Vũ Quang nhìn sang bên trái, chỗ phòng tuyến của hiệu binh Hồng-châu, mặt trận đã vỡ, quân Lưu Mân ùa vào trong lũy rồi. Đội võ sĩ phái Tản-viên hơn trăm người đang tử chiến cản lại. Hầu cầm cờ xanh phất lên, thì từ phía sau, Hùng Nhân, Hùng Nghĩa, Hùng Lễ dẫn đội hổ hơn trăm con phóng đến như bay xông vào trợ giúp võ sĩ Việt, lập tức cánh quân của Lưu Mân bị đánh bật lại. Trong khi đội báo, voi xông vào đánh đội võ sĩ của Đặng Trung.
Hầu nhìn sang bên phải, cánh quân của Miêu Lý đã tràn vào trong lũy. Công chúa Thiên-Ninh với Miêu Lý đang đấu chưởng đến một mất, một còn. Hầu cầm tù và rúc lên. Từ đâu đó một đàn ong bay đến rợp trời, nhào xuống đốt hậu quân Tống ngoài chiến lũy. Hàng ngũ quân Tống bị rối loạn, bỏ chảy tứ tán. Đội võ sĩ Côn-luân đang bị võ sĩ Tản-viên, báo, voi vây đánh, bây giờ không có quân bộ giúp sức, thoáng một cái, bị giết gần hết.
Đặng Trung thấy nguy, y hú lên một tiếng dài, rồi y với bốn gã Đông, Tây, Nam, Bắc cùng bỏ phòng tuyến tiến đến đài của Vũ Quang. Lý Nhất, Mai Nhị thất kinh hồn vía, vội bỏ trận tuyến quay lại cứu Vũ Quang. Nhưng đã chậm, năm người cùng phát chưởng hướng cột đài. Rầm một tiếng, đài từ từ đổ xuống. Lý Nhị, Mai Nhị cản bốn gã Đông, Tây, Nam, Bắc lại. Đặng Trung nhảy lên vung kiếm chém Vũ Quang. Biết thế nguy, hầu rút kiếm đưa vào ngực Trung, như lối đánh cả hai cùng chết. Đặng Trung vội thu kiếm về nhảy lộn ra phía sau để tránh thế kiếm ác liệt. Bốn gã Đông, Tây, Nam, Bắc cùng Đặng Trung vây lấy Vũ Quang, Lý Nhị, Mai Nhị. Trận Việt không người điều khiển, bắt đầu rối loạn.
Bỗng có tiếng quát:
– Sư đệ đừng sợ! Có ta đây.
Hai nhà sư Viên Căn, Viên Mộc, từ ngoài nhập cuộc, tấn công hai gã Đông, Tây; vợ chồng Lý Nhị đấu với hai gã Nam, Bắc. Vũ Quang được rảnh tay, hầu đưa kiếm vào cổ Đặng Trung. Y khinh thường không đỡ kiếm của hầu, mà vòng tay thọc kiếm vào cổ hầu, để hầu phải thu chiêu về đỡ đòn. Nhưng đã chậm, đầu y bay khỏi cổ, trong khi kiếm của y xớt vào cổ hầu, máu phun ra ra xối xả. Kinh hãi, hầu vội xé vạt áo buộc vết thương, tiếp tục cầm cờ chỉ huy.
Trận thế Việt lại nối liền với nhau. Trận chiến diễn ra ác liệt.
Về phía công chúa Thiên-Ninh, công chúa đã phát huy hết công lực, nhưng vẫn không địch nổi Miêu Lý. Y quát lên, rồi phát ra một chiêu với tất cả bình sinh công lực, định kết liễu tính mệnh bà. Công chúa nghiến răng đỡ. Bình một tiếng người bà bay bổng lại phía sau. Miêu Lý không nhân nhượng, y đánh tiếp một chiêu nữa. Công chúa đành nhắm mắt chờ chết. Thì thình lình có tiếng quát thanh thoát, rồi một người mặc quần áo vàng phi thân tới phát chưởng mạnh đến nghiêng trời lệch đất đánh vào lưng Miêu Lý. Biết rằng nếu không thu chưởng về đỡ, thì người sẽ nát ra như tương mà chết, Miêu Lý vội chuyển tay về sau đỡ. Bùng một tiếng người y rung động, cánh tay tê rần. Y nhìn lại thì ra Âu Hoàng.
Công chúa Thiên-Ninh thoát nạn, bà lại cầm cờ chỉ huy, Âu Hoàng, Âu Thanh, Âu Huyền dẫn đầu đội võ sĩ Việt đánh như hổ đói vồ mồi, hàng ngũ Tống bị đánh cắt làm nhiều khúc. Trận chiến diễn ra khủng khiếp.
Sự xuất hiện của bốn nhà sư chùa Báo-ân với Thần-vũ lục anh, khiến các võ sĩ Tản-viên lấy lại được thế công, thoáng một cái, hơn hai trăm võ sĩ Côn-luân bị giết hết.
Trong bốn nhà sư, thì Viên Diệp có võ công cao nhất. Ông đấu với gã Bắc thắng thế rõ rệt. Thấy máu ở cổ Vũ Quang chảy nhiều quá, cần phải kết thúc trận đánh mau chóng; ông quát lên một tiếng, đánh ra chiêu Lôi đả Ân tặc, gã Bắc vỡ làm năm sáu mảnh. Ông tiếp năm lá cờ trên tay Vũ Quang rồi đánh hai chiêu đẩy hai gã Nam, Bắc ra xa, nói với Lý Nhị:
– Sư huynh mau thay thế Vũ đệ. Còn Vũ đệ mau lui về băng bó.
Vũ Quang nhảy lên mình ngựa phi về hướng Thăng-long.
Giữa lúc trận chiến nghiêng ngửa chưa phân thắng bại, thì lại năm trái Lôi-tiễn nổ trên không. Tiếp theo Lôi-tiễn nổ liên tiếp ở khu rừng tre phía hậu quân Tống, lửa cháy ngụt trời.
Bất giác chư tướng Tống cùng quay đầu nhìn lại: Suốt một giải rừng tre, cờ Việt bay phất phới, quân reo dậy đất. Kị binh Việt đang phi như bay đuổi theo mười hai kị mã Tống nằm rạp xuống, ra roi cho ngựa chạy.
Miêu Lý kinh hoàng, vội lệnh cho quân rút khỏi chiến lũy. Lệnh vừa ban ra, quân sĩ un ùn bỏ chạy, bỏ cả lá chắn. Bấy giờ quân Việt mới xuất hiện truy kích. Tống bỏ lại tử sĩ, thương binh la liệt trong chiến lũy; chồng chất trên bờ chiến lũy, dưới con hào, và trên những thửa ruộng đầy nước.
Ghi chú,
Bình luận về trận chiến thê thảm này, gia phả Lưu thị chép về Lưu Mân như sau:
« Thảm thương thay, những chiến binh Tống kinh nghiệm có thừa, võ nghệ cao cường, trung nghĩa không thiếu; suốt cuộc đời sống ở miền Bắc, luyện tập chiến đấu ở vùng sa mạc. Bây giờ bị bọn ngu tướng (chỉ Quách Quỳ, Triệu Tiết) đẩy vào vùng bùn lầy, lội nước lõm bõm; đi đứng xoay sở đã khó khăn, thì còn nói gì đến chiến đấu? Họ giống như người bị trói chân trói tay. Khổ cho họ, họ phải đối địch với đội quân Việt thiện chiến hơn, dược dưỡng sức nên khoẻ hơn, được nuôi ăn đầy đủ hơn; trong lòng lại quyết tử để bảo vệ sống còn cho đất nước. Tướng của họ lại biết lựa chọn địa thế, để diệt khả năng chiến đấu địch, tăng khả năng chiến đấu quân mình».
Gia phả của họ Đặng chép về Đặng Trung có hơi khác:
« Tổ (Trung) tiến trước quân sĩ, đánh phá được chiến lũy Cổ-pháp, rồi kịch chiến với Hổ-uy thượng tướng quân, tước Thành-Tâm hầu tên Vũ Quang. Người giết được Quang, nhưng cũng bị trúng thương tuẫn quốc. Quách Qùy cố che dấu việc tiến binh vụng về, nên không tâu rõ rằng trận đánh thất bại, vì quân triều phải lội qua bùn lầy lên tới gối. Còn quân Việt thì phục ở trong bắn ra ».
Quân Tống rút ra khỏi tầm tên quân Việt, tập trung lại trên các bờ ruộng, trên nghĩa địa, thì đội kỵ binh Việt lại biến mất trong rừng tre.
Công chúa Thiên-Ninh gọi Mai Nhị:
– Miêu Lý cho quân rút khỏi tầm tên, y đã tưởng được yên thân ư? Khó lắm. Em cho nã Lôi-tiễn lên đầu chúng, để chúng kinh hoàng.
