Sau ngày đó, Thường Lương Ngôn không đến nhà họ Hạ nữa. Hạ Ngọc Các cũng không còn đề cập đến chuyện đưa Ôn Nguyệt An đi chữa bệnh, nhưng đó là cô bất đắc dĩ vì nhà họ Hạ, thế nên mỗi lần nhìn cậu lại thêm vài phần căm ghét, nói chuyện với Hạ Ngọc Lâu cũng không lúc nào có thái độ tốt.
Đối với những lời cay nghiệt và ánh mắt phẫn nộ nhằm vào mình, Ôn Nguyệt An vẫn như cũ không có phản ứng, lại biến trở về như lúc cậu vừa đến đây, luôn lẳng lặng ngồi một chỗ, không hề tức giận.
Đôi khi Hạ Ngọc Lâu sẽ yên lặng ngồi bên cạnh cậu làm việc của mình, đọc sách hoặc viết chữ, nhưng lại không còn trêu chọc cậu như trước đây nữa.
Cố Gia Bội cũng phát giác mấy đứa trẻ trong nhà hơi kỳ lạ, liền đi hỏi Ôn Nguyệt An có chuyện gì, cậu chỉ nhìn ra ngoài cửa sổ thì thầm: “Hơi nhớ nhà ạ.”
Hạ Thận Bình cũng nghe thấy, nghĩ lại chuyện của mình ngày nhỏ, lại liên tưởng về lúc còn ở xưởng đồ sứ. Giang Hạc Lai cả đời vẽ tranh, thời điểm nhớ nhà cũng vùi đầu vào vẽ, quê nhà ông ta mọc nhiều mẫu đơn, cho nên thường vẽ ra hai ba cây cho thỏa nỗi nhớ. Hạ Thận Bình cả đời làm bạn với nhạc cụ, ở công xưởng không có điều kiện, bèn tự mình vót một cây sáo trúc, cũng xem như an ủi.
“Thế thì, Nguyệt An,” Hạ Thận Bình nói với Ôn Nguyệt An, “Con đi đánh đàn đi.”
Ôn Nguyệt An hỏi: “Đánh đàn sẽ không nhớ nữa ạ?”
Hạ Thận Bình nói: “Sẽ dễ chịu hơn một chút.”
Khi còn nhỏ, Ôn Nguyệt An nhớ nhà mà không về được, về sau có Hạ Ngọc Lâu chơi cùng thì không còn nghĩ đến quá nhiều. Bây giờ cậu cũng nhớ Hạ Ngọc Lâu mà không ở bên được, liền đổi thành luyện đàn.
Không phải mỗi ngày luyện tập cố định vài tiếng như trước kia, mà giống như bị nghiện, chỉ cần không có ai gọi, cậu có thể ngồi đàn cả ngày.
Cố Gia Bội có chút lo lắng, nhưng Hạ Thận Bình lại nói, nếu thằng bé thích thì không phải chuyện gì xấu, có rất nhiều nghệ thuật gia cả đời chỉ làm một chuyện.
Có lẽ đúng là không phải chuyện xấu, bởi vì từ khi Ôn Nguyệt An gần như điên cuồng luyện tập, cậu cảm thấy bản thân dường như đã khỏi hẳn rồi, cứ như đàn piano thật sự đền bù lại thứ cậu cầu mà không được, tiếng đàn một lần nữa lấp đầy thể xác trống rỗng.
Càng ngày thái độ Ôn Nguyệt An càng trở nên bình thường hơn, thậm chí Hạ Ngọc Lâu còn dám trêu chọc cậu giống trước kia: “Em tập hăng như vậy là muốn đàn thắng anh à?”
Ôn Nguyệt An liếc nhẹ Hạ Ngọc Lâu một cái, đáp: “Anh có dám thi không?”
Ý cười của Hạ Ngọc Lâu càng sâu: “Sao lại không dám?”
Dần dần, quan hệ của Hạ Ngọc Lâu và Ôn Nguyệt An giống như đã quay trở về như lúc trước.
