Nhật Ký Xuyên Thanh

Chương 31: 31: Tết Ban Kim



*Ngày 13 tháng 10 là tết Ban kim của người Mãn và cũng là ngày lễ đáng nhớ nhất của họ, bởi đây là ngày kỷ niệm dân tộc Mãn ra đời, đánh dấu ngày hội của toàn dân tộc.

Hằng năm cứ vào ngày này, người Mãn sống ở khắp nơi trên toàn quốc đều sẽ ăn tết theo nhiều kiểu khác nhau.

Tết Ban kim không có liên quan gì tới tiền bạc châu báu, tiếng Mãn của ngày tết này là “Banjin inenggi”, “Tết Ban kim” tức là “Ngày ra đời”.
Mãi đến cuối tháng chín, khi tiết trời mát mẻ hơn, tinh thần của mọi người trong triều đã không còn căng như dây đàn nữa.

Trong phủ Tứ a ca, phúc tấn không kìm được phải niệm một câu Phật trong làn gió đêm dần ngấm hơi giá: “Đợi mãi trời cũng mát rồi.

Vậy thì dịch bệnh sẽ không còn lan rộng nữa.”
Phúc ma ma cũng cười nói, “Nhờ có hoàng thượng phù hộ, trời cao có mắt.”
Khoảng thời gian này trong kinh quả thực là lòng ai cũng lo ngay ngáy.

Tháng bảy Hoàng Hà gặp nạn lụt, tháng tám Sơn Đông rối beng vì hạn hán, kéo theo đó là Đông Bắc mất mùa túng quẫn, đẩy con người vào cảnh lầm than khốn cùng*.

Sau khi tấu chương đưa vào Kinh, rốt cuộc hoàng thượng cũng hạ chỉ cho mở kho thóc nhà nước ở Sơn Đông, ban phát lương thực, cứu tế nạn dân.

*Nguyên văn là “Dịch tử nhi thực”: Vào thời Xuân Thu khi nước Tống bị vây, trong thành cạn kiệt lương thực, bá tánh chỉ còn cách đem con đi đổi với người khác, giết đứa bé ấy làm thức ăn cho mình.

Về sau “Dịch tử nhi thực” được dùng để hình dung cuộc sống cực kỳ bi thảm của nạn dân.

Khi dòng nước rút, dịch bệnh lập tức bùng phát rộng ở các vùng lũ lụt và trong nhóm nạn dân.

Để tránh nguy cơ dịch tràn vào trong Kinh, khắp các nơi bắt đầu ngăn chặn nạn dân, từ đó khiến những tai nạn thảm thương phát sinh càng nhiều.

So với những điều này, trong Kinh tương đối yên ổn hơn, ngoài cuộc bàn cãi về việc chọn người đi cứu trợ thiên tai, thì các vương phủ, dinh quan không còn “kham khổ” như dạo trước nữa.

Mấy gánh hát của Sơn Đông vào Kinh đều bảo mua được rất nhiều hạt giống tốt, nếu đào tạo tử tế thì ắt sẽ lại có thêm một đào kép tiềm năng ra đời.
Trước đó phúc tấn hãy đương buồn phiền chuyện điền trang mà Nội vụ phủ cấp khi mới dựng phủ không có tá điền giỏi.

Kết quả là gần đây cả người môi giới của quan nha lẫn tư nha đều vào phủ nói chuyện, báo rằng hiện giờ giá mua người rất rẻ.

“Chỉ coi như làm việc thiện vậy, các bà nhẹ nhàng nhấc tay một cái, là đã cứu được tánh mạng cả nhà ấy rồi.” Người làm mối vào phủ không gặp được phúc tấn, Trang ma ma và Phúc ma ma đành cùng đi xem.

Nếu muốn chọn người, ắt phải hỏi xem lai lịch quê quán thế nào, có thân nhân bằng hữu gì hay không.

Tuy người mua nhiều, song cũng không thể tùy tiện chọn những hạng kỳ cục, xấu xí được.

Hai bà xem xong, chưa quyết định ngay bây giờ, mà phải quay về bẩm báo với phúc tấn, sau đó phúc tấn sẽ đưa ra quyết định.

Phúc ma ma gặp được phúc tấn trước, nói: “Nói ra thì người của quan nha đắt hơn một chút, vả lại thân phận gốc gác hầu hết toàn tội dân.

Người ở tư nha khá hơn, giá cả phải chăng, hơn nữa nghe nói tất cả đều là những tay lao động khỏe mạnh.”
Phúc tấn lại hỏi Trang ma ma.

Trang ma ma tuy xuất thân từ Nội vụ phủ, nhưng cũng đề nghị phúc tấn mua người bên tư nha đưa tới, lý do là sẽ bớt phần rầy rà.

Bà ta nói: “Nếu phúc tấn muốn mua người thì tốt nhất nên mua nhanh.

Những người do phía môi giới dẫn đến hầu như người nào cũng vì quê hương gặp nạn nên mới trôi dạt tới nơi đây, không ở được bao lâu, e rồi lại phải cho họ về quê hết.

Lúc ấy thì dù có tiền cũng chẳng mua được.”
Thiên tai qua đi, việc nạn dân trở về luôn là một vấn đề lớn, triều đình buộc phải hạ lệnh không được thu nhận những người không rõ nguồn gốc, các hạng quan phủ thừa cơ làm tiền như đám môi giới sẽ bị theo dõi gắt gao.

Các nơi sẽ phát cáo thị thông báo cho dân chúng biết, phải kiểm tra kỹ từng cuốn hộ tịch vàng.

Những kẻ không tra ra được nguyên quán sẽ bị gông lại cho thả về, thế thì nhóm người về quê cần phải trả thêm sưu dịch, thực là khổ không sao kể xiết.

Tuy nhiên người trên có chính sách, kẻ dưới lại có đối sách.

Những hạng thủ đoạn thông thiên như gánh hát cũng chỉ xem tiền có nhét đúng chỗ hay không, còn như phủ Tứ a ca thì vốn sẽ không bị ai hỏi.

Thế nên chỉ cần mua đứt người, là đã thành gia nô của phủ Tứ a ca rồi.

Sau rốt phúc tấn mua sáu mươi tư người.

Trong đó chỉ có mười hai người bên quan nha, còn lại đều là của bên tư nha, giá người hai bên chênh nhau gần một nửa.

Và cuối cùng phúc tấn cũng có thể bắt tay vào việc thay người cho điền trang.

Điền trang do Nội vụ phủ cấp tới đa phần đều từng có chủ sở hữu, nguyên có một số điền trang tịch thu từ những quan lại phạm tội.

Chưa bàn đến chuyện người trong đó từ quản sự đứng đầu cho đến tá điền xếp dưới kẻ nào kẻ nấy đều trí trá gàn dở, ít nhất cũng có một bộ phận lớn rất thích lá mặt lá trái với nhau.

Phúc tấn không có hơi đâu dây dưa với họ, nhân dịp này dứt khoát thay máu hết cho xong.