Lá cờ đỏ phất lên, tiếp theo những tiếng vi vu rít lên không gian, rồi hàng chục, hàng trăm mũi Lôi-tiễn nổ chụp trên đầu chỗ quân Tống tập trung. Mệt mỏi sau cuộc giao chiến thất bại, bây giờ bị Lôi-tiễn nã. Quân Tống không còn lòng dạ chiến đấu, quẳng vũ khí chạy tán loạn ra cánh đồng, vượt khỏi tầm Lôi-tiễn.
Mười hai kỵ mã Tống đã tới trước Miêu Lý. Y nhận ra bẩy kị mã không phải kị binh của y mà là quân chấp lệnh (quân chuyên chuyển lệnh) cạnh Quách Quỳ, với bẩy kị mã già, mũ che kín gần hết mặt. Miêu hỏi chúng:
– Các người đi đâu đây?
Viên đôi trưởng thở hổn hển:
– Quách nguyên soái truyền tướng quân hãy ngừng tấn công để chỉnh đốn lực lượng. Bởi toàn bộ cánh Nham-biền của ta bị diệt. Nguyên soái đang chuẩn bị lực lượng phá chúng. Để lừa chúng, người giả sai sứ chiêu hàng Lý Càn-Đức, hẹn cho y phải đầu hàng trước giờ Ngọ ngày mai. Được tin này ắt chúng yên tâm, không tấn công ta nữa, như vậy tướng quân với đô tổng quản Yên Đạt có thời giờ chỉnh đốn binh mã trước khi vào Thăng-long.
– Tình hình rừng tre ra sao? Có gặp kị binh của ta không? Tại sao bị kị binh Giao-chỉ đuổi theo?
– Khi tôi đến rừng tre, thì vừa gặp lúc quân Việt xuất hiện, giết đám kị binh giữ ngựa, rồi cướp ngựa. Chúng tôi kinh hoàng bỏ chạy về hướng này. Chúng cho một đoàn đuổi theo chúng tôi, đến đây thì rút chạy.
Trương Thế-Cự cau mặt:
– Ngựa bị bệnh, sao chúng có thể dùng được?
Đội trưởng chấp lệnh nói:
– Tế tác của ta ở Thăng-long thu lượm được tin tức báo về cho Quách nguyên soái rằng ba vị mắc mưu bọn Giao-chỉ. Nhưng tin đến quá trễ.
–?!?!?!
– Trương tướng quân bị Giao-chỉ lừa mà không biết. Nguyên trong khi thiết kế, chúng tính trước rằng Như-nguyệt bị thất thủ, ắt ta đem kị mã đánh về Thăng-long. Chúng dùng thuốc nhuyễn cân tưới lên khắp cỏ non vùng rừng tre. Chúng lại bầy ra vụ cho ba con trâu, ba đứa cỡi, thổi tù và, khiến ta dừng quân lại, rồi ngựa ăn cỏ độc, gân cốt nhuyễn ra.
– Lẽ nào quận chúa Minh-Thúy cũng giúp bọn Giao-chỉ hại ta?
– Không! Quận chúa bị lầm lẫn mà thôi. Quận chúa không biết chiến mã ta bị trúng độc. Người tưởng chúng ăn phải cỏ độc, nên người mới lấy trộm thuốc giải cỏ độc cho ta, dặn ta cách trị v.v; trong khi ngựa của ta ăn phải thuốc nhuyễn cân. Cho nên khi các vị đem quân đi rồi, thì binh tướng Giao-chỉ xuất hiện, không đầy nửa khắc trên hai trăm kị binh giữ ngựa bệnh bị giết hết. Chúng đem thuốc giải nhuyễn cân cho chiến mã ta uống. Hơn khắc sau, ngựa khoẻ như thường. Lập tức kị binh Giao-chỉ cỡi chiến mã của ta cùng hiệu binh Ngự-long tiến lên lập phòng tuyến ở rừng tre chặn đường tiếp tế của tướng quân. Thành ra bây giờ tướng quân tiến lên thì vướng chiến lũy Cổ-pháp, lui lại thì gặp chiến lũy rừng tre.
Miêu Lý nhăn mặt:
– Ngự-long? Thế quân nào trấn ở chiến lũy kia?
– Thưa chúng dùng hư binh cả. Hiệu Quảng-vũ vẫn còn ẩn ở trong rừng Bắc-biên. Hiệu Ngự-long ẩn ở trang ấp gần rừng tre. Còn trong chiến lũy kia chỉ có hiệu binh địa phương Hồng-châu với hiệu Quảng-thánh mà thôi.
Miêu Lý giận cành hông, y hỏi:
– Tin tức có cho biết tướng Giao-chỉ nào bầy mưu này không?
– Nghe nói là công chúa Thiên-Ninh.
– Con tiện tỳ thực xảo trá, ban nãy suýt nữa ta giết được thị. Sau này chiếm Thăng-long rồi ta sẽ bắt thị cho một trăm tên quân hiếp mới nư giận.
Nghe viên đội trưởng chấp lệnh nói, lòng Miêu Lý ngút lửa hận:
– Mình ngu thực. Chúng lợi dụng địa thế, ém quân ở trong. Vì vậy chỉ có một hiệu Thiên-tử binh với một hiệu địa phương, mà mình tưởng có tới bốn hiệu, nên dàn quân thực rộng. Rút cuộc quân không chết vì giao chiến, mà chết vì chông, vì tên, vì Thần-nỏ. Nghĩ một đời Đặng Trung trí dũng có thừa, từng tung hoành trên sa mạc Tây-thùy hai mươi năm qua anh hùng là thế, mà nay bỏ thân ở chốn man mọi này. Thảm thương thực.
Nhìn về phía chiến lũy, bất giác y nổi giận cành hông: Công chúa Thiên-Ninh ngồi trên chiếc xe tứ mã, bên cạnh có ba nàng Âu với sáu thiếu nữ đang tấu nhạc, mà lại là nhạc chiến thắng của nhà Chu bên Trung-quốc. Phía sau quân Việt đang nở cổng ra ngoài thu nhặt tử thi quân Tống. Miêu Lý bàn với các tướng:
– Ví thử ban nãy, không thấy đám kị binh xuất hiện, thì chúng ta đã chiếm được chiến lũy. Từ đây về Thăng-long còn có hai mươi dặm (10 km). Ta biết rõ hai hiệu Ngự-long, Phù-đổng đều chặn đường tiếp tế của ta, trong khi Thăng-long trống trơn. Ta có nên tiến đánh Thăng-long, bắt Càn-Đức, Yến-Loan, tạo thành một chuyện thống khoái kim cổ chăng?
Bọn Trương Thế-Cự, Lưu Mân đều đồng ý. Viên đội trưởng chấp lệnh nói:
– Chính vì giặc sợ tướng quân đánh Thăng-long, chúng mới dùng toàn lực đánh vào quân ta ở Nham-biền. Một vạn quân triều chết, bốn vạn bị bắt sống. Toàn bộ mười lăm vạn quân bị bắt, bị giết hết. Hiện tên Chiêu-Văn đang đem hai hạm đội, chở thêm hai hiệu Thiên-tử binh đi ngược sông Cầu tiến về Như-nguyệt. Trên bộ tên Hoằng-Chân chỉ huy hai hiệu nữa đánh phía sau. Còn vợ chồng Đinh Hoàng-Nghi chiếm Chi-lăng, vợ chồng Tôn Mạnh chiếm Quyết-lý, vợ chồng Thân Cảnh-Long chiếm lại Lạng-châu. Đường về của ta bị mất. Có tin thủy quân Việt đánh chiếm Khâm, Liêm, đang tiến về Quảng-châu. Xin tướng quân tạm cho quân nghỉ, chờ nguyên soái thanh toán hai đạo của Hoằng-Chân, Chiêu-Văn rồi sẽ tiến công cũng chưa muộn.
Y chỉ vào năm kị mã già nói nhỏ:
– Đây là năm đại sư Pháp-Minh, Pháp-Đức, Pháp-Thiên, Pháp-Hạ. Nguyên soái truyền rằng: Bốn vị phải ẩn thân, ngày mai nguyên soái thanh toán bọn Hoằng-Chân, Chiêu-Văn, rồi sẽ cho ba tướng Vương Tiến thống lĩnh hai tướng Bình Viễn, Vương Mẫn đem quân tiếp viện cho tướng quân. Trong đội quân tiếp viện sẽ có thêm năm đại sư Pháp-Tiên, Pháp-Trị, Pháp-Quốc, Pháp-Cách, Pháp-Vật. Mười đại sư thình lình xuất tấn công giết tướng giặc như giết chuột. Bấy giờ tướng quân sẽ tiến thẳng về Thăng-long.