Có một thời gian, tuy chỉ là một khoảng thời gian ngắn ngủi, trong hồi ký của Ôn Nguyệt An, từng tờ từng tờ lại ghi chép về những ngày gần như không thay đổi, ông lại bắt đầu tinh tế lặp lại, không ngại phiền mà kể hôm đó Hạ Ngọc Lâu cùng ông đánh đàn bài gì, chơi cờ đi chiêu nào, viết Hạ Ngọc Lâu thích nằm trên mặt cỏ trong sân, dùng sách hoặc nhạc phổ che lên mặt, đôi khi trên người dính cả sương sớm và cọng cỏ.
Những hồi ức đó viết rất kỹ càng tỉ mỉ, kỹ đến mức hình ảnh Hạ Ngọc Lâu nằm trên cỏ viết nhạc, viết rồi ngủ quên, bút trên tay hắn lăn xuống suối nước, bị một con cá chép dùng miệng đẩy tới đẩy lui cũng được ông chép vào hồi ký.
Qua một lúc, gió nổi lên, từng trang nhạc phổ bị gió thổi bay, một trang đáp xuống mặt nước.
Lúc Hạ Ngọc Lâu tỉnh lại bật dậy, trên tóc còn dính một hạt cỏ đầu ngựa màu xanh lục, cọng cỏ có gai móc trên mái đầu ngái ngủ của hắn, làm hắn nhìn qua không lanh lợi như ngày thường. Hắn nhìn xung quanh, nhặt từng tờ nhạc phổ rơi rụng, vừa ngâm nga giai điệu vừa đi vào nhà, đến cửa mới chợt nhớ ra: “Bút đâu rồi?”
Ôn Nguyệt An trả lời: “Ở dưới suối ý.”
Hạ Ngọc Lâu sửng sốt bật cười, trở lại vớt cây bút lên, nắm cán bút ướt sũng đứng bên dòng suối sửa nhạc phổ.
Sửa xong vào nhà, Ôn Nguyệt An gọi: “Sư ca.”
Hạ Ngọc Lâu: “Hử?”
Ôn Nguyệt An: “Anh lại đây.”
Hạ Ngọc Lâu đi qua, Ôn Nguyệt An lại nói: “Ngồi xổm xuống đi.”
Hạ Ngọc Lâu ngồi xổm trước mặt Ôn Nguyệt An, cậu giúp hắn lấy hạt cỏ đuôi ngựa trên đầu.
Bốn mắt nhìn nhau, quá gần.
Hạ Ngọc Lâu muốn nhanh chóng tách ra, liền cười nói: “Em xem, cỏ đuôi ngựa kết quả, mùa thu tới rồi, ha ha. Anh sẽ đi…… viết một một bản nhạc vĩ đại để ca tụng, khụ, mùa thu.”
“Từ từ đã.” Ôn Nguyệt An nói.
Hai ngón tay cậu còn đang cầm viên cỏ đuôi ngựa, ba ngón còn lại nhịn không được chạm vào mớ tóc rối tung vì ngủ của Hạ Ngọc Lâu, vuốt phẳng mấy lọn tóc đang vểnh lên một chút.
Trong tưởng tượng của Ôn Nguyệt An, ngón tay của cậu sẽ di chuyển xuống một chút nữa, dừng trên môi Hạ Ngọc Lâu, tỉ mỉ miêu tả chúng. Nhưng cậu không thật sự làm như vậy, cậu chỉ dám dùng ánh mắt ngắm hai cánh môi kia trong chốc lát, lập tức lùi xe lăn lại vài bước: “Sư ca, chờ anh sáng tác xong nhớ phải cho em xem đấy. Em đi luyện đàn đây.”
Rất nhanh đã đến Trung thu năm Ất Tỵ.
Chiều hôm đó, Hạ Ngọc Lâu đưa Ôn Nguyệt An đến một gian phòng đàn trong trường trung học trực thuộc Nhạc viện. Bên cạnh cửa sổ đặt hai cây đàn dương cầm màu đen đối xứng nhau, bên trên đặt hai phần nhạc phổ viết tay.