Tịch thu tài sản những người bị thay xong, sẽ bán ra ngoài hết; trước kia bất kể ăn vào bao nhiêu, hiện giờ phải nôn ra tất tần tật.

Lại có bao nhiêu kẻ máu mủ chia lìa, khóc trời trách đất, không thể biết hết được.

Trong phủ Tứ a ca, lại phải chuẩn bị đón tết Ban kim.

Lần này bình an vượt qua được tai họa, từ hoàng thượng đến triều thần đều rất đỗi vui sướng.

Vừa khéo đến tết Ban kim, để chúc mừng và cũng vì muốn quét sạch bầu không khí căng thẳng bức bối trong Kinh, hoàng thượng quyết ý mở một bữa tiệc triều nhỏ, cho đám tôn thất gần chi họ và các đại thần thân thiết vào cung tiệc tùng xem hát.

Xét ra thì ai nấy đều có họ hàng liên quan tới nhau, nên bữa tiệc này cũng tương đương với tiệc nhà.

Hoàng thượng nhắc chuyện ấy trong buổi thiết triều, người phía dưới đua nhau góp vui.

Ai cũng biết tâm trạng hoàng thượng đang tốt, không nhân cơ hội này lộ mặt ra thì còn đợi chờ gì nữa? Đồng Quốc Duy* bèn hỏi xin hoàng thượng thêm mấy chỗ ngồi, để đem lũ cháu con trong nhà vào hòng mở mang tầm mắt.

*Đồng Quốc Duy (1643 – 1719) thuộc gia tộc Đồng Giai thị, em trai của Hiếu Khang Chương hoàng hậu, cậu của Khang Hi đế.

Hoàng thượng cười nói: “Con cháu nhà mình cả, chúng vào đây thực, trẫm lại cho chúng đứng được chắc?”
Đồng Giai thị luôn được nể mặt hết mực, không hề giống với những gia đình khác.

Nhưng các gia tộc khác cũng đâu ngồi không, giương mắt nhìn cả nhà Đồng Giai thị một mình chiếm thế? Đợi khi kết thúc buổi chầu, nhóm chủ tử các cung trong hậu cung gần như đều đã biết tin cả, những người tự thấy nhà mình xứng đáng có được vinh dự này đều nghĩ cách chuyển lời cho hoàng thượng.

Trong Chung Túy cung, Huệ phi gọi Đại a ca vào, nói: “Lần này hoàng thượng dặn gấp, chúng ta biết muộn.

Nhưng dẫu muộn cỡ mấy thì trong tiệc vẫn có chỗ cho Nạp Lan thị*.

Ta không sợ hoàng thượng quên đi mất, mà chỉ sợ những đứa tiểu nhân ấy quấy phá, xếp nhà chúng ta ở xó nào hẻo lánh, để rồi hoàng thượng không trông thấy được, hỏi đến lại không biết giấu mặt mũi đi đâu.”
*Mẫu tộc của Huệ phi.

Đại a ca cười nói: “Ngạch nương cứ khéo nghĩ vẩn vơ.

Con trai người lớn thế này, đứng ở đấy, ai dám không nhìn thấy?”
Huệ phi nói: “Con ư? Con lại nổi bần bật! Đã nói biết bao lần, phải bình tĩnh, phải bình tĩnh.

Bên cạnh hoàng thượng đã có một thái tử, con không thấy dáng điệu nó thế nào hay sao? Giờ con ở ngoài, hoàng thượng lười quản thúc con.

Nhưng ta không tin, là hoàng thượng lại ít mắng con đâu.”
Hai mẹ con không ai nói gì nữa.

Một lúc sau, Huệ phi hạ thấp giọng, nói: “Con nhìn ngày trước xem, chỉ nói Quảng Lược Bối lặc* thôi, giờ ông ta đâu rồi? Những a ca xếp đầu như ông ta có kết cục gì? Còn Thái Tông là Bát a ca, khi ấy ngài đâu hề là đứa con được sủng ái nhất.

Nhưng con nói ta nghe xem, người đứng hàng trước nhất và người được sủng ái hiện giờ ra sao? Hậu nhân của họ thì thế nào?”
*Quảng Lược Bối lặc (Chử Anh) là con trai cả của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích, từng được vua cha xác nhận là người kế vị.

Tuy nhiều lần lập chiến công, nhưng do tính tình kiêu ngạo, coi khinh người khác nên Chử Anh không được lòng nhiều đại thần.

Về sau, Chử Anh bị năm vị đại thần khai quốc và một số người em vốn bất hòa với mình tập trung công kích.

Do đó Chử Anh dần mất đi sự tín nhiệm của vua cha, bị tước bỏ binh quyền.

Cuối cùng ông bị tố cáo và chết trong ngục, mẹ ông vì chuyện này mà bị tước vị Chính thất.

Vừa nói đến chủ đề này, đã làm người nghe toát hết mồ hôi lạnh sau gáy.

Huệ phi nói: “Ta sinh hai huynh đệ các con, chỉ mình con sống sót.

Những mong con được điều tốt đẹp, không mong làm vướng chân con.

Có một số chuyện không thể đi sâu, không thể nghĩ nhiều.

Nhưng tự trong bụng chúng ta phải tỏ tường.

Con…!nay ngoài kia người người gọi con là Đại thiên tuế, ta nghe mà lòng dạ phát run…”
“Ngạch nương…” Đại a ca quỳ một gối xuống, nắm lấy một bàn tay Huệ phi.

Huệ phi đã ngót tuổi tứ tuần, bà lớn lên cùng hoàng thượng.

Lúc thường dung quang rạng rỡ chẳng đoán được tuổi, giờ đây đâm lòng xót xa, dáng vẻ già nua đều hiện ra cả.

Bà kéo tay Đại a ca, khẽ khàng nói: “A Lâm của ta ơi, ngạch nương chỉ ước sao con sừng sững hùng tráng như núi Trường Bạch, chẳng mong con là cánh chim bay ở đầu đàn kia.”
Trưởng tử Thừa Khánh của Huệ phi mất lúc vừa qua một tuần tuổi, năm thứ hai bà hạ sinh Đại a ca.

Sau khi sinh đứa nhỏ này, ban đầu hoàng thượng không dám đặt tên cho y, khi ấy con trẻ trong cung không nhiều.

Huệ phi lẳng lặng lấy cho y nhũ danh bằng tiếng Mãn, mang nghĩa là “núi”.

Với hy vọng đứa bé này sẽ được mạnh khỏe, trường thọ như một ngọn núi.

Thuở bé lúc Đại a ca chưa vào A Ca Sở, thường đêm đêm Huệ phi lại ngồi bên giường nắm bàn tay bé con con kia, khẽ gọi nhũ danh của y.