Miêu Lý chỉ vào chiến lũy Cổ-pháp mà than:
– Chỉ vì Quách nguyên soái muốn giữ bí mật đến giờ chót, mà mình phải hy sinh mấy vạn tướng sĩ tại đây. Ví thử người cho mười đại sư xuất hiện trước, thì ta đã chiếm được Cổ-pháp, và đang vây Thăng-long rồi. Hỡi ơi!
Y lắc đầu:
– Bao nhiêu lương thực, với các đội hỏa đầu quân của ta để ở rừng tre bị Giao-chỉ tràn ngập. Đường tiếp tế phía trước thì hiệu Phù-đổng, Ngự-long lập chiến lũy cắt mất. Phía sau thì hiệu Quảng-thánh, Hồng-châu đóng chặn đường. Ta lâm thế tiến không xong, mà lùi cũng không được, chiều nay không có lương, thì làm sao đây?
Nguyễn Dư chỉ vào hai làng bên đường:
– Thưa tướng quân, hai làng này là nơi đồn trú lương thảo của Giao-chỉ, không biết bây giờ có còn không, hay đã di chuyển đi rồi.
Miêu Lý ra lệnh:
– Làng này là nơi đồn trú lương thảo, mà sao Thiên-Ninh lại không cho lập chiến lũy?
– Thưa làng nào, thị cũng cất đấu lương thảo, chứ không phải chỉ hai làng này mà thôi.
– Ta đánh Như-nguyệt như sét nổ, nếu thực sự trong làng chứa lương, thì chúng chưa di chuyển đi đâu. Người dẫn theo mấy tên bảo binh vào dò thám xem sao! Nhớ không được giết hại dân chúng.
Nguyễn Dư đi một lúc rồi trở về đưa ra cuốn sổ:
– Thưa tướng quân, quả như tướng quân đoán, lương thảo vẫn còn nguyên, chúng chưa di chuyển kịp. Trong làng chỉ còn đàn bà, trẻ con, người già, còn trai tráng thì bị bắt đem vào chiến lũy hết rồi.
Miêu Lý cầm sổ coi: Gạo mới sáu nghìn thùng (tương đương với ngày nay là sáu mươi nghìn kg), tôm khô nghìn cân, cá khô nghìn cân, mắm trăm cân. Y xem xuống dưới, còn có cả đường, đậu, chảo, nồi, bát, đũa. v.v.
Miêu Lý mừng rỡ vô cùng. Nhưng vốn tính cẩn thận, y cho gọi y sĩ tới kiểm lại xem, thực phẩm của Nam nan ăn vào có ngộ độc không. Sau khi kiểm soát, y sĩ trình:
– Ta ơn trời Phật, hai kho này toàn thực phẩm thượng hạng. Gạo có ba loại, một là gạo nếp tía, vừa thơm vừa dẻo; hai là gạo tám, vừa thơm vừa mềm; ba là gạo rự vừa dẻo vừa mềm. Cá khô thì toàn cá thu, cá chim; tôm thì toàn tôm he.
Miêu ra lệnh:
– Vào làng lấy gạo, cá khô, tôm khô phát cho quân ăn. Với số gạo này, đủ nuôi ba vạn người trong hai ngày.
Quân sĩ được phát gạo, cá khô, tôm khô, vội cùng nhau nấu cơm chiều ăn. Quân Tống đa số là người miền Bắc, chưa từng dược ăn cá thu, cá chim, tôm he, mực khô, với gạo tám. Đây là lần đầu tiên họ được ăn nhừng sản phẩm, mà họ chỉ được nghe kể trong những câu truyện cổ tích.
Trương Thế-Cự bàn với Miêu Lý:
– Bây giờ chúng ta phải hành động ra sao? Quân của ta bộ còn gần hai vạn; kị tuy không còn ngựa, nhưng số người cũng hơn vạn. Tổng cộng hơn ba vạn. Dù quân trong rừng tre, cộng với quân trong chiến lũy Cổ-pháp, ta vẫn đông hơn chúng. Nay lại thêm năm vị đại sư nữa, thì ta có hy vọng thắng chúng. Vậy ta nên chọn một trong hai đường: Hoặc phá vòng vây rừng tre mở thông đường về Như-nguyệt, hoặc phá chiến lũy Cổ-pháp tiến về Thănglong. Ta nên chọn đường nào?
Miêu Lý thở dài:
– Thôi đành theo lệnh nguyên soái, chờ đến trưa mai.
Đâu đó tiến nhã nhạc rất êm dịu vọng lại, y đưa mắt nhìn: Công chúa Thiên-Ninh cùng ba nàng Âu Hoàng, Âu Thanh, Âu Huyền đang dẫn quân thủng thẳng theo sau y, đầy đe dọa.
Một đoàn trâu kéo xe từ chiến lũy từ từ đi tới. Miêu Lý nhận ra đây chính là đoàn xe trâu của Võ Kim-Liên với Trần-Triệu Minh-Thúy đã chở xác tử sĩ sư một kị binh trả về cho Tống hôm trước. Nhưng lần này, thì đoàn xe dài gấp bội. Trên mỗi lưng trâu, có một người cỡi, kéo theo một chiếc xe chất đầy xác chết. Đoàn xe tới gần, y nhận ra người ngồi cạnh Minh-Thúy không phải là Võ Kim-Liên, mà là một thiếu phụ mình hạc xương mai, dáng điệu uy nghi; tuổi tuy cao, nhưng cực kỳ xinh đẹp. Thiếu phụ mặc y phục của vương phi Tống. Y vội cùng đội võ sĩ ra cản đường.
Quận chúa Minh-Thúy chỉ thiếu phụ hỏi Miêu Lý:
– Miêu tướng quân, người có biết ai đây không?
Miêu Lý đã nhận ra thiếu phụ là Yên-vương vương phi Lê Thiếu-Mai. Trước đây khi Yên-vương còn tại thế, vương phi cùng vương trấn Bắc-thùy, thì y chỉ là một đội trưởng kị binh. Y vội nghiêng mình thi lễ:
– Tiểu tướng giáp trụ trên người, không hành đại lễ được, xin vương phi đại xá.
Tiên nương vẫy tay:
– Tướng quân không nên đa lễ. Chỉ vì hoàng thượng nghe lời Vương An-Thạch xua trăm vạn quân tinh hoa xuống vùng lam chướng này, họ chết mà không đáng chết. Trong trận vừa qua, tướng quân để lại vừa thương binh, vừa tử sĩ trên ba vạn người. Ta bùi ngùi thương xót kẻ chinh phu, chết uất ức, chết tức tưởi mà xin công chúa Thiên-Ninh cho thu nhặt tử thi trả về Quách Quỳ. Ta lại băng bó cho thương binh, nay trao cho người. Vậy thương binh ta để lại đây, còn tử thi thì ta cho đem về Như-nguyệt.
Miêu Lý cung tay:
– Đa tạ vương phi.
Quận chúa Minh-Thúy chỉ vào năm lão già hom hem ngồi trên năm xe trâu bảo Miêu Lý:
– Ta với sư bá trở về Thăng-long. Còn đoàn trâu chở xác chết này thì do năm lão nhà quê với đám thiếu niên tiếp tục đánh xe đến tổng hành doanh Quách Quỳ. Họ là đệ tử của sư bá, nể lời ta mà giúp Tống, vậy các người phải đối đãi với họ cho tử tế.
Nói rồi nàng giật cương, xe trâu quay trở về chiến lũy Cổ-pháp.
Bấy giờ Miêu Lý mới kiểm soát qua loa năm lão già hom hem ngồi trên năm con trâu dẫn đầu đoàn sáu trăm xe. Thấy không có gì nghi ngờ, y cung tay:
– Tuân lệnh quận chúa.
Y sai quân kiểm soát sơ sài đoàn xe, rồi cho lên đường.
Hổ-uy thượng tướng quân, Chính-tâm hầu Vũ Quang bị thương ở cổ, hầu nằm rạp trên lưng ngựa tay bịt vết thương, hướng về hậu cứ để điều trị. Vì máu ra nhiều quá, hầu không điều khiển được ngựa. Con thần mã quen đường, đưa hầu về ấp phong của hầu là xã A-hộ, huyện Lục-ngạn (Kinh-Bắc) thì ngừng lại. Gió lạnh làm hầu tỉnh giấc. Một thiếu phụ thấy ngài thì chắp tay:
– Bẩm lậy đại vương ạ! Con nghe nói đại vương đang đánh giặc, sao lại về đây?
– Ta bị giặc chém vào cổ. Này bà ơi! Người ta bị chém mất đầu có sống được không?
– Bẩm, e không sống được.