Hạ Ngọc Lâu đẩy Ôn Nguyệt An đến trước một cây đàn, cậu nhìn thấy trên bìa nhạc phổ viết một hàng chữ:
Thu phong tụng
Soạn nhạc: Hạ Ngọc Lâu
Cậu mở một trang, nhận ra đây là bản nhạc song tấu piano, trong ánh mắt thắp lên một chút hy vọng nhiều ngày gần đây chưa từng có: “Cái này…… là viết cho chúng ta sao?”
Hạ Ngọc Lâu ngồi vào chiếc dương cầm còn lại, thản nhiên cười: “Không vì ai cả, một khúc ca tụng gió thu mà thôi.”
Ôn Nguyệt An đáp lại, rũ mắt hỏi: “Đàn nhé?”
“Ừ.” Hạ Ngọc Lâu giơ tay lên.
Hai người hợp tấu.
Một tiếng đàn mênh mông phấn khởi, một tiếng khác yên tĩnh bi ai.
Ngoài cửa sổ, gió thu thổi rụng một chùm hoa quế, bay phiêu diêu vào phòng đàn.
Hai thiếu niên đàn xong đoạn nhạc cuối cùng, ngẩng đầu lên đối diện nhau, nhìn thấy cánh hoa trắng tinh phất phơ bay vào, từ từ đáp xuống đầu đối phương.
Một khúc gió thu, một khúc bạc đầu.
Tiếng đàn ngừng.
Không có tiếng vỗ tay, không có cả tiếng hít thở.
Tựa như cả một thế kỷ đã trôi qua, tất cả mọi người đều chưa lấy lại được phản ứng.
Chung Quan Bạch ngẩng đầu nhìn lên buồng ghế lô thứ nhất trên lầu hai nhà hát, xe lăn của Ôn Nguyệt An dừng ngay trước lan can. Rào chắn trong nhà hát hơi kéo dài ra giống ban công lộ thiên, người ở hai buồng ghế lô gần nhau nếu đứng sát mép rào chắn, không chỉ có thể nhìn thấy nhau, thậm chí còn có thể bắt tay. Lúc này Ôn Nguyệt An đang nghiêng đầu nhìn ngắm người đàn ông đứng trước rào chắn trên buồng ghế lô thứ hai.
Chung Quan Bạch nhận ra, hình như Ôn Nguyệt An đột ngột già đi rất nhiều, không lâu trước hắn vừa mới giúp ông chải một đầu tóc đen, giờ đây đã lặng yên biến thành đầu bạc.
Quý Văn Đài và Lục Tảo Thu đứng ngay sau Ôn Nguyệt An.
Quý Văn Đài cong lưng, hình như đang nói gì đó bên tai Ôn Nguyệt An, trên mặt còn mang theo nụ cười như ngày thường, nhìn như không để ý, nhưng trong ánh mắt lại hiện ra vẻ buồn bã.
Ôn Nguyệt An nghe Quý Văn Đài nói xong, nâng tay lên sờ thái dương mình: “Bạc hết rồi sao?”
Quý Văn Đài nói: “Bạc vẫn đẹp.”
“Cũng nên bạc rồi.” Ôn Nguyệt An nhìn người đàn ông trong ghế lô cách vách và đôi tay đeo găng trắng đang nắm chặt lan can, thấp giọng lẩm bẩm: “Chỉ là, sư ca…… không tìm thấy anh, em không dám già đi. Nếu năm đó, thật sự có thể một khúc gió thu, một khúc bạc đầu thì tốt quá.”
*Warning: Đoạn ký ức này của thầy Ôn, như mình đã chú thích ban đầu, là thuộc về giai đoạn “mười năm thảm họa” của Đại Cách mạng văn hóa vô sản Trung Quốc. Cảnh báo trong vài chương tới có nhiều tình tiết bạo lực, máu me và gây ức chế mạnh, nếu không chịu đựng nổi xin đọc lướt hoặc bỏ qua. Đừng quá kích động, đừng nên phán xét, đọc với tâm thế bình tĩnh và coi như mở mang tầm mắt là được rồi. Love & Peace *bắn tym*~~
—————————–
Hạ Ngọc Lâu đứng trước rào chắn nhìn xuống Ôn Nguyệt An ngồi trên xe lăn, chậm rãi cởi bao tay.