Có lần Đại a ca chưa ngủ, nghe thấy bèn hỏi Huệ phi rằng tên ấy nghĩa là gì, Huệ phi ôm y bảo: “Ngạch nương muốn gọi con lại, để con đừng chạy xa, không cần ngạch nương nữa.”
Từ đó về sau, Huệ phi không còn sinh thêm đứa con nào, một tay bà nuôi nâng Đại a ca khôn lớn, vừa cao vừa mạnh hệt như nhũ danh của y.

Đại a ca tựa trán xuống đầu gối Huệ phi, vành mắt nong nóng thì thào gọi ngạch nương, sau đó đứng dậy lau mắt, cười nói: “Ngạch nương yên tâm, A Lâm của người không khờ dại như thế.”
Y cúi đầu nghĩ ngợi, nói: “Chuyện chỗ ngồi con sẽ đi xem xét, không cần qua tay người khác, chỉ cần tìm Nội vụ phủ là được.

Chỗ thái tử dù có tiểu nhân muốn giở trò, để con đi nói chuyện với thái tử, chắc chắn đệ ấy sẽ kiểm soát người dưới trướng mình.”
Huệ phi dặn dò y: “Con và thái tử cãi tới cãi lui vậy cũng khá.

Vừa không cần tốt quá, vừa không bị dở quá.

Ngoài kia có bao con mắt rình rập đấy.”
“Lòng con biết cả.” Đại a ca gạt bím tóc trước ngực ra sau lưng, nhét vào dây đai, “Nhi thần về đây, buổi tối ngạch nương hãy ngủ sớm, đừng nhặt gạo Phật gì nữa, quỳ hỏng cả chân rồi.”
Huệ phi cười nói: “Ngạch nương nghe A Lâm.

Đi đi con.”
Ngoài Chung Túy cung của Huệ phi, Dực Khôn cung của Nghi phi lại đương mừng vui khấp khởi.

Hoàng thượng sai người truyền lời rằng lúc nữa sẽ sang đây, Nghi phi vội vội vàng vàng dỗ cho Cửu a ca đi.

Cửu a ca không chịu, túm lấy mép áo choàng của Nghi phi đè lên ghế kê chân, nằng nặc đòi Nghi phi đổi cho mình một bộ cung tên mới.

“Không được.” Nghi phi liếc mắt phượng, nhìn hộ giáp của mình, bảo: “Bộ kia năm ngoái hoàng thượng mới thưởng cho con cơ mà.”
“Sức nhi tử lớn hơn rồi.” Cửu a ca muốn một bộ bằng sừng trâu.

“Ồ?” Nghi phi cười tủm tỉm, trên mặt in dòng chữ “Ta không tin”.

Cửu a ca nói: “Con bắn được vào một tảng đá rồi.”
“Nói phét.” Nghi phi nói thẳng không vấp chữ nào, bà nhìn cung nữ đứng bên, cung nữ đưa tay ra hiệu với bà.

Thấy sắp đến giờ, bà không nhì nhằng với Cửu a ca nữa, thẳng tay nhét nó vào lòng nhũ mẫu: “Khẩn trương lên, ném thẳng nhõi này ra ngoài cho ta.”

Cửu a ca hầm hè đẩy nhũ mẫu ra, chạy biến đi nhanh như chớp.

Nhũ mẫu, ma ma và cung nữ thái giám đều hớt hải đuổi theo.

Trong phòng, Nghi phi thở phào, nói: “Cãi ông nhõi con này chỉ được cái nước khéo làm khổ ta.” Cô cô đứng cạnh dâng chén trà, cười nói: “Ngoài miệng nương nương mắng dữ vậy, chứ trong lòng thương Cửu a ca không để đâu cho hết.”
Lúc này Nghi phi mới cười nói: “Nó là miếng thịt rơi ra từ trên người ta, không thương nó thì thương ai? Cũng chẳng biết sao thằng bé này lại ham thích thứ cung sừng trâu kia…!Ta nhớ hình như chỗ hoàng thượng có mấy bộ.”
Cô cô nói: “Nương nương cứ từ từ, phải xem tâm trạng hoàng thượng tốt lên hẵng nhắc.”
Nghi phi gọi người đem hộp trang điểm tới, dựng tấm gương lên soi xem phấn son có trôi mất đi không, nhìn vào gương cười đến là ngọt ngào, nói: “Hôm nay tâm trạng hoàng thượng sẽ tốt thôi.”
Trong Vĩnh Hòa cung, Thập Tứ a ca đương sáp lại bên chân Đức phi, nói: “Hai ngày trước lúc thái tử sang đây có cầm một bộ cung sừng trâu, con đã thấy ánh mắt Cửu ca và Thập ca bất bình thường, cứ nhìn chòng chọc vào cái cung ấy.”
Đức phi ôm lấy nó: “Con cũng muốn à?”
Thập Tứ vội đáp: “Nhi thần không muốn.”
Đức phi vỗ người nó, bảo: “Cung gì mà chẳng dùng như nhau, bắn ra rồi cũng giết địch như nhau cả.

Thái tử là thái tử, Cửu a ca là Cửu a ca.

Con đừng so bì với người ngoài.

Nhìn Tứ ca xem, con đã thấy Tứ ca của con đòi xin ngạch nương đồ gì bao giờ chưa?”
Thập Tứ a ca bất bình nói: “Huynh ấy lớn tướng thế rồi…” Nói chưa dứt lời, bắt gặp ánh nhìn không tán thành của Đức phi, nó ngậm miệng ngay.

Đức phi chỉnh lại cổ áo cho nó, vỗ vai nó bảo: “Được rồi, về A Ca Sở đi.

Nhớ khi về phải luyện chữ, đừng học theo lão Bát.

Hoàng thượng nói chữ nó bao nhiêu lần rồi vẫn không thấy tiến bộ, con muốn giống nó à?”
Thập Tứ đứng để Đức phi sửa sang lại áo quần, xen miệng bảo: “Đó là tại Bát ca muốn hoàng a mã nhớ tới mình nhiều hơn, cứ làm như không ai nhận ra vậy.

Khi nào con cũng…” Nói rồi lại phải nuốt ngược về vì cái nhìn của Đức phi.

Sau khi nó đi, Đức phi nói với ma ma bên cạnh: “Thằng bé này thực không hiểu lẽ gì.”
Ma ma nói: “A ca còn nhỏ, lớn lên là tốt thôi.”
Đức phi nín thinh, hồi lâu sau, chầm chậm thở dài, nói với giọng khô khốc: “Hoàng thượng bảo muốn làm cỗ nhà, Đồng Giai thị bảo muốn dẫn hết con cháu trong nhà vào đây.

Bên Nạp Lan thị nhất định có người vào, Đại a ca còn lừng lững ở đó kia.

Ban nãy nghe người ta bảo hoàng thượng sang Dực Khôn cung, nghĩ chắc Quách Lạc La thị cũng có được một, hai chỗ.”
Ma ma cúi đầu, không dám đỡ lời.

Đức phi cũng không nói tiếp.

Còn bà thì sao? Ha ha, hoàng thượng sẽ không để một nô tài vào ngồi đó.