Hầu tuyệt vọng, buông vết thương trên cổ, máu phun ra như vòi, rồi ngã lăn xuống mình ngựa. Người đàn bà kinh hãi, tri hô lên. Dân chúng vực hầu vào đình cứu cấp, thì hầu đã hóa.
Lại nói, phu nhân Kim-Liên đem xác tử sĩ Tống đến Như-nguyệt trở về hỏi thăm tin tức hầu, công chúa Thiên-Ninh cho biết hầu bị thương, đã về hậu cứ điều trị. Phu nhân về hậu cứ không thấy hầu, thì cực kỳ kinh hãi. Bà truyền lấy hai ngao binh đi tìm hầu. Ngao binh đánh hơi, dẫn bà về đây. Thấy hầu đã hóa nằm đó, dân chúng khóc lóc thảm thiết, bà vẫy tay cho họ im lặng, rồi lấy bút viết tờ biểu tâu lên triều đình. Sau khi niêm phong lại, bà trao cho viên lý trưởng:
– Các người không nên khóc. Hãy nghe ta dặn. Cách đây mấy năm, vùng này còn là rừng hoang, đầy ác thú, rắn độc. Ta với hầu đã dùng quân phá hoang, quy tụ các người thành trang ấp này. Triều đình lấy ba xã, trong đó có xã này làm ấp phong cho chúng ta. Ta với hầu thắt lưng buộc bụng, chi tiêu bằng bổng mấy chục đấu gạo, cá, mắm triều đình ban cho; nhất định không dùng tiền thuế làm của riêng, mà dùng tiền đó xây trường học, làm đường, mua trâu cho xã. Vì vậy ba xã của chúng ta trở thành giầu có.
Bà thở dài:
– Hầu với ta thành vợ chồng đã tám năm, chung lo việc nươc, không bao giờ rời nhau. Nay hầu tuẫn quốc, ta nguyện đi theo hầu. Nay ta để lại một tờ biểu tâu lên triều đình xin ân huệ không thu thuế cho các người trong mười năm. Vậy các người hãy đem về Thăng-long, đánh hồng chung, nộp lên Thái-hậu. Khi ta chết rồi, thì các người đem chôn ta với hầu thì nhớ để đầu chúng ta hướng về Bắc, tướng tinh chúng ta sẽ trấn không cho giặc xâm phạm Đại-Việt.
Nói dứt phu nhân đưa kiếm lên cổ tự tử.
Ghi chú,
Sau khi hết giặc, triều đình luận công, phong cho ngài tước Tri-tôn Đầu-thượng, Quả-cảm, Hùng-vĩ đại vương. Phu nhân được phong Trang-hòa, Thiên-đức, Trinh-tĩnh công chúa, truyền lập đền thờ. Ngài tuẫn quốc năm 28 tuổi, vương phi tuẫn quốc năm 26 tuổi. Trải qua 918 năm dài lịch sử, đến nay (1995) đền thờ ngài và công chúa vẫn còn, mang tên đền Bảo-linh, ở xã A-hộ, huyện Lục-ngạn; nay là xã Biện-sơn, huyện Lục-ngạn, tỉnh Hà-Bắc. Độc giả muốn thâm cứu thêm tiểu sử của ngài, xin đọc bài tựa NQSH, quyển 1, mục 7.1.2.
Trời đã về chiều (vẫn ngày 20 tháng giêng), công chúa Thiên-Ninh họp chư tướng kiểm điểm lại nhân mã, để chuẩn bị truy kích bọn Miêu Lý, thì thân binh vào báo:
– Linh-Nhân hoàng thái hậu với nguyên soái Thường-Kiệt giá lâm.
Công chúa dẫn Thần-vũ lục anh với bốn nhà sư chùa Báo-ân ra đón.
Lễ nghi tất.
Thái hậu tuyên chỉ:
– Thiên-Ninh hãy cho canh phòng cẩn thận, vì lát nữa sẽ có rất nhiều bậc tôn trưởng tới đây để bàn truyện cứu nước.
Công chúa Thiên-Ninh đưa mắt cho Phạm Dật, Kim-Loan:
– Hai em đem đội thần ngao canh gác dưới đất, đội thần ưng kiểm soát trên không thực cẩn thận.
Hai người cúi đầu rời trướng.
Lát sau, thị vệ dẫn một đoàn người vào, đó là hai thánh tăng Minh-Không, Đạo-Hạnh, với mấy đệ tử.
Lễ nghi vừa dứt, thì thị vệ lại dẫn vào một đoàn nữa: Vua bà Bình-Dương, phò mã Thân Thiệu-Thái, U-bon vương Lê Văn, công chúa Nong-Nụt; tiếp theo là tiên nương Bảo-Hòa với bốn nữ đệ tử Mai, Lan, Cúc, Trúc.
Mọi người yên vị.
Linh-Nhân hoàng thái hậu chỉ vua bà Bình-Dương:
– Vì phòng tuyến Phú-lương thất thủ, công chúa Động-Thiên, phò mã Hoàng Kiện, Qui-đức đại tướng quân Trần Di với phu nhân Phương Lý tuẫn quốc. Yên Đạt, Khúc Chẩn, Lôi Tự-Văn đem năm vạn quân triều, một trăm chỉ huy Tân-đằng-hải với năm vạn bảo binh kéo hết sang sông. Hiện chúng đang đánh phá vòng đai cuối cùng. Hoài-hóa thượng tướng quân Lý Đoan với phu nhân Trần Ngọc-Liên; đô thống Lý Tứ, phu nhân Mai Tứ; các cao thủ phái Tiêu-sơn tử chiến. Bây giờ chúng tạm nghỉ ăn cơm chiều. Có lẽ sáng mai chúng sẽ phá chiến lũy, rồi tiến về Thăng-long. Xã tắc mất còn trong sớm tối, nên quốc trượng Tự-An sai chim ưng đem thư cho sư phụ của cô phụ bảo phải mời các vị trưởng thượng tới bàn kế giữ nước. Nhưng giờ này vẫn chưa thấy quốc trượng giá lâm.
Công chúa Thiên-Ninh rụng rời chân tay, hỏi nguyên soái Thường-Kiệt:
– Đại ca! Làm sao chúng đánh Phú-lương dễ dàng như vậy?
Lý Thường-Kiệt kể:
– Dường như Quách Quỳ biết được ý định của ta. Một mặt khi họp chư tướng, y vẫn ban lệnh cho Yên Đạt rằng mặt Phú-lương là hư, Đạt chỉ cần đánh cầm chừng cho đến khi Như-nguyệt thất thủ, ta rút quân Phú-lương về cứu Thăng-long, bấy giờ mới vượt sông truy kích. Một mặt y gọi Đạt ra chỗ vắng ban mật lệnh rằng: Bằng mọi giá Đạt phải phá chiến lũy Phú-lương, rồi đem quân về đánh phía sau phòng tuyến Cổ-pháp. Công chúa Thiên-Ninh đang chống với Miêu Lý phía trước, nay bị đánh phía sau ắt tan vỡ. Vì vậy Yên Đạt mới quyết đánh bằng được Phú-lương.
Ông lắc đầu, tỏ ý rùng mình:
– Yên Đạt thực là tướng tài. Khi nhận được lệnh Quách Quỳ, y có năm mươi bè. Y ước tính rằng, ta có hiệu Vũ-thắng thủ trong lũy, mà muốn đánh, thì y phải có quân số năm vạn cùng tiến công. Với năm mươi bè, y chỉ có thể chở một lúc hai vạn rưởi quân, rồi trở về chở tiếp. Thời gian trở về, rồi lại bơi sang ấy, thì ta làm thịt hết hai vạn rưởi quân kia rồi. Tính thế, y ra lệnh cho bảo binh đẵn chuối làm bè nhỏ, chở trăm người một lúc. Suốt đêm hôm kia, bảo binh đóng được hơn hai trăm bè chuối. Thế là sáng qua, y có thể chở năm vạn quân qua sông một lúc.
Âu Hoàng vẫn không chịu:
– Trình nguyên soái, ví thử Yên Đạt có chở được năm vạn quân sang một lúc, mà y muốn phá chiến lũy Phú-lương, thắng lực lượng phòng thủ của công chúa Động-Thiên cũng không phải là dễ. Bởi ngoài hiệu Long-dực của Trần Di, Phương-Lý ra, ta còn có mười dàn Thần-nỏ, sáu sư thú, với hơn nghìn cao thủ phái Tiêu-sơn; lại còn mấy đội cảm tử binh của Hùng Trí, Hùng Tín, Âu Lam, Âu Hồng nữa. Bằng y thí quân, thì ít ra phải mất năm vạn. Mất năm vạn quân, thì sao y có thể đánh phòng tuyến thứ nhì của Lý Đoan, Ngọc-Liên, Lý Tứ, Mai Tứ?
