*Bình hồ thu nguyệt – 平湖秋月: vốn là một danh khúc dân gian Quảng Đông, về sau được Lữ Văn Thành cải biên sử dụng phổ biến trong kinh kịch Quảng Đông, bản nhạc có phong cách trữ tình tươi đẹp, mang đậm phong cách đặc sắc vùng miền. Đến năm 1975 bản nhạc được Trần Bồi Huân cải biên thành bản độc tấu dương cầm và được biết đến rộng rãi.
*Trần Bồi Huân – 陈培勋 (1922-2006) nghệ sĩ piano và nhà soạn nhạc sinh ra ở Hongkong, từng là phó giáo sư, giáo sư, kiêm Giám đốc Nghiên cứu và Giảng dạy Dàn nhạc thuộc Khoa Sáng tác của Nhạc viện Trung ương Trung Quốc trong một thời gian dài.
————————————-
Một người có thể chỉ cần vài ngày để tiếp thu nỗi đau vô cùng lớn, nhưng có khi phải tốn cả năm trời mới chấp nhận được chuyện khổ sở đã ra đi. Mọi thứ không dừng ở niềm vui sướng và hân hoan, mà còn là nỗi lo lắng sợ hãi kéo dài sau đó. Một buổi chiều vừa cười vừa khóc trong cửa hàng nhạc cụ kia không phải là nghi thức kết thúc, đó chỉ là một khởi đầu khác mà thôi.
Chung Quan Bạch bắt đầu không ngại phiền mà làm một vài chuyện nhàm chán, ví dụ như không ngừng kêu tên Lục Tảo Thu.
Ví dụ như suốt ngày đọc cho Lục Tảo Thu nghe mấy bài thơ dở ẹc hắn sáng tác.
Ví dụ như đột nhiên viết ra mấy trang nhạc phổ có giai điệu khôi hài, ra vẻ trịnh trọng mới lạ đưa cho Lục Tảo Thu xem, gọi anh tới nghe.
Ví dụ như tùy tiện đặt ra mấy chủ đề lung tung kỳ quái như “Đùi”, gọi Lục Tảo Thu ngẫu hứng soạn nhạc diễn tấu, mục đích vô cùng khả nghi.
Lại ví dụ như dùng băng vải bịt kín hai mắt Lục Tảo Thu lại, sau đó cầm vĩ kéo lên dây đàn hai cung, hỏi: “Bao nhiêu Hz?”
Vừa hỏi hắn vừa lấy giấy ra ghi chép như thật, nói cho sang mồm là: Kiểm tra nghe nhạc luyện thính lực.
Chuẩn âm tuyệt đối của Lục Tảo Thu là không thể nghi ngờ, chỉ là anh mặc áo sơ mi trắng đứng bên cửa sổ, mắt che băng vải trắng, đưa mặt về phía Chung Quan Bạch lần lượt trả lời từng con số, dáng vẻ cấm dục mà thuần khiết, thậm chí gây ra ảo giác có thể để mặc cho người ta tùy ý bắt nạt.
Giám khảo Chung Quan Bạch vừa u mê thưởng thức bộ dáng nghiêm túc của Master Lục vừa to gan lớn mật lấy tay gõ gõ bàn, hỏi: “Cái này thì sao?”
“Hửm?” Lục Tảo Thu đi về hướng phát ra âm thanh.
Chung Quan Bạch cố ý nói: “Master Lục, anh vẫn chưa trả lời em, đang kiểm tra đấy nhé ——”
“Ối!” Hai tay hắn bị khống chế ấn lên bàn.
Lục Tảo Thu gỡ băng che mắt xuống, cột lên mắt Chung Quan Bạch: “Chúng ta chơi công bằng một chút, đến phiên em.”
Thị giác bị cướp đoạt làm các giác quan khác đều trở nên mẫn cảm, Chung Quan Bạch cảm giác những ngón tay thon dài đang lướt qua giữa hai chân mình, chen vào trong thân thể: “Ưʍ…… Cái gì mà đến phiên em……”
Ngón tay ma sát với niêm mạc, dần dần phát ra tiếng nước đủ khiến người ta đỏ mặt.
Giọng nói trầm thấp của Lục Tảo Thu truyền đến từ đỉnh đầu: “Bao nhiêu Hz?”
Tiếng nước càng lúc càng lớn, thân thể Chung Quan Bạch tê dại từ trên vành tai xuống tận ngón chân, ngón tay nắm chặt cạnh bàn, giữa môi răng gian nan bật ra vài tiếng: “…… Lục…… Tảo Thu……”
“Trả lời tôi.” Một tay khác của Lục Tảo Thu cầm lấy bút máy ghi kết quả của Chung Quan Bạch.
“A…… Ưm, em không biết……”
Ánh mặt trời cuối hạ dần dần chiếu vào nhà, kéo thật dài bóng dáng cái bàn trong phòng.
Trên sàn nhà bằng gỗ, hình bóng trên bàn không ngừng lay động, bút máy lăn từ trên bàn rơi xuống đất, cũng bị kéo thành một cái bóng dài.
Gió biển ẩm ướt từ ngoài cửa sổ thổi tan đi không khí khô nóng. Một trang giấy bị thổi tung khỏi mặt bàn, chậm rãi bay xuống rơi vào gầm ngăn tủ bên cạnh tường.
Sáng ngày hôm sau Chung Quan Bạch chỉ mặc độc một cái quần bơi tam giác bó sát người, gác đôi chân dài ngồi ngả ngớn trên nóc xe gọi Lục Tảo Thu xuống lầu, nói là tranh thủ sáng sớm muốn ra biển bơi.
Chẳng những muốn đi bơi, còn phải làm rất nhiều chuyện trước nay chưa từng làm cùng Lục Tảo Thu.