Cả một hoàng cung, chỉ mình nhà của Đức phi bà là không có chỗ.

Tết Ban Kim ngày mười ba tháng mười.

Hoàng thượng thiết tiệc ở Bảo Hòa điện, người đang ngồi có từ Đại a ca đến Thập Tứ a ca; trong tông thất có Dụ Thân vương xếp đầu, ngồi gần hoàng thượng nhất, Cung Thân vương theo sau.

Thái tử và Đại a ca đang nâng chén thay họ hàng, họ kính xong một vòng, còn lại mấy chàng a ca lớn cũng chia nhau lên kính rượu.

Tam a ca và Tứ a ca thì có phần khó xử.

Trong những người đang ngồi ấy mà không hề có một người là thân thích nhà mẫu phi họ.

Nhà Ô Nhã thị không người nào đứng ra thể hiện được; Vinh phi xuất thân từ Mã Giai thị, có lẽ cũng đã bị hoàng thượng cho vào quên lãng.

Tam a ca vội kính rượu xong rồi về chỗ, Tứ a ca cầm bầu rượu không tiện chạy trốn, bèn đứng ngay sau Đồng Quốc Duy.

Lúc hoàng thượng cùng uống với Đồng Quốc Duy, Tứ a ca rót đầy chén cho Đồng Quốc Duy hai lần.

Kính xong, Đồng Quốc Duy quay về, kéo Tứ a ca lại thân mật bảo: “Tứ a ca cũng về chỗ ăn ít gì đi, để tự thần làm là được.” Đoạn quay đầu gọi con là Long Khoa Đa, sai đưa Tứ a ca về chỗ ngồi.

Long Khoa Đa cung kính đưa Tứ a ca về.

Tứ a ca đương nhiên không thể cứ để ông ta đi như thế, bèn giữ lại rồi hai người đối ẩm ba chén, sau Long Khoa Đa mới chắp tay lui xuống.

Hậu cung không mở tiệc, dù sao nạn lớn vừa qua đi, triều định vẫn phải sống ngày đơn giản, chỉ đặt bàn cỗ nhỏ trong cung của vài vị phi tử.

Trong Vĩnh Hòa cung, mẹ ruột của Thất a ca là Đới Giai thị và mẹ ruột của Thập Tam a ca là Chương Giai thị đương ngồi với Đức phi, đằng dưới có Tứ phúc tấn ngồi.

Gương mặt Đức phi tỏa nét cười dịu dàng, song lại không thấy đâu nhiệt tình, nói cũng chỉ có mấy câu ít ỏi.

Là vãn bối, Tứ phúc tấn không thể phô trương quá; Đới Giai thị ngoài nói mấy câu góp vui lúc nâng chén chúc tụng, quãng tiệc còn lại chỉ lầm lũi gắp ăn từng hạt bạch quả trên cái đĩa trước mặt.

Chương Giai thị thì lại rất khéo nói, có bà làm đệm, bữa tiệc cũng không quá đìu hiu.

Ăn từ mười giờ sáng đến tận bốn giờ chiều, dùng một bữa cơm và hai bữa điểm tâm.

Đức phi nhìn sắc trời ở ngoài, nói: “Ta thấy cũng hòm hòm rồi.”
Dứt câu ấy, ba người còn lại đều đứng dậy cáo từ.

Đức phi nói: “Bắt các muội ngồi đây với ta, thực là làm khó các muội quá.” Nói hết lời khách sáo, cung nữ đứng bên bưng ra ba cái khay.

“Mấy món đồ này ta không dùng được, các muội còn trẻ, bình thường đừng để mình chịu thiệt quá.”
Đới Giai thị và Chương Giai thị khách sáo thêm đôi câu nữa rồi lui xuống, Tứ phúc tấn lại muốn ở đợi Tứ a ca.

Đức phi liền chỉ vào đồ trong khay, nói: “Đây là trà Tây Tạng thái hậu thưởng, chắc đám trẻ các con không ham, nhưng ta lại thích vị này, uống vào không nhạt nhẽo như những thứ trà khác.”
Phúc tấn bèn đáp: “Nhi thần cũng thích trà này, trà lần trước ngạch nương thưởng đã uống gần hết rồi.”
Đức phi cười nói: “Con thích là tốt.”
Tán gẫu dăm ba câu, hai người không còn gì để nói nữa.

Đức phi có vẻ mệt mỏi, tựa vào gối khép mắt nghỉ ngơi.

Phúc tấn lặng lẽ đi tới cạnh bà, xoa bóp vai cho bà.

Đức phi ngẩn ra, nghĩ rồi lại thấy không ổn, đành nhịn thế cho nàng bóp.

Độ chừng một khắc bà lại ngồi dậy, nói: “Cực cho con rồi, con ngoan, qua đây ngồi đi.

Ta thấy lão Tứ sắp về đấy.”
Nghĩ đến chuyện trong tiệc, Đức phi dặn một câu hiếm hoi: “Lát nữa về, con hãy vỗ về, giải phiền cho nó.” Ngưng một lúc rồi thở dài, “…!Chuyện xuất thân…!thực không thể trách người khác được.”
Lúc sáu giờ, yến tiệc đằng trước rút cục đã xong.

Hoàng thượng sai thái tử và Tứ a ca đi tiễn người của Đồng Giai thị, Đại a ca tiễn Cung Thân vương, Dụ Thân vương được hoàng thượng đích thân dắt tay ra đến cửa.

Khi khách khứa ra về cả, hoàng thượng giao những việc còn lại cho thái tử, bảo Đại a ca và mấy a ca đã dựng phủ mau chóng về nhà, sau đó gọi hai tiểu a ca là Thập Tam và Thập Tứ cùng về hậu cung.

Người không được ngài gọi đành quay về A Ca Sở.

Lúc Cửu a ca và Thập a ca đi, giậm chân bình bịch, ấm ức thầm chửi theo bóng Thập Tam, Thập Tứ: “Đồ nịnh thần.”
Tứ a ca về Vĩnh Hòa cung đón phúc tấn, chàng chưa đến nơi, chuyện ở tiệc đã truyền về hậu cung.

Đức phi sai người đưa phúc tấn ra xong, ma ma mới thầm kể bà nghe chuyện Tứ a ca đứng sau lưng Đồng Quốc Duy.

Đức phi biết chuyện, hồi lâu không nói gì, sau đó mới khó nhọc cất lời: “…!Trách nhà mẹ đẻ ta không có ai, làm a ca mất cả thể diện.”
Trên đường ra khỏi cung, phúc tấn ngồi trong xe, Tứ a ca cưỡi ngựa theo bên cạnh.

Nàng vén tấm mành cửa sổ xe, xem thần sắc chàng không vẻ gì là không vui.

Có nhẽ vì ở Vĩnh Hòa cung ấy có tấm lòng từ mẫu, thành ra nghĩ cũng nghiêm trọng hơn chăng.

