không uống rượu.”
“Tôi nhớ,” Thạch Thu Phong nói, “Thử một lần có mất gì đâu.”
Ta cúi đầu nhìn chén rượu đầy: “Có một số cái không thể thử được.”
Cậu cười: “Không thử sao biết.”
Một chén rượu mạnh xuống bụng, cổ họng đau xé như bị đao cứa, miệng ngập tràn cay rát. Ta bị sặc rượu, ho sù sụ rỉ cả nước mắt.
Thạch Thu Phong hỏi: “Thế nào?”
Ta lau nước mắt, đẩy chén rượu: “Chẳng thế nào cả.”
Cậu phá ra cười.
Lúc trở về đi ngang qua một nhà giàu có, thấy một thằng bé áo xanh ném một con mèo con toàn thân đen tuyền ra ngoài cửa. Con mèo còn chưa mọc đủ lông, cứ thế bị vứt vào trời đông rét mướt, chẳng mấy chốc sẽ chết cóng.
Thạch Thu Phong “ớ” một tiếng, lại gần hỏi: “Sao lại ném con mèo này đi?”
Thằng bé áo xanh đang cúi đầu quét tuyết, chẳng buồn ngẩng lên, đáp một câu lấy lệ: “Mèo mẹ là mèo thuần chủng trắng tuyết, đẻ một ổ con con đều toàn thân trắng tuyết, chỉ có một hai đứa là dính chút tạp sắc, mỗi con này đen thui một màu, phu nhân chê nó xúi quẩy, sợ là điềm không lành.”
Nói xong ngẩng đầu lên thấy Thạch Thu Phong, mặt tức thì biến sắc, vung chổi lên đuổi như đuổi ruồi: “Ăn mày đâu ra? Ở đây không có đồ ăn, cút cút cút, chớ làm bẩn mặt đất trước cửa!”
Cửa son “ầm” một tiếng khép lại.
Ta sung sướng cười to.
Thạch Thu Phong ngạc nhiên nhìn lại mình: “Tôi giống ăn mày chỗ nào?”
Cách đó không xa là dân chạy nạn co cụm sưởi ấm, dân lưu lạc tới xin cơm quá nhiều, Thạch Thu Phong cả người phong trần, chẳng trách bị nhận lầm là ăn mày. Mỗi ngày dân chạy nạn chết đói chết rét vô số, tựa như con mèo con bị phu nhân nhà quyền quý chê là xui xẻo vì màu lông này.
Ta cúi đầu nhìn con mèo nhà có tang bị vứt bỏ kia.
Nó co ro trong tuyết, tựa sát vào nửa bụi cỏ khô duy nhất có thể sưởi ấm cho mình, bộ lông đen trong tuyết vô cùng chói mắt. Nó không nhìn cánh cửa son đóng chặt sau lưng, lại nhìn chằm chằm vào hai người bọn ta.
Nó đã không còn là mèo nhà có tang nữa mà là mèo hoang.
Chung quanh, dân tị nạn bước đi tập tễnh hãy còn đang “đùng đùng” gõ cửa son đóng chặt, thảm thiết kêu gào quỳ gối cầu xin vị phu nhân lão gia đang chọc mèo trong cửa có thể đại phát thiện tâm thưởng cho miếng cháo loãng. Có lúc, người sống mấy chục năm còn chẳng bằng con mèo con chưa dứt sữa.
Thạch Thu Phong tặc lưỡi: “Con mèo nhỏ này có vẻ thú vị ghê.”
Cậu nhặt nó lên đặt trước cửa son, cầm chân nó chạm nhẹ vào cửa, lại giơ tay chỉ chỉ vào trong. Mèo con nhìn ngón tay Thạch Thu Phong, lại nhìn ta rồi quay đầu nhìn cánh cửa son gần trong gang tấc, chân mèo dừng trước cửa son một chớp mắt, lại hạ xuống. Nó xoay người, không nhìn cửa son nữa mà ngồi xổm trên bậc thang nhìn chúng ta chằm chằm.
Lần này khác với lần trước, mắt nó không đảo qua đảo lại giữa ta và Thạch Thu Phong nữa mà chỉ nhìn ta.
Thạch Thu Phong vỗ tay cười to: “Con mèo này thú vị thật, đã là lúc nào rồi mà còn dám cáu kỉnh.”