Thường-Kiệt lắc đầu:
– Không ai ngờ đến một chi tiết nhỏ, chính cái chi tiết đó, làm vỡ phòng tuyến Phú-lương. Nguyên, trong trận Đâu-đỉnh, bọn Yên Đạt, Khúc Chẩn bắt được mười dàn Thần-nỏ của ta với hơn hai vạn mũi Lôi-tiễn. Khi bàn kế vượt sông, sao cho khỏi chết nhiều quân, đám hàng tướng Nùng Thuận Ninh, Sầm Khánh-Tân đề nghị dùng Lôi-tiễn đốt hàng rào chiến lũy.
Âu Hoàng vốn cực kỳ thông minh, bà bật lên tiếng úi:
– Hỏng rồi, trong quân bọn phản tướng cũng có mấy dàn Thần-nỏ, cũng có thú binh. Bây giờ chúng dùng bọn này xử dụng Lôi-tiễn bắn vào chiến lũy; lại dùng bọn thú binh làm hỗn loạn hàng ngũ thú binh của mình!!!
– Đúng như sư muội đoán.
Thường-Kiệt giảng giải: Lệnh Quách Quỳ ban ra rằng đúng giờ Thìn sáng ngày 19 tháng giêng, ba mặt Vạn-xuân, Như-nguyệt, Phú-lương đồng vượt sông. Yên Đạt đổi lại, ra quân trước hai giờ. Đúng giờ Dần, y cho quân xuống bè vượt sông. Quân ta chuẩn bị chống trả. Khi bè tới giữa sông thì dừng lại. Y cho quân đánh trống reo hò, rồi Lôi-tiễn từ các bè bắn trực xạ vào các lớp rào. Hàng rào bốc cháy khắp nơi. Bấy giờ chúng mới cho bè sang Nam ngạn, hô quân đổ bộ. Về phía ta, Trần Di thấy giặc bắn Lôi-tiễn thì hiểu rằng hàng rào vô dụng rồi. Hầu đợi cho các lớp rào bị cháy gần hết, quân Tống reo hò leo lên chiến lũy; bấy giờ quân ta xuất hiện đánh xuống. Nhưng khổ một điều Thần-nỏ ở dưới bè bắn trực xạ trở lên. Quân sĩ chết quá nhiều. Âu Lam, Âu Hồng tung thần ưng, thần phong đánh xuống, lập tức bọn hàng binh dưới bè cũng dùng cờ ra lệnh cho ưng, phong quay trở lại đánh ta. Ưng, phong không biết tuân lệnh ai, chỉ bay lượn trên trời. Đứng trước mối nguy, công chúa Động-Thiên, phò mã Hoàng Kiện lệnh cho quân lùi lại phía sau, chờ quân Tống leo vào trong chiến lũy, mới dùng Thần-nỏ bắn ào ạt. Nhưng khốn nỗi, chỉ có mười dàn Thần-nỏ, thì sao cản nổi năm vạn quân? Phò mã Hoàng Kiện, công chúa Động-Thiên lệnh cho Hùng Trí, Hùng Tín sai hổ, báo, ngao, tượng phối hợp với Thần-nỏ, Thiên-tử binh lâm trận. Cứ mười Thiên-tử binh lại có một cao thủ phái Tiêu-sơn hỗ trợ. Quân Tống chết hàng hàng lớp lớp. Nhưng bọn Yên Đạt, Khúc Chẩn vẫn thúc quân tiến lên. Giữa lúc ấy bọn hàng binh, hàng tướng đã vào trong chiến lũy; chúng dùng tù và, cờ, ra lệnh cho hổ, báo, ngao, tượng quay ngược lại đánh quân ta. Thú binh đứng trước hai lệnh trái ngược, chúng trở thành ngơ ngơ ngác ngác. Lập tức hàng ngũ quân Việt hỗn loạn ngay.
Thường-Kiệt hớp một hớp nước. Hùng Nghĩa nóng lòng hỏi:
– Thưa nguyên soái, rồi sao?
– Đứng trước nguy nan đó, Hùng Trí, Hùng Tín, Âu Lam, Âu Hồng xua đội cảm tử cố chọc thủng trận bọn hàng quân, tấn công bọn thú binh phản quốc. Bọn này không đề phòng, thành ra chỉ nửa khắc chúng bị giết sạch. Thú binh ta lại phất cờ, rúc tù và sai thú tấn công. Cho đến lúc này toàn bộ năm vạn quân triều của Tống đã lọt vào trong chiến lũy, phù kiều đã nối; quân tân-đằng-hải ào ào đổ bộ. Trận chiến cực kỳ khốc liệt. Sau nửa giờ gần như toàn bộ thú binh chết hết; hiệu Vũ-thắng, đội võ sĩ Tiêu-sơn còn lại không quá hai trăm người. Yên Đạt, Khúc Chẩn cho quân vây kín, rồi chiêu hàng.
Công chúa Động-Thiên hướng Yên Đạt xá một xá:
– Yên tướng quân, chúng tôi nay lâm đường cùng rồi, dĩ nhiên chỉ có hai đường. Một là hàng, hai là chết. Vậy trước khi quyết định, xin tướng quân cho chúng tôi được thảo luận với nhau, để trên dưới đồng lòng trong hành động tối quan hệ này.
Yên Đạt vẫy tay ra lệnh cho quân sĩ lùi lại. Công chúa gọi chư tướng tới gần, rồi nói:
– Chúng ta được lệnh trấn Phú-lương. Nay Phú-lương thất thủ, không phải chúng ta bất tài, cũng không phải chúng ta hèn nhát; mà vì quân chúng ta quá ít. Sau đây, giặc sẽ tiến đánh Yên Dũng, để tới Thăng-long.
Công chúa nói với vợ chồng Hùng Trí, Hùng Tín:
– Ta biết các em là những người yêu nước, sống chết với Phú-lương, không chịu rút chạy. Nhưng này các em, tiết tháo là điều cần thiết, nhưng đại cuộc lại là điều cần thiết hơn. Đằng nào Phú-lương cũng bị vỡ rồi, vậy các em hãy tìm cách chạy về Yên Dũng giúp vợ chồng Lý Đoan, Lý Tứ cố thủ, chờ quân tiếp viện. Các em có nghe ta không?
– Bọn thuộc hạ xin tuân chỉ công chúa.
– Vậy lát nữa đây, ta sẽ thách bọn Yên Đạt đấu võ. Trong khi chúng ta đấu, thì bốn em phá vòng vây bỏ chạy. Nhớ!
Đến đây, công chúa gọi Yên Đạt:
– Yên đô tổng quản! Tài trí chúng tôi không dở, võ công chúng tôi không hèn. Chúng tôi bị thua, vì đất chúng tôi hẹp, dân chúng tôi thưa. Vậy nếu như tổng quản muốn chúng tôi đầu hàng, thì xin lấy võ công thắng chúng tôi, chúng tôi mới phục.
Công chúa chỉ vào Trần Di, Phương-Lý:
– Bây giờ thế này, xin đô tổng quản cử ra ba người đấu với chúng tôi. Nếu như Tống thắng hai cuộc, thì chúng tôi xin quy hàng. Còn như Tống bại, xin Đô tổng quản rút quân về bên kia sông. Không biết đô tổng quản có chấp thuận không?
Yên Đạt cử Lôi Tự-Văn đấu với Hoàng phò mã, Lữ Chân đấu với công chúa, Tống Đạo đấu với Trần Di. Thế là ba cặp đấu một lúc. Quân Tống cùng ngồi xuống bãi cỏ say mê xem cuộc đấu, chúng thả ngựa cho gặm cỏ. Giữa lúc trận đấu nghiêng ngửa, thì vợ chồng Hùng Trí, Hùng Tín cùng phát chưởng đánh dạt quân Tống ra, rồi tung mình lên lưng ngựa, phi về hướng Nam. Quân Tống la hét, định đuổi theo, thì bốn người đã chạy mất hút.
Trận đấu giữa sáu người mỗi lúc một khốc liệt. Công chúa với phò mã vừa đánh vừa lùi tới chỗ đứng của bọn hàng tướng Nùng Thuận-Ninh, Sầm Khánh-Tân. Thình lình hai vị quát lên một tiếng, rồi xả kiếm chém hai tên hàng tướng. Hai tên Nùng, Sầm đang say mê quan sát trận đấu, tuyệt không đề phòng, trong khi hai vị ra chiêu như sét nổ. Lôi Tự-Văn, Lữ Chân muốn cứu chúng, nhưng thế không kịp. Hai người cùng xuất chiêu xả vào vai hai vị, để bắt buộc hai vị phải thu chiêu về tự cứu mình. Nào ngờ công chúa, phò mã vẫn không thu chiêu, đầu hai tên bay khỏi cổ. Bấy giờ hai vị mới chuyển chiêu đánh thẳng vào người Lôi, Lữ. Lôi, Lữ vội thu chiêu về cứu mình, nhưng không kịp nữa, kiếm hai vị xuyên qua ngực Lôi, Lữ; trong khi kiếm của Lôi, Lữ chém xả từ vai xuống ngực hai vị. Thế là cả bốn cùng chết.