Nước mắt Ôn Nguyệt An lặng lẽ chảy, ông vươn một bàn tay ra, run rẩy muốn sờ lên ngón tay Hạ Ngọc Lâu một chút.
Với không tới.
Hội trường vẫn yên tĩnh như cũ.
Chung Quan Bạch nhìn thấy một màn kia từ đằng xa, hắn nhìn thấy bàn tay Hạ Ngọc Lâu, xương ngón tay biến dạng, trên da trải rộng vô số vết sẹo đáng sợ của năm xưa, ngón út còn bị thiếu một đoạn.
Ngay sau đó, Chung Quan Bạch nhìn Lục Tảo Thu.
Từ sau khi mất đi thính lực, ngón tay Lục Tảo Thu bị quấn băng vải trắng một lần nữa, về sau phần lớn thính lực khôi phục vẫn duy trì thói quen cũ. Giờ phút này anh cũng đang nhìn Chung Quan Bạch bằng ánh mắt dịu dàng.
Đột nhiên Chung Quan Bạch rất muốn sờ lên những vết sẹo trên đôi tay kia.
Nhưng vẫn chưa được, 《 Thu phong tụng 》đã dừng ở Trung thu năm Ất Tỵ, nhưng hồi ký của Ôn Nguyệt An thì chưa.
Chung Quan Bạch nâng tay lên một lần nữa, hắn muốn kể lại khoảng thời gian《 Thu phong tụng 》 chưa từng viết ra, đàn cho mọi người cùng nghe.
Quá khứ bị phủ bụi trên thế gian này nhiều như vậy, mặc kệ là dùng cách thức gì, dù sao cũng phải có người xốc một góc lên, đối diện với những vết máu bên dưới vẻ phồn hoa.
Mùa hè năm Bính Ngọ.
Hạ Ngọc Các tìm mọi cách vẫn không làm thẳng được mái tóc hơi xoăn của mình, bèn cắt ngắn đến ngang tai. Cô nói mình muốn đoạn tuyệt với kiểu tóc tư bản chủ nghĩa, cùng các Hồng vệ binh khác đi lật đổ tàn dư tư bản.
Đoạn thời gian này Cố Gia Bội luôn khuyên cô ở nhà học tập, cô liền nói: “Kỳ thi đại học cũng chưa tổ chức được, còn học cái gì mà học? Cách mạng là quan trọng nhất.”
Sắc mặt Cố Gia Bội rất xấu, chân mày cau lại, ánh mắt đẹp như trăng rằm giờ đây tràn đầy ưu tư: “Cách mạng…… Ngọc Các, con có biết rốt cuộc là đi làm gì không?”
Hạ Ngọc Các cũng không rõ bọn họ muốn làm gì, chỉ đành nói: “Thì đấu tranh cách mạng. Các nữ sinh trung học khác đều tham gia, mọi người ai cũng đi, chắc chắn không sai được.”
Nếu Cố Gia Bội không đồng ý, cô sẽ nói tiếp: “Mẹ, mẹ không thể thoát ly quần chúng, không thể phản cách mạng được.”
Hạ Ngọc Các thích những lời này.
Kỳ thật cô cũng không hiểu hết những lời này có ý gì, nhưng lại biết chúng rất có ích, trăm trận trăm thắng.
Đến khi vào trường học cô mới biết những người khác đang làm gì.
Mấy vị lãnh đạo trường trung học nữ bị trói gô lại trên cột cờ, vài nữ sinh trung học mặc quần áo học sinh đeo “Hồng tụ chương” (băng tay đỏ) đang vung thắt lưng da khóa đồng.
Trên mặt lãnh đạo nhà trường đã đầy vết máu, đặc biệt là hiệu trưởng bị đánh đến sắp ngất đi.
“Này, đừng hòng giả chết.” Một nữ sinh buộc tóc thành hai chùm nắm tóc hiệu trưởng, nện đầu bà vào cột cờ, “Nói mau, vì sao trước kia cô dám nói nếu gặp hỏa hoạn mọi người không cần để tâm đến đồ đạc trong phòng học, lo chạy thoát thân trước?”