Mèo con cóng đến run rẩy, cứ thế nằm trong tuyết một chung trà, bọn ta không đi, nó cũng không đi. Nó không chạy tới cọ chân ta, cũng chẳng định nhảy vào lòng ta – không hề làm bất kì một động tác lấy lòng người nào mà một con mèo con có thể làm. Nó chỉ gắt gao nhìn chằm chằm ta như nhìn cọng rơm cứu mạng cuối cùng.
Bây giờ nghĩ lại, thứ chân chính khơi dậy lòng trắc ẩn chẳng sót lại bao nhiêu của ta là ánh mắt này. Khiến ta liên tưởng đến ánh mắt của Hoài Ngọc khi ngồi xe lăn nhìn lên thinh không trên tháp Đại Nhạn, ánh mắt của Phương nương tử khi túm chặt nha dịch, ánh mắt của Phương Hàn Hoa khi quỳ trong tuyết ngửa đầu nhìn ta – đều khát khao mà tuyệt vọng như vậy.
Đôi lúc ta sẽ nghĩ, rốt cuộc năm đó nhặt ta ở bãi tha ma, ông cụ đã có tâm trạng gì, là tâm huyết dâng trào hay chợt nổi từ bi.
Ta tiến lên bế con mèo con, lông nó còn chưa mọc đủ, ở trong tuyết cóng một hồi đã không chịu nổi nữa, run bần bật trong khuỷu tay ta, băng vụn kết trên lông lộp bộp rơi xuống.
Ta quay đầu nhìn Thạch Thu Phong, cậu lại đã quay sang chỗ khác.
“Đặt tên gì?” Ta hỏi.
“Chị nhặt mà.”
“Cha cậu là thư sinh.”
Thạch Thu Phong cười: “Vậy đặt là Cục Đá đi.”
Ta trừng cậu: “Khó nghe.”
“Tôi thấy hay mà, chị xem, con mèo này tính tình thối hoắc như đá trong hố xí ấy.” Thạch Thu Phong giơ tay định vuốt con mèo con, lại bị nó dùng chân đẩy ra, “Chao, dỗi tôi thật đấy à?”
Ta phì cười.
Vừa đến giờ lên đèn thì Tiết Vô Y tới.
Hơn mười ngày không gặp, sắc mặt hắn càng nhợt nhạt hơn, ánh mắt lại sáng bóng như gột, sắc bén rực sáng như thuở từng thiếu niên.
Ta bưng một vò thiêu đao tử, một vò rượu mơ lên.
Tiết Vô Y xua tay: “Tôi muốn uống hoa điêu.”
Thạch Thu Phong hơi ngạc nhiên: “Nhan Cửu nói anh thích uống rượu mơ mà.”
“Đó là trước đây.” Tiết Vô Y đáp.
Đêm đó họ uống đến nửa đêm, cụng ly đổi chén, say mèm mới ngơi.
Ta ôm Cục Đá đứng trước song, nhìn bóng người chập chờn trên giấy cửa sổ, tiếng cười lớn loáng thoáng tràn qua khe cửa.
Đã rất nhiều năm Tiết Vô Y không cười lớn như vậy. Khi còn trẻ, nụ cười của hắn cởi mở sảng khoái, cười một tiếng choáng ngợp bao thiếu nữ. Về sau, đa phần hắn cười như không cười, không thì cũng là nhếch mép cười khẩy. Gần đây hắn cười nhiều hơn, nhiều lúc ta không phân biệt được trong đó rốt cuộc chứa thứ gì.
Hai người đàn ông uống cạn sạch đống rượu ta cất giữ mười năm, đến giữa giờ Sửu thì nghiêng ngả nhoài người ngủ trên bàn, vò rỗng lăn lông lốc khắp đất.
Ta không biết họ đã nói những gì, cũng có thể chẳng nói gì hết. Nhưng ta biết, sau đêm nay, tất thảy đều lắng xuống.
Ta ôm Cục Đá ngồi trơ trên thềm đá lạnh lẽo một đêm, nghe tiếng ngáy của hai người đàn ông trong nhà, nghe tiếng tuyết rơi, nghe tiếng nước lăn từ mái hiên xuống, rơi lên thềm đá, tí tách cả đêm.