Cho nên vào lúc hắn và Lục Tảo Thu đi bơi trở về nhận được điện thoại của Quý Văn Đài, hắn cũng không có quá nhiều tâm tình áy náy tội lỗi, vô cùng lưu loát che giấu chuyện Lục Tảo Thu đã khôi phục phần lớn thính lực, lại còn kể lể trong điện thoại mình phải vất vả cẩn thận chăm sóc Master Lục yếu ớt như thế nào.
“Anh?”
Ông ta chỉ nói một chữ, nhưng ai cũng nghe ra được ngụ ý của Quý đại viện trưởng kỳ thật là: “Chỉ bằng mỗi anh cũng đòi chăm sóc người ta?”
Chung Quan Bạch giả vờ không hiểu, thành khẩn nói: “Vâng, là em.”
Lúc này Quý Văn Đài đang cầm bức thư pháp được đóng khung đi đến nhà Ôn Nguyệt An, “Hai người các anh về nhà sớm một chút đi, mấy thứ bệnh lạ này các bác sĩ trong nước chúng ta có kinh nghiệm phong phú hơn.” Ông ta đi đến trước cổng nhà thì dừng lại, “Anh đừng nghĩ nhiều, tôi chả nhớ nhung các anh đâu…… Là lão Ôn.”
Chung Quan Bạch: “Thầy em?”
Quý Văn Đài: “Giờ tình trạng ông ấy không tốt lắm.”
Chung Quan Bạch sửng sốt: “Thầy sinh bệnh ạ?”
“Tinh thần không tốt.” Quý Văn Đài lại đi ra ngoài vài bước cách sân một khoảng khá xa để tránh bị Ôn Nguyệt An nghe thấy, “Cái lão Ôn này, thời trẻ chưa từng trải qua giai đoạn phấn chấn bồng bột, thế mà bây giờ bộ dạng lại cứ như không thiết sống nữa. Lần trước tôi đi thăm lão, lão ta còn nói: “chỉ sợ không còn được gặp A Bạch nữa.” “
Quý Văn Đài nói như thật làm Chung Quan Bạch nghe mà đột nhiên hoảng loạn theo, còn nói chắc với ông ta sẽ đặt vé máy bay về nước ngay.
Quý Văn Đài ho khan một tiếng, sợ mình bốc phét quá khoa trương nên lại lấy giọng điệu gia trưởng ra dạy dỗ: “…… Cũng không cần gấp gáp như vậy, Chung Quan Bạch, bao giờ thì anh mới chững chạc lên được đây hử? Dù sao hai người các anh về nhà sớm một chút vẫn là chuyện tốt, cứ lêu lổng bên ngoài mãi còn ra thể thống gì.”
Chung Quan Bạch vẫn không an tâm: “Thầy em rốt cuộc như thế nào ạ?”
Quý Văn Đài còn chưa kịp nói gì, trước điện thoại đã truyền đến một tiếng kêu cực nhẹ: “Văn Đài.”
Quý Văn Đài quay đầu lại, thấy Ôn Nguyệt An đang ngồi bên cửa sân nhìn ông ta: “Lão Ôn, ông đi vào trước đi, đừng phơi nắng, tôi gọi điện thoại xong vào ngay.”
Xe lăn của Ôn Nguyệt An vẫn không động đậy: “Tôi chờ ông.”
“Lão Ôn, ngày thường ông làm người rất chính trực, bây giờ sao lại đi học thói xấu nghe lén người khác nói chuyện điện thoại?” Quý Văn Đài ngượng ngùng nói, “Ông đi vào trước đi.”
Ôn Nguyệt An nhàn nhạt nhìn lướt qua điện thoại của Quý Văn Đài: “Văn Đài, A Bạch có chững chạc hay không thì để tôi lo được rồi.”
Quý Văn Đài đứng yên một lúc lâu, tức giận đến mức nói vào điện thoại: “Thầy anh khỏe lắm, còn đủ sức dạy dỗ người khác nữa đấy.” Dứt lời lập tức cúp máy, thành thành thật thật đi theo sau xe lăn của Ôn Nguyệt An, còn không quên đóng kín cổng sân vào.
“Treo ở đâu?” Quý Văn Đài đặt tờ thư pháp đã được đóng khung trước mặt Ôn Nguyệt An, “Để tôi treo giúp ông.”
Ôn Nguyệt An trả lời: “Trên bức tường đối diện đàn dương cầm.”
Quý Văn Đài liếc nhìn: “Lão Ôn, trên đó không phải đã treo một bức rồi sao, là chữ năm đó trước khi ra nước ngoài du học tôi viết cho ông, viết đẹp thế kia mà.”
Ôn Nguyệt An: “Thì gỡ bức đó xuống.”
Quý Văn Đài chán nản: “Lão Ôn, ông làm như thế là không đúng đâu, chữ nghĩa Chung Quan Bạch như thế này cũng đáng để cho ông treo lên?”
Ôn Nguyệt An gật nhẹ đầu: “Treo ở đó đi, đẹp.”
Quý Văn Đài tha thiết hỏi: “Còn của tôi?”
Ôn Nguyệt An ngẫm nghĩ: “Mang cất vào tủ.”
“……”
Quý Văn Đài nhìn Ôn Nguyệt An nửa ngày, vẻ mặt người sau vẫn không hề thay đổi, lẳng lặng chờ động tác của ông ta. Quý Văn Đài thở dài, chỉ đành tháo bức thư pháp “Chí hợp giả, bất dĩ sơn hải vi viễn*” xuống, lại treo bức tranh chữ xấu đau xấu đớn của Chung Quan Bạch lên, sau đó cầm chữ của mình tự lẩm bẩm, “Cất vào ngăn tủ nào?”