Hiệu trưởng đã bị hỏi câu này quá nhiều lần, khóe miệng đầy vết máu, ý thức đã không còn tỉnh táo nữa, nhưng vẫn phải máy móc trả lời: “Tôi sai rồi, sai rồi, trước hết phải đi cứu tượng chủ tịch trong phòng học, không được chạy một mình, không được…… Tôi không có phản cách mạng……”
“Tóc hai chùm” lại giơ tay đánh một roi trúng vào giữa mắt hiệu trưởng: “Lại còn dám biện giải, cho dù bây giờ bà không phản cách mạng, nhưng quá khứ bà cũng từng phản cách mạng!”
Cô ta đánh một lúc, đến khi mệt rồi lại gọi một nữ sinh bện tóc bím ra thay ca.
“Ồ, Ngọc Các đến rồi.” Một nữ sinh đang đánh người trên cột cờ xoay đầu, là bạn cùng lớp của Hạ Ngọc Các, cô này lau mồ hôi trên mặt, đưa dây lưng trong tay cho cô, “Cậu lên đi.”
Hạ Ngọc Các nhận dây lưng, trong lòng lại có chút sợ hãi, sợ phải nhìn thấy cảnh da thịt rách nát trước mặt. Những giáo viên bị bắt trói quỳ trên mặt đất đã bị đánh cho không còn ra hình người, thảm không nỡ nhìn, nếu không nghe tiếng mắng chửi của người khác, cô nhìn những gương mặt sưng to máu me đầm đìa kia, có lẽ sẽ không phân biệt được ai với ai.
“Hạ Ngọc Các, cậu còn thất thần làm gì?” Nữ sinh kia thúc giục.
Những người khác cũng quay đầu nhìn Hạ Ngọc Các.
“Hạ Ngọc Các, không phải cậu cùng một phe với mấy tên cầm đầu phản cách mạng này đấy chứ?”
“Không phải!” Hạ Ngọc Các vén tay áo, giơ dây lưng lên.
Một roi quất xuống, cô giáo quỳ trước mặt cô bị toạc một mảnh da đầu, đau đến mức ngã vật ra đất kêu rên.
Những người khác vỗ tay trầm trồ khen ngợi, nói đối xử với kẻ thù phản cách mạng thì phải ra tay như vậy.
“Họ Lý lại giả chết rồi!” “Tóc thắt bím” hô to.
Vài người xông lên, lại nắm đầu hiệu trưởng nện vào cột cờ, nhưng lần này cô giáo không có chút phản ứng nào nữa. Mấy nữ sinh đứng dưới cột cờ nói để các cô đi hứng nước xối vào người cho tỉnh.
Chờ nước được mang tới, “Tóc thắt bím” xách thùng tưới lên đầu hiệu trưởng.
Dòng nước màu đỏ thẫm từ trên người hiệu trưởng chảy xuống ào ạt đầy đất. Thân thể sưng to thịt bong da tróc vẫn bất động như cũ, không có chút phản ứng gì.
“Không phải chết thật rồi chứ?” Một nữ sinh do dự hỏi.
“Tóc hai chùm” tóm dây lưng quất thêm vài cái, thân thể cô hiệu trưởng vẫn không có động tĩnh gì.
“Chết thật?”
“Bây giờ phải làm thế nào?”
Một giáo viên quỳ bên cạnh thều thào: “Đưa đi bệnh viện, đưa đi bệnh viện đi……”
“Tóc hai chùm” quất dây lưng lên đầu giáo viên kia: “Ai cho lên tiếng?” Cô ta quất liên tục mấy cái mới dừng tay, nói với mấy nữ sinh nòng cốt khác, “Trước mắt khiêng họ Lý kia đi bệnh viện đã. Những người còn lại tiếp tục công cuộc đấu tranh phê phán, tôi đi theo bọn họ.”
Trời chạng vạng tối, mấy học sinh kia mới đi tay không trở về, không đưa theo hiệu trưởng.
“Tóc thắt bím” hỏi: “Thế nào? Chết thật rồi à?”
“Tóc hai chùm” trả lời: “Chết rồi. Người nhà đã lãnh về.”