(còn tiếp)
Lời tác giả: Xin nói một chút về điểm chính trong cốt truyện của bộ truyện này.

Cốt truyện vẫn phải tiếp tục, và cũng sẽ có tình tiết nghiêm trọng nặng nề để cho thấy sự tương phản.

Tui muốn cho Lý Từ ngây thơ từ đầu tới cuối, và để sự ngây thơ ấy được gìn giữ thì thế giới mà ẻm nhìn thấy phải rất nhỏ.

Sự sủng ái của Tứ a ca đã tạo dựng nên một thế giới chỉ có tình yêu trai gái, hằng ngày chỉ cần lo ăn gì chơi gì.

Cả nhà đừng kỳ vọng rằng ẻm sẽ có điểm sáng về mặt tinh thần.

Nhiệm vụ hiện thực hóa giá trị cá nhân, tiến bộ và tiến hóa đòi hỏi phải liên tục thúc giục bản thân, tự gò ép mình, đi nhầm đường rồi lại sửa sai – tất cả được giao cho phúc tấn.

Truyện này là kiểu truyện ngọt sủng tui đã muốn viết từ rất lâu, muốn ngọt mà không ngấy.

Để trung hòa cái sự ngọt này thì phúc tấn sẽ là đắng, Tứ a ca là mặn, Niên thị là chua.

Còn lại là mấy nguyên liệu đi kèm.

Mỗi nhân vật đều có cuộc đời riêng của mình, chỉ mình Lý Vi là luôn được bàn tay vàng của tui che chở.

Ẻm sẽ vô tư vô lự, sống hết đời này trong hạnh phúc mỹ mãn.

Còn người khác thì tui hem chắc ^^.

.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.
Nhật Ký Xuyên Thanh

Chương 31: Chó sư tử



Sau tết Ban kim, Tứ a ca được dịp thanh nhàn hiếm hoi. Thi thoảng vào cung một lần, đọc sách với thái tử, đi thăm Thập Tứ. Chàng nghe nói dạo gần đây Thập Tứ dù ở Thượng thư phòng hay thao trường cũng đều rất chăm chỉ, chẳng những giải văn, đọc thuộc hơn xa Thập Tam bằng tuổi, ngay đến Cửu a ca và Thập a ca cũng không phải đối thủ của nó.

Trên thao trường, Am đạt yêu cầu nó kéo cung năm mười lần, nó sẽ kéo một trăm lần; bảo nó ngắm bắn ở cự ly hai mươi bộ*, nó lại đứng cách ba mươi bộ để bắn, và còn bắn trúng bia thực, làm Cửu a ca đứng cạnh nhìn tức nổ hết đom đóm mắt.

*Bộ là đơn vị đo chiều dài cũ, mỗi bộ bằng 5 thước.

Tứ a ca rất lấy làm vinh hạnh. Đây là đệ đệ của chàng, đứng trên cơ luôn cả Cửu a ca lớn hơn nó vài tuổi. Chàng đi một chuyến thăm riêng Thập Tứ, nhìn thấy bộ cung sừng trâu mình tặng được treo ngay trong phòng ngủ của nó. Thập Tứ còn nghiêm túc bảo: “Đệ phải siêng năng để sớm ngày được dùng cung Tứ ca tặng đệ!”

Chàng cũng đến Vĩnh Hòa cung thỉnh an. Thoạt trông Đức phi như hoàn toàn không để bụng chuyện hôm đó, vẫn đối đãi với chàng như xưa. Ba phần nóng, bảy phần lạnh.

Nhưng điều ấy lại khiến Tứ a ca thấy nhẹ nhõm, vì Đức phi cố ý nhắc tới bộ cung chàng tặng Thập Tứ a ca: “Trước đệ đệ con có bảo với ta, ta không đồng ý, hiếm khi con tặng nó một bộ, làm nó tí tởn suốt ngày.”

Lúc ấy Tứ a ca rất vui, nói: “Sao ngạch nương nói vậy? Nó là đệ đệ ruột của con, giờ con đã dựng phủ, nó muốn gì, chỉ cần con tìm được, ắt sẽ đào hết ra cho nó.”

Đức phi bình thản nói: “Không thể cứ nuông nó hoài như thế được. Lúc bé con chưa từng đòi hỏi những thứ gì linh tinh, có muốn thì cũng tự chịu khó học hành kéo cung, để hoàng thượng thưởng cho con. Tiểu Thập Tứ cũng nên noi gương con mà học.”

Tứ a ca khuyên nhủ: “Nó còn nhỏ, huống hồ có ca ca là con ở đây. Bằng không còn cần con làm gì?”

Cần con làm gì?

Đức phi muốn nói điều gì, cuối cùng lại dằn xuống cả.

Tảng đá đè nặng trong lòng Tứ a ca đã được trút bỏ, liền có tâm trạng ngó sang việc khác. Trước đó Long Khoa Đa nói muốn tìm người cùng đi săn thú, ngỏ lời mời riêng chàng và Ngũ a ca. Tứ a ca nghĩ đây là một cơ hội, lúc ấy nhận lời luôn miệng, lúc về bèn suy nghĩ xem phải chuẩn bị những đồ gì.

Sau đó, một chỗ chỉ có hai gian phòng nằm ở cuối hoa viên bất ngờ được dựng bức tường quây lại. Mấy ngày sau, bên trong vọng ra tiếng chó sủa. Lúc khiêng bụng ra hoa viên tản bộ bỗng nghe thấy tiếng chó con sủa eo éo, hai mắt Lý Vi sáng bừng, dẫn đầu lần tìm theo tiếng sủa.

Đứng ngoài tiểu viện, Triệu Toàn Bảo ngăn nàng lại: “Cách cách, đằng trước bẩn thỉu, để nô tài đi xem xem.”

Lý Vi hưng phấn nói: “Hình như trong kia có chó, ngươi đi hỏi xem liệu có cho ta vào coi được không!” Thời ở hiện đại, nhà nàng có nuôi một em chó Poodle xoăn xù. Khi mua em Poodle về, nuôi đến năm một tuổi chợt nhận ra có vẻ đây là giống Poodle lai Phốc sóc, có điều chó nhà mình thì mình thương, nàng vẫn yêu em vô cùng!

Sau khi xuyên không, ở Lý gia nàng từng nuôi chim và cá, thậm chí còn từng cưỡi ngựa a mã nuôi ở nhà, chỉ là chưa từng nuôi chó và mèo. Vì lẽ sợ những em chó mèo sẽ cắn người, bắt người, để lại vết thương trên người nàng. Mặc cho nàng xin xỏ cỡ nào cũng vô ích.

Vào cung rồi thì khỏi nhắc nữa.

Hiện giờ chẳng ngờ lại nghe có tiếng chó con sủa trong phủ cơ đấy! Phải sờ một cái cho đỡ thèm!