(*Người hợp chí hướng, ngăn núi cách biển không tính là xa)
Ôn Nguyệt An nói: “Phòng sách.”
Bức thư pháp kia không nhỏ, Quý Văn Đài mở cánh cửa tủ lớn nhất trong phòng sách ra, thấy bên trong còn một bức tranh chữ khác. Bức thư pháp này nhìn qua liền biết đã được xử lý cẩn thận, nhưng vẫn có thể thấy giấy bên trong khung có vết rách và vết nước bùn đã khô.
Trên giấy chỉ có hai chữ to:
Tĩnh tâm
Nét bút mạnh mẽ hữu lực nhưng lại mang theo khí phách thiếu niên, từ hai chữ cũng có thể nhìn ra trình độ người viết rất tốt.
Lạc khoản cực kỳ đơn giản, chỉ có sáu chữ:
Ngọc Lâu, Trung thu Bính Ngọ.
Quý Văn Đài nhìn một hồi lâu, nghe thấy tiếng Ôn Nguyệt An gọi mới cất chữ của mình vào ngăn tủ, đóng cửa đi xuống lầu.
“Lão Ôn,” Quý Văn Đài vừa xuống cầu thang vừa nói, “Ông vẫn đối xử với tôi tốt lắm.”
Ôn Nguyệt An có thể đặt chữ của ông ta vào cùng một ngăn tủ với tranh của người viết lạc khoản “Ngọc Lâu” đã là không dễ dàng, cũng đủ thấy tâm ý. Nhưng ông ta nói xong lại thấy hơi nghi hoặc, Ôn Nguyệt An trước nay luôn không muốn nhắc đến cố nhân, không thể để cho ông ta dễ dàng nhìn thấy bức thư pháp kia như thế được.
Bàn tay Ôn Nguyệt An lướt qua phím đàn, ấn ra mấy nốt đầu tiên của bản nhạc vô cùng thanh lệ. Ông chỉ đàn một đoạn liền dừng, đưa lưng về phía Quý Văn Đài, làm như lơ đãng hỏi: “Văn Đài, gần đây có thằng bé họ Hạ mở buổi biểu diễn solo phải không?”
Quý Văn Đài lập tức nghĩ ngay đến Hạ Âm Từ: “Có, một thằng nhóc quốc tịch Mỹ xuất thân từ Học viện âm nhạc Curtis. Tuy là Hoa kiều nhưng buổi solo đầu tiên lại chạy về Trung Quốc mở, không thường gặp lắm.”
(*Học viện âm nhạc Curtis (Curtis Institute of Music) là một nhạc viện tư nhân ở Philadelphia, Hoa Kỳ. Học viện này cung cấp các chương trình học đào tạo biểu diễn, Cử nhân Âm nhạc, Thạc sĩ Âm nhạc về opera, hoặc Chứng chỉ Nghiên cứu Chuyên nghiệp về opera. Nhiệm vụ của học viện là giáo dục và đào tạo những nhạc sĩ trẻ có năng khiếu đặc biệt để thu hút cộng đồng địa phương và toàn cầu thông qua trình độ nghệ thuật cao nhất. Tất cả sinh viên dự học ở đây đều học bằng học bổng toàn phần.)
Ôn Nguyệt An trầm ngâm: “Quốc tịch Mỹ…… Nhưng mà cậu ấy nói chuyện không có khẩu âm nước ngoài.”
Quý Văn Đài: “Nghe nói bố cậu ta lớn lên ở Trung Quốc, con nhà nòi sinh ra trong gia đình có truyền thống âm nhạc, hình như lớn tuổi hơn ông một chút. Ông nghĩ lại xem khi còn nhỏ ông dạy dỗ Chung Quan Bạch thế nào vậy, không chừng người ta ra nước ngoài còn giáo dục con cái nghiêm khắc hơn —— Lão Ôn!”
Xe lăn ngã rầm một cái xuống sàn nhà, vạt áo xanh buông xuống không che được ống quần trống rỗng.
Quý Văn Đài kinh hãi, vội vàng đỡ Ôn Nguyệt An dậy, xem xét một vòng có ngã bị thương không: “Lão Ôn ông làm sao vậy?”
“Sinh, sinh ra trong gia đình âm nhạc nào?” Ôn Nguyệt An bắt lấy cánh tay Quý Văn Đài, gần như muốn đâm xuyên qua vải áo cắm vào da thịt.
“Tôi nhớ ở chỗ này ông hay đặt hộp thuốc……” Quý Văn Đài nhìn vết thương trên cổ tay Ôn Nguyệt An, vội vã muốn xử lý trước.
“Tôi hỏi ông, người ta sinh ra trong gia đình âm nhạc nào?” Ôn Nguyệt An hỏi từng chữ. Ông nhìn chằm chằm vào mắt Quý Văn Đài, đôi mắt xưa nay sâu như giếng cổ lúc này tràn đầy tơ máu, dọa Quý Văn Đài một phen kinh sợ.
“…… Lão Ôn, ông…… ông có nhìn tôi như vậy thì tôi cũng không biết.” Quý Văn Đài cẩn thận suy nghĩ về niên đại một chút, “Chuyện này hẳn là không ai nhớ rõ. Ông ngẫm lại đi, mười năm thảm họa, lại là người học nhạc cụ Tây dương, vào thời đại đó, loại gia đình này còn đường sống sao?”
“Đúng, thời đại đó……” Ôn Nguyệt An buông lỏng tay ra, mười ngón thon dài rũ bên ống quần, đầu ngón tay hơi giật giật, “Không có đường sống.”
Quý Văn Đài thấy tinh thần Ôn Nguyệt An hình như đã bình phục lại một chút, vì thế đi tìm hộp thuốc: “Ông để cái hộp chỗ nào rồi thế?”