Cục Đá rúc trong lòng ta, vừa tắm xong cho nó, thân mình đen tuyền cuộn tròn bé bỏng. Ban đêm là lúc nó hoạt bát nhất, cặp mắt màu hổ phách sáng ngời như châu ngọc trong bóng tối, linh động đảo tròn ngó khắp nơi.
Có lẽ là nhờ chén rượu mạnh ban sáng mà lúc này, trong dạ giữ hơi ấm sực.
Ta nhớ đến vô số đêm khuya của rất nhiều năm trước, ông cụ cũng như vậy, ôm bầu rượu trong lòng, trân trân nhìn giọt mưa đứt đoạn rỉ rả tới sáng, quay mặt về đêm tối yên ắng trống rỗng, nghênh đón gió mạnh thổi rít hò, say bí tỉ. Rốt cuộc khi ấy ông tỉnh táo hay say thật, hay lúc say cũng tỉnh, lúc tỉnh cũng say, ta chưa từng nghĩ thông.
Lúc ban mai lấp ló, Thạch Thu Phong tỉnh lại.
Cậu ôm cây đàn tam huyền ngồi xuống cạnh ta trên thềm đá: “Dậy lúc nào vậy?”
Ta đáp: “Giờ Mão một khắc.”
Thạch Thu Phong dựng cây đàn lên: “Tôi đàn chị nghe một khúc nhé.”
Ta kinh ngạc nhìn cậu: “Không phải cậu không biết chơi à?”
Cậu cười ranh mãnh: “Tôi về Mạc Bắc một chuyến, tìm người học.”
Cậu đàn cũng chẳng hay ho gì cho cam, cánh tay duy nhất khó nhọc gảy dây, động tác uốn éo quái dị, tiếng đàn đứt quãng. Âm sắc đàn tam huyền vốn khô khốc, như một người nói lắp đang cuống quít học vẹt. Một khúc dứt, lưng áo Thạch Thu Phong mướt mồ hôi, bàn tay vững như đá tảng lúc rút đao hơi run run.
Cậu siết chặt miếng gảy, tai đỏ như nhỏ máu, ấp úng nói: “Nhạn Cửu, đây… đây là lần đầu tiên tôi đàn tam huyền cho người khác nghe… Tôi…”
Ta cười: “Khúc nhạc này tên gì?”
Thạch Thu Phong sững lại, màu đỏ trên tai dần rút đi: “Ngựa sắt gió thu.”
Ngựa sắt gió thu. Ngựa sắt gió thu băng Đại Tán.
Ánh mắt Thạch Thu Phong thấp thỏm, ta nhịn cười khen: “Rất hay.”
Ánh mắt cậu vụt sáng bừng: “Thật à?”
Ta gật đầu: “Thật.”
Nụ cười cậu dần phóng đại, toét miệng không khép lại nữa.
Thạch Thu Phong thu lại đàn tam huyền, hai ta ngồi sóng vai trên thềm đá, đợi xem mặt trời mọc. Sắc trời dần sáng, bầu không trắng nhờ. Đêm lạnh rút lui, ban mai ló rạng, mặt trời đỏ ối dâng lên, nắng sớm từng tấc xé tan bầu trời đen như gỗ mun.
Tảng sáng.
Lúc nắng mai chiếu khắp, Thạch Thu Phong nói: “Sau này chị cẩn thận chút, đừng để mất Cục Đá, mèo con dễ chạy lắm. Có Cục Đá bên cạnh, chị sẽ không cô độc nữa.”
Ta quay sang nhìn cậu, mặt mũi cậu được bao phủ trong ánh mặt trời, mơ hồ không rõ, có thể thấy loáng thoáng đường nét góc cạnh: “Cậu cảm thấy tôi rất cô độc?”
Cậu không đáp, nhìn ra đằng trước.
“Lần đầu tiên thấy chị, chị đi vào quán rượu nhỏ, thu ô giấy dầu, áo đen buông rủ, chân trần guốc gỗ, sau lưng chị mưa như trút nước. Trong thoáng chốc ấy, mắt mày, tư thái chị cực kì giống…”
Cậu ngửa đầu nhìn tuyết rơi lặng lẽ trong sân nhà.
“Cực kì giống một con mèo con màu đen.”