Triệu Toàn Bảo đi qua dễ dàng gõ cánh cửa, nói gì đó với người ở trong, liền có một người cẩn thận ôm hai con chó bước ra, theo chân Triệu Toàn Bảo đi lại.

Triệu Toàn Bảo nói: “Cách cách, đây là chó Tứ gia nuôi để săn thú, chó lớn hung dữ không dám cho cách cách nhìn, còn con chó con mới đẻ này là con của con chó cái trong kia. Cách cách sờ thử xem.”

Hai con chó con thoạt nhìn như vừa đầy tháng, cái mình sữa phúng phính. Cả hai con đều không sợ người lạ, đầu ngúng nguẩy tới lui, cặp mắt đen dáng như hạt hạnh nhân trông cực kỳ lanh lợi. Trong chúng có một con lông thuần vàng, con kia thuần đen, với mõm trước dài, lỗ tai nhỏ, nom giống những con chó cỏ.

Lý Vi ôm từng con, nếu không vì bụng lớn, nàng còn muốn chơi thêm một lúc với lũ chó con này. Triệu Toàn Bảo và Ngọc Bình nhìn chằm chằm, thấy nàng ôm rồi là giục nàng đi ngay.

Trên đường về, Lý Vi cứ quyến luyến ngoái đầu nhìn, liên tục khen chó kia mới đáng yêu, dễ thương làm sao. Ngọc Bình và Triệu Toàn Bảo lo lắng liếc nhau, bắt đầu khuyên nàng.

Ngọc Bình bắt chước nói y như lời ngạch nương răn lúc ở Lý gia: chó con răng lợi sắc nhọn, ngộ nhỡ vô tình cắn cách cách bị thương, để lại sẹo thì làm sao bây giờ?

Lý Vi không cách nào “kính nghiệp” như Ngọc Bình nói được. Dù tay nàng có bị chó con cắn mất một miếng thật, chẳng nhẽ Tứ a ca sẽ vì thế mà không còn thích nàng nữa ư? Vả chăng được nhà nuôi, chó sẽ không cắn người trong nhà. Trừ phi chủ nhà không biết đường dạy chó.

Triệu Toàn Bảo lại nói: chó này là chó Tứ a ca dùng đi săn, sẽ dùng đến cả chó con. Hôm nay trông thấy chỉ là tình cờ, còn ngày nào cũng đến xem thì ắt là không ổn.

Nhưng Lý Vi phải ra hoa viên dạo bộ đều đặn mỗi ngày, nghe tiếng chó con sủa lại không kìm được rảo bước chân sang bên đấy. Người trông vườn chó cũng có ý nịnh bợ, thấy nàng thích, thế rồi cho luôn chó lớn dắt chó bé ra ngoài loanh quanh.

Vậy nên Lý Vi cũng được diện kiến “chó săn” của Tứ a ca. Nhưng chó này không giống loài chó lai sói như trong tưởng tượng của nàng, mà trông bụng thon chân dài giống loài chó săn xám của Ý hơn*.

Trung Quốc cũng có chó săn xám Ý à? Người Tây Dương đem sang à? Nhưng nom cái đầu lại không giống lắm.

“Đây là chó gì?” Nàng tò mò hỏi, muốn ghé sát vào soi. Lại gần hơn mới biết chó này rất cao, đeo vòng xích cổ bằng da, sợi dây xích da được người chăm chó nắm chặt trong tay.

Triệu Toàn Bảo sốt ruột chắn đằng trước, sợ trắng bệch cả mặt song vẫn không quên trả lời nàng: “Đây là giống chó gầy Sơn Đông*, hoàng thượng trong cung đi săn thú sẽ dùng giống chó này, vì nó chạy nhanh, giỏi bắt thỏ bắt cáo, tiếng sủa rất to, vang được xa.”

Chưa nghe bao giờ.

Đến hiện đại bị thất truyền rồi à?

Lý Vi gắng ghé lại càng gần càng tốt, thò tay muốn sờ đầu nó. Con chó hất đầu tránh bàn tay nàng, người chăm chó kêu lên những tiếng ồ ồ trầm thấp, thế là nó không nhúc nhích nữa.

Lý Vi từng nuôi chó, biết cách làm gì để gạt bỏ sự lo âu cho nó. Nàng duỗi tay ra cho nó ngửi, Triệu Toàn Bảo ra sức đánh mắt làm hiệu để người chăm chó lôi con chó đi. Lúc này sau lưng thình lình vang lên tiếng Tứ a ca: “Nằm sấp xuống!”

Con chó vốn đã sáp lại chuẩn bị liếm tay nàng, vừa thè lưỡi ra, nghe thấy tiếng ấy thì lập tức nghe lời nằm xuống.

Lý Vi ai oán quay đầu, hờn hờn gọi một tiếng: “Gia.” Sao hôm nay anh lâm hạnh hậu cung sớm thế? Nghĩ đoạn ngửa đầu nhìn trời, đoán chừng giờ cũng chỉ mới bốn giờ chiều.

Mấy hôm trước Tứ a ca đã nghe Tô Bồi Thịnh kể Lý cách cách phát hiện ra tiểu viện, ngày ngày đi ôm ấp chó con.

Chàng đi tới huýt sáo một cái, người chăm chó quỳ rạp dưới đất, chó kia vừa nghe tiếng huýt sáo là bật đứng dậy ngay, quẫy quẫy cái đuôi chạy đến ngồi xuống trước mặt Tứ a ca, ngoan miễn bàn!

Tứ a ca vươn tay cho nó liếm, xoa đầu khen thưởng nó. Lý Vi thừa cơ sờ từ đầu xuống đuôi, vừa sờ còn vừa cảm thán: Béo quá! Lông óng ả bóng lộn!

Tứ a ca thấy dáng điệu sáng rực hai mắt của nàng, thiếu điều khom người ôm con chó này vào lòng, may rằng nàng vẫn nhớ mình đang có thai, đứng sau đỡ nàng mà Ngọc Bình nóng hết cả ruột.

“Thích à?” Hiếm khi thấy phái nữ thích giống chó to kiểu này.

Lý Vi gật đầu. Thích chứ! Thực ra giống chó nàng muốn nuôi nhất hồi ở hiện đại là chó Husky đấy! Hiềm nỗi nhà cửa bé quá.

Tứ a ca nở nụ cười, dìu nàng dậy, nói: “Khi nào gia sẽ tìm cho nàng một con nhỏ hơn, để nàng nuôi.” Người chăm chó vội gọi chó về, kéo nó vào vườn chó.

Lý Vi lại rất có hứng thú với giống chó gầy Sơn Đông mới gặp lần đầu này! Đây ắt là giống chó đã thất lạc của Trung Quốc nhỉ? Nàng dắt tay Tứ a ca trở về tiểu viện, vừa vào phòng đã bảo: “Không cần đâu, gia cho thiếp nuôi con này nhé? Trông nó nhanh nhẹn quá!” Bụng thon chân dài, lúc đi đứng quả thực uyển chuyển như là nai con!