Giọng Ôn Nguyệt An trở nên cực nhẹ: “Bên trên ngăn kéo tủ kia.”
Quý Văn Đài vừa băng bó cho Ôn Nguyệt An vừa quở trách: “Ông có phải thằng nhãi Chung Quan Bạch đâu, đã bao nhiêu tuổi rồi, phải chững chạc lên ——” nghĩ đến chuyện vừa bị dạy dỗ ở ngoài cổng sân, ông ta lại sửa miệng, “Chuyện gì đáng để ông thành như vậy? Ông muốn gặp thằng nhóc nào thì tôi kêu nó đến đây cho ông, có người nghe ba chữ Ôn Nguyệt An còn dám không tới sao? Chuyện gì đáng để ông đổi sắc mặt như thế?” Ông ta nói đến đây lại nghĩ đến bức tranh chữ có lạc khoản ghi “Ngọc Lâu” và câu “Nguyệt chiếu ngọc lâu” Ôn Nguyệt An từng chép.
Một câu Quý Văn Đài treo trên cửa miệng, cuối cùng lại không nói ra: Người đó…… cũng họ Hạ phải không?
Ôn Nguyệt An nhìn đôi tay mình trong chốc lát, trên mặt khôi phục lại nét bình tĩnh không gợn sóng: “Văn Đài, ông về nhà đi.”
Quý Văn Đài thật sự không yên tâm cứ như vậy rời đi, nhưng đó là Ôn Nguyệt An, là người không bao giờ giữ lại người nào bên cạnh mình. Ông ta trả hộp thuốc về chỗ cũ, lại rót cho Ôn Nguyệt An một ly nước ấm: “Có việc gì thì nhớ gọi cho tôi.”
Ôn Nguyệt An đáp ứng.
Quý Văn Đài đi đến cửa, lại nói: “Không có việc gì cũng phải gọi.”
Ôn Nguyệt An không nói gì. Quý Văn Đài thở dài, đi ra sân.
Dưới ánh hoàng hôn, núi đá suối chảy trong sân được nắng chiếu lấp lánh, hoa sen sắp tàn, mấy con cá chép bơi vòng quanh chỗ Quý Văn Đài đứng, tưởng có người đến cho ăn.
Phòng trong vọng ra tiếng đàn, từng tiếng từng tiếng rơi xuống như ánh sáng lay động, đúng là tựa như “Nguyệt chiếu ngọc lâu”.
Quý Văn Đài nhìn quanh bốn phía, cột đèn đá, cổng sân lợp mái, bàn nhỏ bằng trúc, hết thảy những thứ này…… đều không phải là kiến trúc của xứ phương Bắc.
Nơi này có lẽ chỉ là một giấc mộng cũ của Ôn Nguyệt An.
Trong mộng có đình viện Giang Nam, có suối nước và cá chép, có trúc xanh có sông dài, có chữ có cờ có đàn, còn có người.
Quý Văn Đài cầm hộp thức ăn cho cá từ bên cửa sổ rải một ít xuống nước, đi ra cổng.
Đúng lúc ông ta nhẹ nhàng đóng cổng lại, tiếng đàn càng ngày càng thấp cũng dừng hắn.
Trong phòng truyền ra một tiếng vang lớn.
“Lão Ôn!” Quý Văn Đài chạy vào, Ôn Nguyệt An ngã xuống bên cạnh đàn dương cầm, không có chút phản ứng, gọi thế nào cũng không tỉnh. Ông ta sờ lên cổ tay Ôn Nguyệt An, mạch đập yếu đến gần như dừng lại, “Nguyệt An ——”
———————————–
“Tôi muốn gặp đứa bé kia.”
Đó là câu nói đầu tiên của Ôn Nguyệt An sau khi tỉnh lại, ông không nhìn ai cả, chỉ cất giọng lạnh nhạt như đang nói với chính mình.
Quý Văn Đài quan sát vẻ mặt Ôn Nguyệt An nửa ngày mới đáp: “Tôi biết rồi.”
Một lát sau ông ta lại nói: “Để tôi gọi điện thoại cho Chung Quan Bạch.”
Ôn Nguyệt An ngăn cản: “Đừng gọi.”
Quý Văn Đài: “Lão Ôn, ông đừng cậy mạnh nữa, lúc gọi xe cứu thương tôi không dám gọi, ông ở trong phòng cấp cứu tôi không dám gọi, ông không tỉnh tôi càng không dám gọi. Bây giờ vẫn không thể gọi à?”
Ôn Nguyệt An nhắm mắt lại: “Văn Đài, ông cảm thấy tôi đang muốn chết sao.”
“Ông, lão Ôn, sao ông lại nói ra mấy lời như thế chứ?” Quý Văn Đài nâng tay nắm thành nắm đấm treo trên mép giường một hồi, “Ông bị thiếu đánh à?”
Cuối cùng nắm tay rơi xuống biến thành bàn tay giúp Ôn Nguyệt An dém chăn.
Qua rất nhiều ngày, Chung Quan Bạch ở cách đó hơn 9000 kilomet chưa biết chuyện Ôn Nguyệt An bị bệnh, hắn vẫn say sưa viết nhạc không kể đêm ngày, giống như toàn bộ những người yêu âm nhạc trên đời này, biến hết thảy niềm vui và đau khổ của mình thành ca khúc.
Hắn cùng Lục Tảo Thu đi thăm lại những nơi năm đó bọn họ cùng đi lưu diễn, Vienna, Berlin, Amsterdam…… Lại quay trở về trạm dừng chân cuối cùng là Paris.