Về phía Trần Di, hầu đấu với Tống Đạo, có hơi kém thế rõ rết. Khi thấy công chúa, phò mã tuẫn quốc, chiêu số của hầu bị rối loạn, bị Tống Đạo chém bay đầu. Phương-Lý thấy chồng chết, quận chúa rất bình tĩnh. Quận chúa nhặt đầu hầu ráp lại với thân, quỳ xuống lạy ba lạy. Lạy xong, thì lình bà tung người lên phóng kiếm lia vào cổ Tống Đạo. Đạo rút kiếm đâm vào ngực quận chúa, để quận chúa phải đổi chiều tự cứu mình. Không ngờ quận chúa vẫn không thu chiêu, kiếm của Đạo đâm suốt qua ngực bà, trong khi đầu y bay khỏi cổ.
Ghi chú,
Theo QTNC và TTCTGCK thì lúc tuẫn quốc, chức tước của phò mã Hoàng Kiện như sau: Phụ-quốc thái úy, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Binh-bộ thượng thư, Kinh-Bắc tiết độ sứ, Uy-viễn đại học sĩ, Sơn-Nam quốc công. Sau khi hết giặc, chức tước của phò mã vẫn giữ nguyên, nhưng tước thì thăng lên làm Hưng-quốc, Bảo-nghĩa, Nhân-dũng đại vương. Phò mã với công chúa được phối thờ ở thái miếu nên không có đền thờ riêng.
Sau này, khi lập đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu, hậu thế phối thờ công chúa cùng với ngài. Nếu con dân Đại-Việt nào đọc được những giòng này, mà còn tưởng nhớ đến huân công của công chúa, có thể hành hương đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu (Chép ở phần thứ 3.2 bài tựa, NQSH quyển 1, hoặc hồi thứ 39). Tại đây, tượng của thái hậu trong trang phục mầu vàng, ngồi ở chính giữa. Hai bên là tượng của sáu công chúa: Thiên-Thành, Động-Thiên, Nguyễn-thị Trinh-Dung, Vũ Thanh-Thảo, Trần Ngọc-Nam, Trần Ngọc-Huệ. Tượng của công chúa Động-Thiên y phục mầu đỏ sẫm, áo choàng ngoài, mũ mầu hồng nhạt, hai tay chắp lại trước ngực. ( Xin đừng lầm với tượng công chúa Thiên-Thành, y phục giống công chúa Động-Thiên, nhưng hai tay bưng cái quả đựng lộc).
Còn Trần Di tuẫn quốc năm 27 tuổi, truy phong là Nhân-dũng, Tráng-tiết, Thần-oai, Thủy-tế Long-vương. Phu nhân tuẫn quốc năm 26 tuổi, được truy phong Hòa-thạc, Chí-nhu, Uyển-mị, Đông-hải công chúa. Truyền lập đền thờ. Trải qua 918 năm dài thăng trầm của lịch sử, hiện nay (1995) đền thờ của ngài vẫn còn tại xã Mộ-đạo, huyện Vũ-thư, tỉnh Thái-bình. Độc giả muốn thâm cứu thêm tiểu sử của ngài, có thể tìm đọc thêm các tài liệu ghi ở phần tựa NQSH, quyển 1, mục 7.2.1.
Hình chụp tượng thờ công chúa Động-Thiên tại đền thờ Linh-Nhân hoàng Thái-hậu, xã Dương-xá, huyện Gia-lâm, Hà-nội.
Đợi cho Thường-Kiệt thuật xong, Linh-Nhân hoàng thái hậu tuyên chỉ:
– Tình hình xã tắc nguy trong sớm tối. Quách Quỳ có gửi sứ tới Thăng-long chiêu hàng. Y hẹn nếu trưa mai, giờ Ngọ, mà ta không tuân, thì y cho phá vòng đai Cổ-pháp với vòng Yên Dũng, tới làm cỏ Thăng-long. Nhưng cô phụ này thà chịu ngọc nát chứ không để có vết. Hà! Tính chung, sau khi chiếm được chiến lũy Phú-lương, Tống mất hơn hai vạn quân triều, năm mươi chỉ huy tân-đằng hải. Cộng chung hơn bốn vạn người. Như vậy Yên Đạt vẫn còn ba vạn quân triều, sáu mươi chỉ huy tân-đằng-hải, năm vạn bảo binh. Với mười một vạn binh, y thừa sức tràn ngập Yên Dũng. Thế đã cùng, nước mất trong sớm tối, ta phải làm một trong hai việc sau: Một là đem quân từ đây, tiếp viện cho Yên Dũng. Hai là đem quân đánh tập hậu, khiến Yên Đạt phải đem quân trở về giữ hậu cứ. Các vị nghĩ sao?
Chư tướng yên lặng, suy nghĩ.
Ngài dùng ngôn ngữ bình dân nói với công chúa Thiên-Ninh:
– Nguyên soái Thường-Kiệt thì muốn đem quân tiếp viện cho Yên Dũng hơn là đánh tập hậu. Nhưng nếu đem quân từ đây sang Yên Dũng, e mặt Cổ-pháp này không đủ sức chống với Miêu Lý, y sẽ tràn ngập Thăng-long ngay. Vì vậy cô phải lên đây hội ý với Thiên-Ninh xem sao. Ý Thiên-Ninh thế nào?
– Ý kiến của cô với anh Kiệt đều hợp lý cả. Theo cháu nghĩ, mặt Nham-biền, Tống bị hai vị hoàng thúc đánh tan mười lăm vạn quân. Mặt này thế của ta như chẻ tre. Còn tại Cổ-pháp, thì hiện quân số ta với Tống ngang nhau. Về phía ta, hiệu Quảng-thánh, với hiệu địa phương Hồng-châu bị thiệt hại nặng, chỉ có thể phòng thủ chứ tấn công thì không được. Hai hiệu Ngự-long với Phù-đổng cháu vẫn ém ở rừng tre, chưa dùng đến, tinh lực mạnh vô cùng. Còn Tống, thì sáu đạo binh triều, thiệt hại mất một nửa; đạo kị binh thì còn nguyên, nhưng ngựa lại bị ta cướp mất.
Công chúa tỏ vẻ cương quyết:
– Muốn cứu viện Yên Dũng cho mau, thì phải dùng hiệu Phù-đổng mới kịp. Vả vùng Yên Dũng là đồng bằng, thì kị binh sẽ tha hồ tung hoành. Còn mặt Cổ-pháp, dù thiếu hiệu Phù-đổng cháu vẫn thừa sức chặn Miêu Lý.
Nguyên soái Thường Kiệt lắc đầu:
– Dù ta có đem hiệu Phù-đổng sang mặt Yên Dũng, thì mặt ấy ta cũng chỉ có hai vạn quân, làm sao địch lại mười vạn người của Yên Đạt?
– Đại ca ơi! Muội đâu có ý định đem quân sang tiếp viện để đương đầu với Yên Đạt? Ý muội muốn đem quân sang chỉ với mục đích cầm chân chúng qua đêm nay. Nội ngày mai, quân của hai vị hoàng thúc sẽ đến Phú-lương, đánh phía sau địch. Trường hợp đó trận chiến sẽ khủng khiếp vô cùng, vì Yên Đạt phải đánh thục mạng để mở đường máu về Bắc Phú-lương.
– Này Thiên-Ninh!
Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi: Liệu hiệu Phù-đổng rút đi rồi, lỡ ra Quách Quỳ mang đại quân tới thì sao? Thiên-Ninh có chống nổi không?
– Cháu hứa với cô rằng có thể cản trở chúng trong ba ngày, chờ quân của hai vị hoàng thúc tới.
Tiên nương Bảo-Hòa nắm tay công chúa Thiên-Ninh, cử chỉ của ngài đối với công chúa như mẹ với con, hơn là thầy với trò:
– Phàm làm việc nước, thì phải thiết kế sao cho vẹn toàn. Đấu võ, lỡ ra thất thố thì chỉ một mình con bị thương, quá lắm thì chết. Còn thiết kế cứu nước, sai một tý, thì xã tắc sẽ lâm nguy, tội đó có chết đến nghìn lần cũng không chuộc lại được. Nay mặt trận Phú-lương, giặc có tới mười một vạn quân mà con định đem hai vạn ra cản ư? Không được. Muôn ngàn lần không được! Tại Cổ-pháp này chỉ còn hiệu Ngự-long nguyên vẹn, với hiệu khập khễnh Quảng-thánh, Hồng-châu mà định cản bốn vạn quân của Miêu Lý, đằng sau còn ba mươi vạn quân của Quách Quỳ ư? Phải tính lại.