Tứ a ca lắc đầu, nghiêm giọng bảo: “Chó này mang thiên tính của thú săn mồi, nhốt nó lại trong tiểu viện thì tội nghiệp quá. Cùng lắm là nàng được dẫn nó ra hoa viên dạo một vòng mỗi ngày. Chó cũng biết buồn đấy. Để gia tìm cho nàng một con chó sư tử, nàng thích lông màu gì?”

Coi bộ không còn đường thương lượng nữa rồi. Thôi vậy chó sư tử cũng rất hay, cứ là chó thì đều đáng yêu cả.

Lý Vi nghĩ sắp sửa có một em chó, liền phấn khởi bội phần, hai tay nắm chặt tay Tứ a ca bảo: “Lông màu gì cũng được! Gia, khi nào thì chàng ẵm sang đây được?”

Tứ a ca cười: “Ngày mai. Ngày mai gia ẵm sang cho nàng ngay.”

Tối đến hai người bèn bàn chuyện chó đến rồi sẽ ở đâu, dùng bát gì ăn cơm, bát nước để ở chỗ nào, có cần sắm một ổ chó không. Lý Vi nhất mực rằng chó nên ở cùng chủ, buổi tối có thể ngủ ở phòng chính, dù sao ngày thường vốn đâu dùng đến chỗ ấy.

Tứ a ca bảo không được, xét cho cùng ấy cũng là súc sinh, vả lại chó có thói lạ ổ, nếu ban đầu cứ đổi tới đổi lui sẽ làm chúng bối rối, chúng sẽ khăng khăng cho rằng chỗ đầu tiên mình ngủ chính là ổ, rất khó sửa lại. Sau chót quyết định đặt ở chái Tây.

Còn cả chuồng chó, Lý Vi cũng đã nghiên cứu về điểm này, nàng ra vẻ uy tín bảo: “Chó do sói biến thành, sói là động vật ăn hang ở hốc, vậy nên cần sắm sửa cho nó một chuồng chó tối om để nó chui vào.” Lại còn cầm bút lên vẽ ra một chuồng chó mái nhọn nguy nga nhất trong tưởng tượng của nàng.

Chuyện này thì Tứ a ca không để ý tới, thường trong cung nuôi chó sẽ không sắp chuồng, mà đều giữ trong lồng, để thái giám nuôi chó trông nom.

Chàng cầm lấy bức tranh vẽ chuồng của Lý Vi, nhấc bút họa thêm mái hiên, vẽ miếng ngói giống vảy cá chép, dưới mái hiên còn có hai thanh xà ngang, và trước thềm có thêm hai bậc thang nữa.

“… Chuồng này bằng gỗ mà.” Lý Vi giải thích, đừng nói Tứ a ca tưởng đây là “chuồng chó” thật đấy nhé? Chuồng bằng gỗ thôi, lợp ngói trên nóc nữa là sao? Vì sao lại có cả bậc thang? Định xây chuồng bự cỡ nào?

Nàng giật nhẹ tay áo Tứ a ca, đưa tay so trước người, nói: “Gia, chuồng chỉ cao cỡ này thôi.”

Thấy vẫn chưa thỏa, Tứ a ca gác bút, gọi Tô Bồi Thịnh lấy màu vào, nói: “Vậy cũng đâu thể để nguyên một cái chuồng trụi lủi được.”

Sau đó chàng tỉ mẩn tô màu cho chuồng. Ngói nhà màu đỏ, rồi vẽ hai cây cột cũng đỏ dựng hai bên chỗ mà Lý Vi tô đen để đánh dấu là chuồng chó, trên mái hiên có kỳ lân trấn thủ được vẽ phỏng theo dáng hình chó sư tử.

Sau cuối, Lý Vi cũng góp một nét, vẽ một mũi tên trên nóc nhà và viết một hàng chữ nhỏ: “Mái nhà gỡ xuống được để vệ sinh chuồng chó”.

Tứ a ca nhìn chữ của nàng thì lắc đầu luôn.

Lý Vi ngó chữ mình viết, đúng là kém xa chàng không thể so bì, nhưng cũng gọi là ngay ngắn.

Vẽ xong bức này, Tứ a ca chưa vừa lòng, bèn lấy tờ giấy khác vẽ lại lần nữa. Chuồng chó được họa lại trông càng thêm phần bề thế, đúng thực y như là nha môn, vẽ cả cửa ra vào, trên cửa còn có môn thần, cũng là thần thú kỳ lân. Trên hai bậc thang được vẽ thêm hai con sư tử đá, Tứ a ca giảng giải: thứ này dùng để giữ chó.

Rốt cuộc cũng vẽ xong, Tứ a ca sai Tô Bồi Thịnh cất đi rồi mau chóng tìm người làm, dặn rằng chuồng chó có tấm chắn dưới đáy, vì ngăn nước vào nên sẽ làm hai lớp đáy, chừa khoảng trống ở giữa để tránh độ ẩm quá cao. Lớp dưới cùng của chuồng chó phải mài nhẵn và phết nước sơn, giúp phần đệm thịt ở chân chó không bị giẫm trúng những sợi ráp nhám.

Cần đến nửa tháng mới hoàn thành được chiếc chuồng này. Tứ a ca bảo chuồng chưa làm xong, ẵm chó con vào đây không có chuồng cho nó ngủ, vì vậy đành tạm hoãn. Nhân thời gian này Lý Vi bèn cùng đám Ngọc Bình khâu cho nó vài cái đệm.

Nếu nói làm đệm cho thú cưng là một môn nghệ thuật thì phải gọi Lý Vi là một người nghệ sĩ: mép ngoài tấm đệm phải dày ba tấc, phải may thêm mấy đường tạo thành một khoảng lõm xuống, nếu không chó sẽ không nằm vững được. Nhưng sau khi nàng làm xong xuôi, Tứ a ca luôn khen trước, sau lại dặn người làm lại cái khác.

Lý Vi tổng kết: Chắc Tứ a ca muốn bày tỏ rằng ý tưởng của nàng thì mới, tuy nhiên kỹ thuật kém cỏi quá làm chàng ngứa mắt.

Sau cuối chó con cũng được ẵm đến đây, nó vừa đầy ba tháng tuổi, chỉ cần hai tay là đã ôm trọn. Bộ lông nó mang màu nâu đậm, mắt hình hạnh nhân đen nhánh và không quá lồi như chó Bắc Kinh ở hiện đại. Mũi và miệng cũng không quá tẹt mà nhô ra trước, trông thực chẳng khác nào con sư tử con bỏ túi. Miệng há ra, tuy răng toàn là những chiếc răng sữa be bé, nhưng miệng rất rộng, cắn người chắc cũng mạnh bạo lắm.

Tóm lại: đây là một em chó tuyệt đẹp.

Đến đây cùng em chó là một thái giám nuôi chó, năm nay mới mười một tuổi, tên Tiểu Hỉ Tử.