Chung Quan Bạch mang theo một xấp dày giấy chép nhạc kẻ sẵn khung và bút viết, mỗi lần đến một nơi lại viết ra một bản nhạc, cho đến khi bọn họ trở lại thị trấn nhỏ ở miền Nam nước Pháp, hắn đã viết được hẳn một tập bằng quyển sách. Chung Quan Bạch viết nhạc thường không đánh số, ngoại trừ những bài hắn viết cho tác phẩm điện ảnh, được công ty đĩa nhạc thu âm phát hành hoặc những bài đã xuất bản sách nhạc phổ, còn lại chính hắn cũng không biết mình có bao nhiêu bản nhạc dùng phương thức cổ hủ như vậy tùy tay viết ra. Mấy năm nay đều là một tay Lục Tảo Thu chép lại lên phần mềm soạn nhạc, biên tập thành sách, đánh số tác phẩm cho hắn.
Chung Quan Bạch đặc biệt thích ngắm Lục Tảo Thu biên tập nhạc phổ, nhất là khi trong xấp giấy dày lần này có ba bản nhạc liên tục đều là nhạc nhẹ, thể hiện tình cảm trắng trợn không thua gì một quyển thư tình.
“Lục Tảo Thu.” Chung Quan Bạch dựa vào cạnh cửa gọi tên anh lần thứ tám.
Lục Tảo Thu đang cầm trong tay một xấp nhạc phổ đã sửa xong, ghi chú cả ngày soạn nhạc và địa điểm lên trang lót, nghe hắn gọi, bút mực trong tay hơi dừng, lưu lại một đốm mực đen trên giấy.
“Lục Tảo Thu.” Chung Quan Bạch gọi thần thứ chín, ánh mắt vẫn dính chặt lên người anh không chịu dời đi chỗ khác.
Lục Tảo Thu cúi đầu, yên lặng viết thêm một câu sau phần thời gian địa điểm: A Bạch, thích dính người.
“Di động.” Lục Tảo Thu nhắc nhở.
Lúc này Chung Quan Bạch mới lưu luyến đi tìm cái điện thoại không biết đang phát ra âm thanh ở đâu.
“Helen, xin hãy thay tôi gửi lời chúc sức khoẻ đến Menelaus thân yêu.” Giọng Lance từ đầu dây kia bay qua xen giữa tiếng gió thổi phần phật và tiếng cành lá xào xạc, dường như khiến người ta ngửi được cả mùi hương cây cỏ.
Anh ta đi đốn gỗ trong rừng, lúc này đang cởi trần ngồi nghỉ bên một gốc cây phơi nắng uống rượu.
“Câm miệng đi, Paris.” Tâm trạng Chung Quan Bạch rất tốt nên cũng đùa theo.
“Helen, tôi muốn cũng không câm được.” Lance giơ bình rượu lên cười nói, “Nhẫn của cậu làm xong rồi, cậu đã sẵn sàng cầu hôn Menelaus yêu dấu chưa?”
“Sẵn sàng? Không, không phải như thế.” Chung Quan Bạch lộ ra một nụ cười ngọt ngào xen lẫn xót xa, kể sơ lại một lần chuyện hắn do dự cầu hôn và khoảng thời gian ngoài ý muốn vừa rồi, “Anh hiểu không, công việc chuẩn bị cầu hôn anh ấy cũng giống như chuẩn bị viết ra một bản nhạc hay đến hoàn mỹ, có lẽ chỉ có ở trên thiên đường, còn dưới nhân gian này thì không tồn tại. Tôi nên biết từ trước, trên đời không có cách thức cầu hôn nào xứng với anh ấy, tôi chỉ biết như những kẻ phàm phu tục tử tầm thường cầu xin anh ấy đáp ứng tôi thôi.”
“Helen……” Lance ngắm mặt trời trên cao xuyên qua chai thuỷ tinh, thấy được một vầng sáng vàng rực rỡ, “Hình thức nào cũng không quan trọng, tôi cá với cậu, cho dù cậu có cầm một cái khoen lon nước ngọt đi cầu hôn, Menelaus yêu dấu cũng sẽ đồng ý.”
“Tôi cũng không muốn đợi nữa, nhưng mà……Lance, anh tưởng tượng được không, có một ngày anh ấy diễn tấu một bài tôi sáng tác……”
“Đương nhiên.” Lance nhớ lại dáng vẻ Lục Tảo Thu đứng kéo đàn violin bên cạnh đàn piano, đó quả thực là dáng vẻ đẹp nhất anh ta từng thấy.
Vậy anh có tưởng tượng được lúc anh ấy ấn ngón tay trái xuống phím đàn thứ bảy, tay vẫn diễn tấu rất chính xác, nhưng đôi mắt lại vô hồn nhìn vào ngón tay chính mình không?
Chung Quan Bạch không cầu hôn, không phải vì đợi nhẫn, mà là hắn không dám.
Đương nhiên Lục Tảo Thu rất kiên cường, so ra còn kiên cường hơn cả ngày trước, thậm chí làm hắn lo lắng anh có thể tan vỡ bất cứ lúc nào.
“Có một phần âm vực anh ta vẫn không nghe được phải không?” Lance đoán ra nguyên nhân từ sự im lặng của Chung Quan Bạch.
Hắn không trả lời, hắn nghe thấy một tiếng đàn trầm thấp kéo dài bay ra từ phòng đàn.
“Ngày mai tôi sẽ đi lấy nhẫn.” Chung Quan Bạch cúp điện thoại.
Nhưng đến ngày hôm sau hắn không thể đi như đã hẹn.
Lúc trời còn chưa sáng hắn đã nhận được cuộc gọi của Quý Văn Đài.