Hạ Ngọc Các buông tay, dây lưng bằng da rơi xuống đất: “…… Chết rồi?”
“Tóc hai chùm” nhìn Hạ Ngọc Các, hừ một tiếng: “Sợ à?”
Cô vội vàng nhặt dây lưng lên: “…… Không có.”
“Tóc hai chùm” nói: “Chúng ta là những tiểu tướng cách mạng, không cần sợ ai cả. Tôi nói cho các cậu nghe, người nhà bà ta chỉ cun cút mang người về, không dám hó hé một tiếng.”
Một nữ sinh do dự hỏi: “Người nhà…… Không hỏi gì sao?”
“Tóc hai chùm” tự hào nói: “Bác sĩ đã viết giấy chứng nhận tử vong rồi. Bọn tôi nói bác sĩ viết vào dòng nguyên nhân tử vong là: Không rõ, nếu ông ta không chịu viết chính là ngăn cản chúng ta tiến hành cách mạng, nếu dám chống đối cách mạng, người tiếp theo chúng ta đấu tranh phê bình sẽ là ông ta.”
“Nhưng, đã đánh thành như vậy, cả mắt cũng đánh đến mù, người nhà không nhận ra sao?”
Một nữ sinh cùng đi mất kiên nhẫn: “Đừng hỏi nữa! Cứ dông dài tiểu tiết như thế làm sao làm cách mạng?”
“Tóc hai chùm” nói: “Đúng thế. Hơn nữa, nếu người nhà họ dám phản cách mạng, chúng ta cũng phê phán luôn!” Cô ta giơ nắm đấm, “Cách mạng là vừa phải đấu trí vừa phải đấu dũng, cách mạng là phải đổ máu!”
Giọng cô ta rất kích động nhân tâm, những người khác cũng giơ nắm đấm lên, hô to: “Cách mạng là vừa phải đấu trí vừa phải đấu dũng, cách mạng là phải đổ máu!”
Hạ Ngọc Các cũng giơ cánh tay đau nhức lên theo bọn họ, hô lớn khẩu hiệu.
Dưới cột cờ, những sinh mệnh trẻ tuổi đầy sức sống được ánh hoàng hôn chiếu đến lấp lánh rực rỡ.
Một khắc này, dưới ánh mặt trời chói chang, trong tiếng hô khẩu hiệu lảnh lót, Hạ Ngọc Các vốn không thích ứng cho lắm đột nhiên cũng trở nên giống những người khác, cảm thấy toàn bộ những điều họ làm vô cùng chính xác, bọn họ là người khống chế phương hướng lịch sử, tiêu diệt kẻ thù, thế giới này cuối cùng sẽ là của bọn họ, bọn họ chính là hy vọng.
Trời sập tối Hạ Ngọc Các mới về đến nhà.
Cố Gia Bội đã nấu cơm xong, đang bưng ra ngoài: “Ngọc Các về rồi, còn sớm hơn Thận Bình, mấy giờ rồi mà vẫn chưa về nhà.”
Hạ Ngọc Các mệt muốn chết, chỉ hận không thể chạy đi tìm một chỗ nằm xuống.
Còn chưa tìm được chỗ nằm, cửa nhà đã bị gõ vang ầm ầm.
Trong tay Cố Gia Bội đang bưng mâm, liền gọi to: “Ngọc Các, ra mở cửa đi.”
Hạ Ngọc Các oán giận: “Sao ba lại không mang chìa khóa nhà.”
Hạ Ngọc Lâu cười nhạo: “Ba gõ cửa mà giống gõ trống như thế à?”
Hạ Ngọc Các trừng hắn: “Có khi là bạn học của mày đấy, đi mở cửa đi.”
Hạ Ngọc Lâu: “Không đi.”
Hạ Ngọc Các: “Tao cũng không đi.”
Ngoài cửa vang lên giọng một thanh niên trẻ tuổi: “Có người ở nhà không?”
Hạ Ngọc Các đắc ý đưa mắt ra hiệu với Hạ Ngọc Lâu: “Trường nữ sinh của tao không có nam, mày đi mở cửa mau.”