Nghe sư phụ quở, công chúa Thiên-Ninh toát mồ hôi ra:
– Xin sư phụ dạy cho đệ tử phải hành động ra sao?
– Hiện Tống không có khả năng đem quân vượt biển đánh vào Thăng-long. Vậy ta không cần để quân trấn ở Nam Thăng-long nữa. Trước khi lên đây, ta đã truyền sư huynh Thường-Kiệt đem hiệu địa phương Thiên-trường, Trường-yên lên tiếp viện cho mặt Phú-lương rồi. Nay thêm hiệu Phù-đổng nữa, thì mới có thể giữ nổi. Trước kia phò mã Hoàng Kiện với công chúa Động-Thiên chỉ huy mặt này. Nay hai người đã tuẫn quốc, thì đích thân vua bà Bình-Dương phải đến trấn thủ mới nổi.
– Dạ.
– Còn con! Con phải làm sao diệt hết cánh quân của Miêu Lý trong đêm nay, rồi tràn đến đuổi giặc khỏi Nam Như-nguyệt, lập lại phòng tuyến. Bấy giờ Quách Quỳ muốn đánh nữa, lại phải hy sinh hai chục vạn người như trận vừa qua là điều y không thể làm. Ví dù y có muốn thí quân nữa, thì sau lần vượt sông này, y không còn quân đánh Thăng-long.
– Thưa sư phụ đệ tử,
Công chúa Thiên-Ninh đáp: Muốn làm như thế, nhưng không đủ sức. Sư phụ dạy cho phải làm thế nào?
– Tại sao con không làm được?
– Thưa, vì dù bị tổn thất, Miêu Lý cũng còn ba vạn quân. Tại Nam Như-nguyệt, Triệu Tiết với ba tướng Bình Viễn, Vương Mẫn, Vương Tiến có bốn vạn quân gồm sáu đạo cinh 11, 12, 13, 14, 15, 16. Ấy là không kể Bắc-ngạn y còn ba đạo 17, 18, 19, tới hai vạn nữa. Tổng cộng chúng có 9 vạn, mà đệ tử chỉ có hai vạn, thì làm sao mà thắng được?
– Con đừng sợ, ta đã có kế phá giặc rồi. Hãy đợi sư huynh Thường-Kiệt tóm lược tình hình đã.
Tiên nương đưa mắt cho Thường-Kiệt. Ông tóm lược:
– Hiện hai vương Hoằng-Chân, Chiêu-Văn đang tiến từ mặt trận Nham-biền về Như-nguyệt bằng hai cánh. Cánh trên bộ do Trung-Thành vương chỉ huy gồm hiệu Đằng-hải, Long-dực, với đội Thần-tiễn Long-biên. Cánh dưới sông do Tín-Nghĩa vương chỉ huy, gồm hạm đội Thần-phù, Bạch-đằng chở iai hiệu Hùng-lược, Vạn-tiệp. Nhiệm vụ hai cánh này là đe dọa đánh vào hậu cứ tổng hành doanh của Quách Qùy, bắt buộc y phải rút quân từ Nam ngạn về.
Vũ-kị thượng tướng quân Hà Mai-Việt hỏi:
– Thưa nguyên soái, nếu như Quách Quỳ vẫn chưa chịu lui quân, vì y cho rằng lực lượng của y tại tổng hành doanh dư sức đánh bật hai cánh của Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương thì sao?
– Trường hợp này nhị vương Trung-Thành, Tín-Nghĩa sẽ đánh thẳng vào hậu cứ cũa y. Đương nhiên y phải rút các đạo quân 10, 11, 12, 13, 14, 15 ở Nam ngạn về để đối phó với nhị vương. Cả hai trường hợp, Nam ngạn đều để trống rồi cái thế bắt cuộc y phải lệnh cho Miêu Mý đóng quân chờ y giải quyết xong hai cánh quân Nham-biền; Yên Đạt giải quyết xong Yên Dũng, rồi tái tấn công Cổ-pháp.
Ông nhấn mạnh:
– Nếu vì lý do nào, mà một trong hai cánh Yên-dũng, Cổ-pháp, Nham-biền thất thủ, thì Thăng-long nguy. Vì vậy bằng mọi giá, ta phải diệt cánh quân Miếu Lý, rồi thừa cơ Như-nguyệt trống trơn, ta tái chiếm.
Các tướng đều như nín thở nghe Thường-Kiệt trình bầy:
– Hôm qua, trong khi Tống, Việt chưa giao tranh ở Như-nguyệt, Thái-hậu đã đoán biết Như-nguyệt khó giữ. Tống thừa thế đánh Cổ-pháp sẽ bị chặn lại. Chúng tuyệt đường tiếp tế lương bổng, sẽ tràn vào hai xã nằm ngoài phòng tuyến cướp lương. Người viết thư sai chim ưng chuyển cho sư thúc Mộc-Tồn, đẫn đội đệ tử đem thuốc trộn vào gạo, cá khô, tôm khô, mắm ở hai xã. Quân Tống cướp lương này ăn vào, thì chân tay sẽ bải hoải trong một ngày, bấy giờ ta cắt chúng như bắt ốc vậy. Việc này trước đây công chúa Thiên-Ninh đã làm ở Nam-giới, khiến toàn bộ cánh quân của Đinh Kiếm-Thương không đánh mà tan.
Chư tướng vỗ tay hoan hô.
– Sau khi thanh toán đám quân của Miếu Lý, ta lấy quân phục, vũ khí của chúng cho hiệu Ngự-long mặc. Đợi trời sáng, ta cho hiệu Quảng-thánh, hiệu Ngự-long âm thầm đột kích Như-nguyệt. Chiếm Như-nguyệt xong, ta lập lại phòng tuyền như cũ.
Long-Nhương thượng tướng quân Phạm Dật hỏi:
– Thưa nguyên soái, tại đây ta có hai hiệu Ngự-long, Quảng-thánh. Cho rằng đêm nay đạo quân Miêu Lý bị trúng độc, ta diệt được, rồi sau đó tái chiếm chiến lũy Như-nguyệt. Giả như Quách Quỳ không rút khỏi Nam ngạn chiến lũy Như-nguyệt, thì hai hiệu Ngự-long, Quảng-thánh làm sao địch lại sáu đạo binh 10, 11, 12, 13, 14, 15? Rồi trên bờ Bắc ngạn, Tống vẫn duy trì ha đạo binh 16– 17, 18. Vì dù khi ta đánh Nam ngạn thành công, thì Quỳ sẽ tung ba đạo Bắc ngạn vượt phù kiều tiếp viện cho Nam ngạn. Bấy giờ hai hiệu Quảng-thánh, Ngự-long phải đương đầu với chín đạo binh Tống thì dù Thiên-tử binh có tài kinh thiên động địa cũug không địch nổi.
– Hầu hỏi thực phải. Sáu đạo quân trấn ở chiến lũy Như-nguyệu tin rằng phía trước có đạo quân Miêu lý, nên không đề phòng. Hơn nữa ta lợi dụng đêm tối, đột kích, khiến chúng kinh hoảng. Chúng bị bất ngờ tất thua chạy qua sông. Đợi cho chúng sang sông một nửa, giữa lúc đó, ta cho đội Giao-mong Tây-hồ nhảy xuống nước cắt phù kiều thì bao nhiêu quân chưa kịp chạy sẽ nhảy xuống sông mà trốn. Đội Giao-long binh sẽ giết sạch. Bấy giờ lập tức ta củng cố lại phòng tuyến như cũ. Tôi chỉ sợ có một điều.
–???
– Quân của Quách Quỳ có hơn nghìn võ sĩ. Trong trận hỗn chiến đánh Như-nguyệt, chết mất ba trăm, còn lại bẩy trăm người. Trong đám võ sĩ đó có rất nhiều cao thủ thượng thừa.
Chư tướng bật lên tiếng:
– Úi chà!
– Với võ công của đám này trừ Côi-sơn tam anh ra, trong các tướng của ta, không ai có thể địch lại. Nhưng chả hiểu sao, trận chiến Cổ-pháp, Quỳ chưa cho lâm chiến. Nhược bằng họ xuất hiện thì từ công chúa Thiên-Ninh, cho tới Thần-vũ lục anh, bốn vị đại sư chữ Viên chùa Báo-ân đã mất mạng! Giờ này Miêu Lý đang vây Thăng-long rồi. Vì vậy Thái-hậu mới thỉnh các vị tôn trưởng hiện diện để đối phó. Chỉ thiếu thái sư phụ mà thôi.