“Chung Quan Bạch, anh mau về đi.” Quý Văn Đài đã sửa lại giọng điệu thành cực kỳ nghiêm túc, “Lão Ôn bị bệnh rồi, suy tim. Anh đừng gấp, tạm thời không nguy hiểm đến tính mạng. Vốn dĩ lão Ôn không muốn tôi gọi cho anh……”
“Em lập tức về ngay.” Chung Quan Bạch trả lời.
Lục Tảo Thu ôm Chung Quan Bạch vào lòng, gọi điện thoại nhờ người đặt vé máy bay.
“Lục Tảo Thu thế nào rồi?” Quý Văn Đài hỏi.
Chung Quan Bạch nói thật tình huống, Quý Văn Đài tốt xấu gì cũng hơi yên tâm, “Thôi được rồi, thế hai đứa mau trở về đi.” Ông ta muốn giải thích tình hình một chút, nhưng đột nhiên lại không biết nên giải thích kiểu gì, “Anh còn nhớ cái cậu Hạ Âm Từ không?”
Chung Quan Bạch: “Em nhớ, cậu ta làm sao?”
Quý Văn Đài: “Lão Ôn muốn gặp Hạ Âm Từ, thế mà cậu ta lại không chịu, người đại diện của cậu ta đặt điều kiện muốn thi đấu dương cầm với anh.”
Chung Quan Bạch nghi ngờ mình nghe nhầm: “Cái gì ạ?”
“Cũng không nói kết quả thua hay thắng mới đồng ý gặp, chẳng biết thằng nhãi kia đang nghĩ cái gì.” Quý Văn Đài mất kiên nhẫn, nghĩ đến tình hình sức khoẻ Ôn Nguyệt An và cái tật cứng đầu cứng cổ của ông lại càng thêm bốc hỏa, “Tóm lại anh mau cút về đây, hỏi gì mà lắm thế.”
Quý Văn Đài ngắt điện thoại đi vào phòng bệnh nói với Ôn Nguyệt An: “Xem ra thằng nhóc kia mang thù rồi, ai bảo học trò nhà ông ngày xưa lên TV mắng nó.”
Ôn Nguyệt An: “Không gặp thì thôi, sao phải đi nói cho A Bạch?”
Quý Văn Đài: “Họa do Chung Quan Bạch tự chọc ra, bảo nó về gánh thì oan lắm đấy?”
Chung Quan Bạch cũng suy nghĩ giống Quý Văn Đài, lúc chờ máy bay hắn đi tìm lại clip chương trình hắn từng đánh giá Hạ Âm Từ ra xem lại một lần. Đó là lần đầu tiên hắn được xem toàn bộ nội dung, xem một lúc thì nhíu chặt mày: “Cắt ghép cái kiểu gì thế này?”
Lục Tảo Thu cũng xem cùng thì phát hiện đúng là hình ảnh quay không liên tục, rất nhiều thời điểm Chung Quan Bạch trả lời đều chỉ quay đặc tả mặt hắn.
“Nếu nói về kỹ thuật biểu diễn và cảm xúc, cậu ấy đúng là không bằng em, nhưng cũng không kém bao nhiêu, lúc đó em nhớ rõ mình đánh giá có hơi không lưu tình thật, nhưng cái câu ‘đây là đang chọc cười nhau’ với câu ‘hiện trường tông xe cấp độ mười’ căn bản không phải là câu đánh giá Hạ Âm Từ. Trước đó bọn họ chiếu một video biểu diễn hiện trường tông xe thật.” Chung Quan Bạch tắt video, “Chán ghê. Thằng nhóc kia chắc không phải tin là thật đấy chứ.”
Máy bay hạ cánh xuống sân bay thủ đô.
Chung Quan Bạch nhìn hàng đàn hàng đống phóng viên xếp hàng ngoài kia mới nhận ra mình không mang theo khẩu trang. Hắn nắm chặt tay Lục Tảo Thu, che chở người phía sau mình.
Đến thời khắc này hắn mới ý thức được, một khi trở về hắn lập tức không còn tự do nữa, giống như nhảy vào một vũng nước đầy đỉa đói, chỉ có thể chờ bị hút khô đến giọt máu cuối cùng.
“Nhường một chút, nhường một chút ——”
Chung Quan Bạch trông thấy một bóng người vừa kêu to vừa chen qua đám đông, không quá cao, mặt non choẹt, mặc bộ quần áo như học sinh trung học.
Người kia cố gắng chen chúc đến bên cạnh Chung Quan Bạch, trước hết cung kính hô một tiếng với người đứng sau lưng hắn: “Master Lục.” Sau đó mới làm mặt quỷ ném cho Chung Quan Bạch một cái khẩu trang, “Đi đi đi, bên này.”
Chung Quan Bạch phát hiện mấy tay phóng viên không xông về phía hắn nữa: “Đường Tiểu Ly, sao mày làm được hay thế?”
“Chung Quan Bạch, mày phải cảm ơn tao đi, tao ném Tần Chiêu vào giữa đám phóng viên chạy tới giải cứu chúng mày đấy. Mày nhìn mà xem, so với Tần Chiêu mày chỉ là minh tinh hết thời thôi, có gì hay mà phỏng vấn.” Đường Tiểu Ly phun nọc độc một lúc mới cảm thấy thỏa mãn, “Nói, đi đâu, để tao làm tài xế cho.”
Chung Quan Bạch nói muốn đi bệnh viện, Đường Tiểu Ly biết thính lực của Lục Tảo Thu còn chưa khôi phục hoàn toàn, không dám đề cập đến, hai mắt lại rà quét trên eo Chung Quan Bạch: “Sao, hư thận rồi à?”
Chung Quan Bạch nhìn qua phía Lục Tảo Thu, chỉ hận không thể nhét giẻ vào miệng Đường Tiểu Ly.