Người bên ngoài tiếp tục kêu: “Có phải nhà của Hạ Thận Bình không? Có người ở nhà không?”
Hạ Ngọc Lâu vừa nghe, tưởng là chuyện gì đứng đắn liền chạy ra mở cửa. Hạ Ngọc Các cũng đi theo.
Cửa vừa mở, bên ngoài là hai người có bề ngoài trông giống sinh viên mặc đồng phục tương tự Hạ Ngọc Các, đeo băng Hồng tụ chương trên tay.
Hai nam sinh đánh giá phòng khách nhà họ Hạ một chút, một người nói: “Quả nhiên là tư sản, sớm muộn gì cũng phải đến tịch biên nhà này.”
Hạ Ngọc Các phản ứng: “Này, đang nói linh tinh cái gì thế?”
Nam sinh kia liếc mắt đánh giá trang phục của cô: “Tôi thấy cô cũng có trái tim hồng, nhưng thành phần gia đình không tốt đâu, cô đã thoát ly rạch ròi với bọn họ chưa?”
Hạ Ngọc Các làm sao để yên cho người khác nói mình như vậy: “Anh nói thành phần nhà ai không tốt?”
Hạ Ngọc Lâu kéo Hạ Ngọc Các ra che phía sau mình, mặt không cảm xúc: “Xin hỏi có chuyện gì không?”
Nam sinh vẫn nhìn Hạ Ngọc Các: “Hạ Thận Bình vốn là lão cánh hữu, đã bị đưa đi cải tạo từ sớm, bây giờ vẫn còn ảo tưởng muốn trấn áp học sinh làm cách mạng, loại lãnh đạo học viện như ông ta chính là mảng tối của văn nghệ chính thống, là người đầu tiên phải chịu đấu tranh phê phán. Cô cũng là tiểu tướng cách mạng hẳn nên biết rõ ràng.” Anh ta nói xong mới đánh giá sang Hạ Ngọc Lâu, “Bọn tôi đến thông báo cho người nhà của Hạ Thận Bình, ông ta đang ở bệnh viện, mấy người đi đón về đi.”
Cố Gia Bội ở trong phòng bếp nghe được loáng thoáng, vội chạy ra: “Bệnh viện? Sao lại ở bệnh viện? Thận Bình bị làm sao?”
Nam sinh đứng ngoài cửa không trả lời, chỉ báo địa chỉ bệnh viện: “Đi lãnh người về đi. Có điều tôi cảnh cáo mấy người, ngọn lửa vừa nhóm lên có thể cháy lan đồng cỏ, mồi lửa cách mạng chỉ vừa nhen nhóm, nếu các người có ý đồ dập tắt ngọn lửa cách mạng thì chính là bè lũ phản trắc, là tội nhân lịch sử.”
Hai nam sinh nói xong thì bỏ đi.
Cố Gia Bội chưa kịp tháo tạp dề đã lo chạy ra ngoài: “Mẹ đi bệnh viện đây.”
Hạ Ngọc Lâu nói: “Để con đi cùng.”
Từ lúc Hạ Ngọc Các nghe nam sinh kia nói ra hai chữ “bệnh viện” thì luôn đứng run rẩy tại chỗ, gương mặt trắng bệch, đổ một thân mồ hôi lạnh.
Cố Gia Bội dặn: “Ngọc Lâu ở nhà trông chừng Nguyệt An. Ngọc Các đi với mẹ.”
Hạ Ngọc Các vẫn đứng nguyên tại chỗ như không nghe thấy gì.
Cố Gia Bội quay đầu lại thúc giục: “Ngọc Các đi mau lên con.”
Đột nhiên Hạ Ngọc Các bật khóc như phát điên, vừa khóc vừa gào: “Con không đi, con không đi bệnh viện đâu, không đi……”
Ôn Nguyệt An nói: “Để sư ca đi với cô Cố vào bệnh viện đi, không cần trông chừng con.”
Cố Gia Bội gật đầu, không có tâm trí chú ý đến sự bất thường của Hạ Ngọc Các, cùng Hạ Ngọc Lâu vội vã đi về hướng bệnh viện.