Tứ a ca nói: “Tránh như lần trước, cả hoa cũng chẳng biết chăm, lại càng không dám để nàng nuôi chó.”

Nuôi chó là sở trường của nàng đấy!

Lý Vi kiêu ngạo nói: “Chó khác mà! Thiếp nuôi chó chắc chắn không gặp sự cố gì đâu.” Nàng ôm con chó nhỏ nằm yên tĩnh trong lòng, nghĩ một cái tên cho nó.

Tứ a ca nói: “Muốn nuôi chó lâu lắm rồi à?”

“Dạ.” Nghĩ tới đây, Lý Vi thở dài: “Ở nhà không được nuôi. Ngạch nương lo chó sẽ cắn thiếp, để lại sẹo thì không tốt.” Thế làm sao tuyển tú được.

Tứ a ca nghĩ bụng: đã vậy rồi, mà vừa nhìn thấy chó là không đi nổi nữa, chuồng chó ngủ, đệm chó nằm các thứ đều tính chu toàn.

“Đặt tên chó này là gì?” Lý Vi hỏi Tứ a ca.

Chàng nói: “Nàng nghĩ ra tên gì rồi?”

“Gọi là Sư Tử đi.” Lý Vi đặt tên lúc nào cũng vậy, con chó nàng nuôi ở hiện đại kia được đặt luôn tên là Poodle.

Tứ a ca vừa định gật đầu, thấy tên này nghe rất oai phong, nhưng nghĩ bỗng thấy sai sai, chó sư tử lại tên Sư Tử à?

“Gọi là Bách Phúc đi.” Chàng nói.

Quê quá…

Nhưng Lý Vi vẫn nhanh miệng gọi Bách Phúc Bách Phúc.

Buổi tối, Bách Phúc ngủ trong chuồng của nó. Vì chuồng to lớn quá, nên đặt ở ngoài sân. Lý Vi nhìn cái chuồng kia lại thấy như chuồng cho Husky vậy.

Đêm ấy hai người nằm trong màn tâm sự về toàn chó là chó.

Lý Vi rất hiếu kỳ rằng sao tự nhiên Tứ a ca muốn nuôi chó. Tứ a ca ngẫm nghĩ, thấy kể với nàng cũng không sao, bèn bảo: “Vài ngày nữa là đi săn thú. Vốn trước khi ra cung ta đã muốn nuôi mấy con, vừa dựng phủ nhiều việc cần làm đâm ra bỏ bê ở đấy.”

“Gia, chàng sắp đi săn thú à?” Hai mắt Lý Vi lại tỏa sáng. Bị nhốt lâu quá, nàng sắp thành đứa khờ luôn rồi, hằng ngày hết ăn lại ngủ, rất có tiếng nói chung với loài động vật nuôi lấy thịt nào đó. Ngày xưa lúc ở Lý gia còn được sang chơi nhà hàng xóm thân thích, còn được lên phố dạo đấy. Vào cung rồi thì thực là chỉ biết luẩn quẩn mãi trong miếng đất rộng ba mẫu ấy thôi.

Dựng phủ xong, chỗ ở rộng rãi hơn, nhưng mỗi ngày vẫn không được gặp một người ngoài nào, tất cả những gì Ngọc Bình nói với nàng chỉ toàn có “Hôm nay cách cách ăn gì?”, “Cách cách, thiện phòng bảo có hồng tươi”, “Cách cách, hôm nay mặc bộ đồ này có được không?”. Trò chuyện với nàng ta một lúc, câu chuyện lại chuyển ngay sang phúc tấn, Tống thị, Võ thị mất rồi.

Đã không muốn nhắc đến những người đồng nghiệp trong hậu cung của Tứ a ca, ấy mà Ngọc Bình lại chẳng dám buôn tin lá cải về Tứ a ca với nàng, nàng đương nhiên cũng không dám.

Nói chung, nàng dần cảm thấy thời gian của mình như đình trệ, ngày qua ngày lặp lại tuần hoàn như dải Mobius. Được ra ngoài nhìn ngắm thế giới, giao lưu với những người khác, có lẽ nàng sẽ sống lại được.

Tứ a ca không nói gì, chỉ ra hiệu nàng hãy nhìn bụng mình. Nàng nhìn bụng mình rồi cũng bặt thinh. Tứ a ca thấy nàng ủ ê, nói: “Đợi sinh đứa nhỏ xong, lại dẫn nàng ra ngoài.”

Tứ a ca sắp hóa thân thành Doraemon luôn rồi, muốn gì là cho nấy.

Trước đây nàng luôn cảm động trước tình yêu đích thực mà Tứ a ca dành cho nàng, hôm nay trong sự cảm động ấy lại chợt trào lên một niềm sợ hãi.

Nàng cẩn trọng đỡ bụng nhích lại từng chút một, Tứ a ca thấy nàng di chuyển nặng nhọc quá, bèn chủ động kề gần hơn về phía nàng. Từ khi nàng mang thai, dẫu hai người có ngủ chung trên một chiếc giường thì vẫn phải nằm cách nhau ba tấc.

Rút cục hai người cũng ôm lấy nhau – Tứ a ca nghiêng nửa người ôm nàng, nàng vẫn nằm thẳng ôm một cánh tay chàng. Trong không gian tĩnh lặng, Lý Vi nhẹ nhàng nói: “Gia, nếu mãi được thế này với chàng thì tốt quá rồi.”

Yêu cầu này nghe… trắng trợn quá…

Khi một người phụ nữ mong muốn được một người đàn ông yêu thương, thường sẽ đều giãi bày cõi lòng mình ra, chỉ xin sớm chiều kề cận, không mong sống mãi lâu dài. Đáng thương, đáng yêu mới khiến đàn ông thấy đáng xót, mà bằng lòng hứa hẹn.

Vậy nên phút chốc Tứ a ca không biết phải trả lời thế nào, quở trách nàng? Hay lặng im từ chối để tự nàng biết lỗi sai? Chàng nhớ Nhữ Nam vương Tư Mã Nghĩa thời nhà Tấn có một nàng ái thiếp họ Tôn, từng làm bài thơ đãi đằng khúc nhôi thế này:

Bích Ngọc vốn phận gái nhà nghèo

nào dám bấu víu lấy cành cao.

Tạ chàng một tấm chân tình ấy

lại thẹn mỹ mạo khó vẹn đầy.

Người con gái đáng thương yêu dường ấy. Tứ a ca nghĩ: giả chàng là Nhữ Nam vương này, cũng sẽ đem lòng mến thương người con gái như vậy.

So sánh ra, tài hoa của Lý thị thực là không đáng nhắc vào đâu. Cái trắng trợn ấy cũng làm người ta… khó xử…

Chàng thở dài, ấn đầu nàng vào lòng mình, không nhìn vào mắt nàng. Muốn nói đôi câu răn dạy, kết quả lời thốt khỏi miệng lại là: “Tất nhiên rồi, gia sẽ tốt với nàng thế này mãi.”


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.
ad
ad
ad