Hắn ta vừa lái xe vừa líu lo bốc phét, không cẩn thận liếc lên kính chiếu hậu nhìn thấy gương mặt không biểu cảm của Lục Tảo Thu, phải nhanh chóng lái qua chuyện khác, “Bây giờ chỗ nào cũng đưa tin rầm rộ vụ mày và Hạ Âm Từ công khai thi đấu đàn piano, mày muốn làm thật à?”
Chung Quan Bạch: “Mày phải chạy đi hỏi xem cậu ta muốn làm gì mới đúng.”
Đường Tiểu Ly: “Như thế không đúng đâu, trong hai người thì mày chắc suất là trà xanh đê tiện còn cậu ta là bạch liên hoa rồi.”
Lục Tảo Thu nghe vậy thì phản bác: “Không phải như vậy.”
Chưa gì đã lo bảo vệ bà xã rồi, Đường Tiểu Ly nhìn Chung Quan Bạch qua gương chiếu hậu lắc đầu chép miệng mấy cái. Hắn ta đưa hai người đến bệnh viện, sau đó lấy ra khỏi cốp xe một chiếc xe lăn, là Chung Quan Bạch nhờ đặt mua giúp, loại xe này có thể tự động lên xuống cầu thang không cần người hỗ trợ.
“Thôi tao đi giải cứu Tần Chiêu nhà tao đây, hai người nhớ mời anh ấy ăn cơm đấy.” Đường Tiểu Ly nói vọng ra ngoài cửa sổ xe.
Chung Quan Bạch đi đến cửa phòng bệnh, vừa vặn đụng phải Quý Văn Đài vừa làm xong thủ tục xuất viện.
“Lão Ôn muốn về nhà tĩnh dưỡng, tôi không lay chuyển nổi.” Quý Văn Đài nói, “Trong khoảng thời gian này anh nhớ chăm sóc ông ấy cho cẩn thận.”
Chung Quan Bạch gật đầu, đẩy cửa đi vào gọi: “Thầy ơi.”
Lục Tảo Thu chào: “Thầy Ôn.”
Ôn Nguyệt An đang dựa trên giường bệnh nghe nhạc, nghe tiếng động liền ngẩng đầu lên, nhìn thấy Chung Quan Bạch và Lục Tảo Thu, trong mắt lập tức dâng lên độ ấm: “A Bạch và Tảo Thu mau lại đây.”
Ông cẩn thận nhìn hai người một lúc rồi mới khẽ gật đầu: “Ừ, trông tốt đấy.”
Chung Quan Bạch cầm lược nghiêm túc chải đầu cho Ôn Nguyệt An, sau đó ôm người lên xe lăn, đưa về nhà.
Đoạn thời gian này Chung Quan Bạch không yên tâm, mỗi ngày đều cắm rễ ở nhà Ôn Nguyệt An. Ông luôn ngồi trong phòng sách đọc sách viết chữ hoặc ở dưới lầu đánh đàn, không nói gì nhiều, nhưng cũng không bắt hắn đi về. Lục Tảo Thu cũng thường xuyên tới, cùng Chung Quan Bạch hợp tấu vài bản nhạc nhẹ nhàng trong căn nhà nhỏ.
Vì chuyện sức khoẻ của Ôn Nguyệt An, ngày lập thu năm nay Chung Quan Bạch không thể cầu hôn, mà Lục Tảo Thu cũng không muốn tổ chức sinh nhật.
Chung Quan Bạch đốt hai ngọn đèn Khổng Minh, một ngọn viết “Khoẻ mạnh”, ngọn đèn kia viết “Bình an”, hắn và Lục Tảo Thu thả hai ngọn đèn lên trời trong sân nhà thầy giáo.
Hai chữ “Khoẻ mạnh” và “Bình an” cực lớn trôi giữa bầu trời đêm như mực, ánh đèn lay động chiếu vào người bọn họ.
Chung Quan Bạch ôm Lục Tảo Thu nói: “Tảo Thu, anh sẽ bình an khoẻ mạnh, thầy cũng vậy.”
Lục Tảo Thu nói: “Em cũng vậy, chúng ta đều khoẻ mạnh bình an.”
Qua mấy ngày sau, người đại diện của Hạ Âm Từ đến thông báo cho Chung Quan Bạch, thời gian thi đấu ấn định vào chiều ngày Trung Thu, địa điểm tại một nhà hát tư nhân, không công khai bán vé vào cửa nhưng có phát sóng trực tiếp toàn bộ buổi thi đấu trên internet.
Lúc Ôn Nguyệt An nghe thấy thời gian thi đấu, sắc mặt bỗng nhiên biến đổi.
Chung Quan Bạch dò hỏi: “Thầy?”
Ôn Nguyệt An hỏi ngược lại: “A Bạch, con muốn đàn bài gì?”
Chung Quan Bạch nghĩ một chút: “Phương án đầu tiên chắc là《 Winter Wind 》của Chopin?”
(*Etude Op.25 No.11 “Winter Wind” – Khúc luyện số 11 opus 25 thuộc khung La thứ, hay còn được biết đến với tên gọi Winter Wind, là một bản độc tấu piano được sáng tác bởi nhà soạn nhạc người Ba Lan Frederic Chopin. Được sáng tác năm 1836 và được xuất bản lần đầu cùng với các bản Khúc luyện khác trong Opus 25 của ông năm 1837 tại Pháp, Đức và Anh)
Ôn Nguyệt An không nói gì, ngồi vào trước đàn piano thấp giọng thở dài, chỉ lẩm bẩm cho chính mình nghe thấy: “Trung thu, trung thu……là anh, em biết đúng là anh.”
Ông nhìn chăm chú vào bàn phím rất lâu, tay treo bên trên nhẹ nhàng khép mở, sau đó mới chậm rãi hạ xuống như đang vuốt ve tình nhân.
Đó là một bản nhạc Chung Quan Bạch chưa từng nghe qua, giai điệu bao la tráng lệ, khí phách phi dương, mơ hồ mang theo một tia hào hùng như được cải biên từ một khúc nhạc Trung Hoa cổ điển nào đó, độ khó thậm chí vượt qua cả《 Winter Wind 》.
Chung Quan Bạch nghe xong, xuýt xoa rất nhiều lần: “Thầy, bài này hẳn là để song tấu đúng không?”
“Rất lâu trước kia thì đúng.” Ôn Nguyệt An đàn xong trông như già đi rất nhiều, gương mặt mang theo mệt mỏi.
Chung Quan Bạch nhìn mà trong lòng khó chịu, tuy hắn không biết vì sao ông muốn gặp Hạ Âm Từ, cũng không dám hỏi nhiều, nhưng đúng là vì chuyện mâu thuẫn giữa hắn và Hạ Âm Từ mới khiến cho thầy mình đang bệnh vẫn phải nhọc lòng.
“Thầy, con đi gọi điện thoại một lát.” Chung Quan Bạch nói.
Ôn Nguyệt An nhìn ra tâm tư của hắn, nhàn nhạt hỏi: “Gọi cho ai?”
Chung Quan Bạch không đáp, chỉ nói: “Đây là ân oán của con với thằng nhãi kia.”
Ôn Nguyệt An: “Con muốn làm gì?”
Khẩu khí của Chung Quan Bạch cực kỳ giống Quý Văn Đài: “Thi đấu là một chuyện, trước mắt cứ lôi thằng nhóc kia đến đây đã.” Nói giống như ngay lập tức phải chạy ra ngoài trói con người ta vác về thật.
Ôn Nguyệt An trầm mặc một lúc mới thấp giọng: “A Bạch, con từ từ đã.”
Ông lên lầu lấy ra một cuốn nhạc phổ và một cuốn sổ cũ, đi xuống giao cho Chung Quan Bạch: “Thằng bé họ Hạ kia không chịu đến gặp thầy không phải tại con đâu.”
Chung Quan Bạch thấy ngoài bìa nhạc phổ viết ba chữ to:
Thu phong tụng
(*Ca tụng gió thu)
Bên cạnh hàng “Thu phong tụng” viết:
Soạn nhạc: Hạ Ngọc Lâu
Chung Quan Bạch mở nhạc phổ ra, đúng là bản nhạc Ôn Nguyệt An vừa đàn, tổng phổ viết song tấu, phần nào ghi “An”, phần nào ghi “Lâu” đều được chú thích rõ ràng.
Chung Quan Bạch hỏi: “Thầy muốn con đàn《 Thu phong tụng 》này sao? Thầy cảm thấy đàn bài này con sẽ thắng à?”
Ôn Nguyệt An nhìn ba chữ “Hạ Ngọc Lâu” trên nhạc phổ, vẻ mặt dịu dàng như đang nhìn người yêu thời niên thiếu. Ông dùng âm thanh cực kỳ mềm nhẹ nói từng chữ: “Không, người kia sẽ thắng.”
“Thế vì sao……” Vừa nói được mấy chữ hắn liền dừng lại.
Sắc mặt kia quá mức khác biệt, Chung Quan Bạch không dám nhiều lời thêm một câu, đến hít thở cũng phải nhẹ đi, tựa như chỉ cần phát ra một chút âm thanh thôi sẽ đập vỡ thứ gì đó đang bao phủ quanh người Ôn Nguyệt An.
Ông đắm chìm trong cảm xúc này rất lâu mới bừng tỉnh lại, đưa quyển sổ trên tay cho Chung Quan Bạch. Trong cuốn sổ kia tràn ngập chữ viết bằng bút máy, hắn vừa mở ra trang đầu tiên, liếc qua một cái liền cẩn thận khép lại, hắn không dám xem nhật ký của Ôn Nguyệt An.
“Xem đi.” Ôn Nguyệt An nói, “Xem xong có lẽ con sẽ không muốn đi nữa.”
“Sao lại thế được?” Chung Quan Bạch vội nói, mở cuốn sổ ra lần nữa. Bỗng nhiên từ trong sổ bay ra một tờ giấy nhỏ nhăn nhúm, hắn cúi người nhặt lên, phát hiện ra đó là một tờ giấy gói kẹo đã bạc màu.
Ôn Nguyệt An nhận giấy gói kẹo, tinh tế dùng ngón tay vuốt phẳng: “A Bạch, đây vốn chỉ là chuyện của một mình thầy.”
Nhớ nhung loại chuyện này, trải qua quá nhiều năm chung quy biến thành chuyện của một người, không còn quan hệ gì đến đối phương nữa. Có một số việc, tuy ông đã nhớ rất nhiều năm, nhưng không có cũng chẳng sao cả. Duy chỉ có đứa học trò này, ông nhìn nó lớn lên, cho dù trong lòng tưởng niệm thế nào, cũng không nỡ để nó cứ mơ hồ nhảy vào chuyện ân oán năm xưa.
Ở giữa tờ giấy gói kẹo là ba chữ “kẹo xí muội” vì đã bị tróc màu mà trở nên loang lổ. Thứ được mở ra cùng với tờ giấy này là thời gian của mấy chục năm về trước, đó là thời thơ ấu của Ôn Nguyệt An, cũng là thời thơ ấu của Chung Quan Bạch.
Mỗi lúc phải luyện đàn, bọn họ đều từng được cho một viên kẹo xí muội.
“Thầy nói sai rồi.” Chung Quan Bạch nói, “Trên đời này không có chuyện gì là chuyện của một người cả.”