Có tiếng nói rất trong trẻo, rất dịu dàng vọng vào:
– Sư huynh! Ông nội tới rồi này.
Mọi người nhận ra là tiếng nói của quận chúa Minh-Thúy. Tiếng nói vừa dứt thì năm người xuất hiện, đó là quốc trượng Tự-An, quận chúa Minh-Thúy và ba thanh niên thân thể hùng vĩ, tư thái phong lưu, trông như ba cây ngọc trước gió.
Lễ nghi tất.
Mọi người đưa mắt nhìn ba thanh niên, như ý muốn hỏi ai vậy, quận chúa Minh-Thúy biết ý, giới thiệu:
– Đây là ba anh của tôi tên Vị-Hoàng, Thiên-Trường, Linh-Cơ.
Mọi người đều suýt xoa, vì từ lâu rồi, võ lâm Hoa-Việt truyền tụng ba thế tử con trai Kinh-Nam vương, từ năm bẩy tuổi được ông nội là quốc trượng Tự-An đem theo để dạy dỗ. Cho nên quốc trượng ngao du khắp Chiêm, Lào, Xiêm, Chân-lạp, Đại-lý, Tây-hạ, Bắc-liêu, Trung-nguyên, đều có ba thế tử ở bên cạnh. Ba người đã học được hầu hết học thuật của ông nội: Về võ công công có bản lĩnh ngang với phụ thân, về văn học uyên thâm như những đại học sĩ của triều đình. Bây giờ họ mới thấy mặt.
Quốc trượng Trần Tự-An, năm nay tuổi vừa đúng một trăm, nhưng tóc chỉ mới hơi hoa râm, da chưa nhăn, răng chưa rụng. Ông nói lớn:
– Già này tới đây để báo với Thái-hậu ba tin khủng khiếp.
Mọi người đều nín thở, mở to mắt, để nghe cái tin mà người ngang tàng coi thường cả Ngọc-Hoàng đại đế, Diêm-La lão tử như Tự-An mà còn phải mệnh danh là khủng khiếp.
– Quán-quân thượng tướng quân, Chính-tâm hầu Đinh Hoàng-Nghi với phu nhân là quận chúa Trần Phương-Quỳnh đã tuẫn quốc tại Khâm-châu.
Linh-Nhân hoàng thái hậu kinh hoảng, tay ngài nắm lấy tay sư mẫu là vua bà Bình-Dương, giọng ngài run run:
– Sao? Sao? Quốc trượng được tin này từ đâu? Nghi đệ tuẫn quốc mà sao Khu-mật viện không biết gì? Trời ơi. Không thể thế được, vạn vạn lần Nghi đệ không thể chết được!
Tự-An thở dài:
– Tin này lão phu mới nhận được, chưa sai chim ưng báo về, thì Khu-mật viện làm sao mà biết được? Thái hậu bình tĩnh. Dù gì thì bọn chúng cũng đã ra người thiên cổ rồi. Việc trước mắt của chúng ta là làm sao giữ được nước.
– Đa tạ quốc trượng.
Thái-hậu ngồi chết lặng đi.
Tự-An thuật:
– Trước đây triều đình lệnh cho phò mã Thân Cảnh-Long, công chúa Thiên-Thành chiếm lại Lạng-châu; lệnh cho Tôn Mạnh, Thanh-Nguyên chiếm lại Quyết-lý; lại lệnh cho Đinh Hoàng-Nghi với Phương-Quỳnh chiếm lại Chi-lăng. Mục đích của triều đình là chặn đường tiếp tế lương thảo của giặc, bắt buộc Quách Quỳ phải ngừng tiến quân, để giải tỏa con đường tiếp tế lương thảo. Nhưng triều đình không ngờ tới, con đường đó bị nghẽn, Quách Quỳ dùng đường Khâm-châu, Ngọc-sơn tiếp tế; vả lương thảo cho cuộc Nam xâm hầu hết chứa ở Khâm-châu. Vì vậy phò mã Thân Cảnh-Long bàn với Chính-Tâm hầu Đinh Hoàng-Nghi rằng hiệu Quảng-vũ nên chia làm hai. Một nửa trao cho Lý Tam, Mai-Tam trấn Chi-lăng, kéo cờ phô trương thanh thế. Một nửa do Hoàng-Nghi Phương-Quỳnh, Chang-Lan âm thầm di sang phía Đông chặn đường tiếp tế từ Ngọc-sơn.
Linh-Nhân hoàng thái hậu, nguyên soái Thường-Kiệt đều gật đầu, tỏ vẻ tán thành kế hoạch này của phò mã Thân Cảnh-Long.
– Ba người nghe theo.
Tự-An tiếp: Ba người đem quân về đóng ở vùng ven biển Ngọc-sơn. Chúng bàn rằng vì quân số ít ỏi mà chặn đường giặc thì không làm nổi. Vậy chỉ có cách lén đổ bộ Khâm-châu, đốt trọn kho lương giặc là truyện thống khoái kim cổ. Bởi hiện giặc tưởng phía trước quân Quách Quỳ, Khúc Chẩn, Tu Kỷ, Yên Đạt đang uy hiếp Thăng-long, thì sao ta có thể sang tận Khâm-châu. Nên tại Khâm-châu chúng không đề phòng. Ba đứa liên lạc được với đô đốc Trần Lâm nói dối rằng được lệnh Khu-mật-viện đem một ngàn quân, giả làm thủy quân Tống thi hành sứ mạng đặc biệt. Phương-Quỳnh là con Trần Lâm, nên Lâm tin ngay. Nhân Lâm mới bắt được hơn hai chục chiến thuyền của Tống với nghìn thủy thủ di dò thám; y lấy y phục, chiến thuyền, vũ khí, lệnh bài trao cho con rể, con gái. Thế là Nghi, Quỳnh, Lan dùng hơn nghìn Thiên-tử binh giả làm thủy thủ Tống chèo thuyền về Khâm-châu. Chúng tính sao về tới Khâm-châu đúng lúc trời chập choạng tối. Tổng trấn Khâm-châu là Nhâm Khởi thấy báo đội thủy tế tác từ Đại-Việt về, thì lệnh cho chiến thuyền neo ngoài khơi, hôm sau vào trình. Bọn Hoàng-Nghi cùng một số võ sĩ lên bộ mua sắm, rồi lọt vào trong thành. Đến đêm đám võ sĩ giết quân canh, mở cửa cho quân cảm tử vào. Khi quân Việt phóng hỏa khắp nơi, kho lương biến thành một biển lửa, thì bọn Nhâm-khởi mới biết. Nhâm cho quân đuổi theo tới bờ biển, thì đội cảm tử của Hoàng-Nghi đã xuống thuyền được một nửa. Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh, Chang-Lan đứng cản hậu cho quân rút lui. Khi quân xuống thuyền hết, ba người mới tung mình theo. Nhâm-Khởi truyền quân bắn tên, Hoàng-Nghi bị trúng năm mũi; Phương-Quỳnh bị trúng tám mũi. Đội cảm tử chạy thoát về tới vịnh Hạ-long thì gặp hạm đội Động-đình của Trần Lâm tiếp cứu. Từ Khâm-châu về tới Hạ-long mất ba ngày sóng gió, tên lại tẩm thuốc độc, nên Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh chỉ sống khắc khoải thêm một ngày, rồi chết. Trần Lâm cử một chiến thuyền chở xác Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh về Trường-yên mai táng. Nghe đâu Chang-Lan chôn xác hai người ở một ngôi chùa, rồi thế phát quy y.
Ghi chú,
Quán-quan thượng tướng quân, Chính-tâm hầu Đinh Hoàng-Nghi tuẫn quốc năm 26 tuổi. Phu nhân là Tuyên-đức, Thạc-hòa quận chúa Trần Phương-Quỳnh tuẫn quốc năm 25 tuổi. Sau khi hết giặc, triều đình nghị công phong cho hầu chức tước như sau: Hiển-uy, Trung-nghĩa, Duệ-mưu đại vương. Phu nhân được phong là Nghi-hòa, Tuyên-đức, Trang-duệ công chúa, truyền lập đền thờ ở vùng Nho-quan, Trường-yên. Nay thuộc thị xã Ninh-bình, tôi không tìm được dấu tích đền này.
QTNC và TTCTGCK thuật hơi lạ: Ngài được Linh-Nhân hoàng thái hậu yêu như con. Khi ngài tuẫn quốc, thái hậu khóc đến bỏ ăn, bỏ ngủ. Một hôm ngài hiện về trong giấc mộng nói với hậu rằng: Ngài không phải là người thường. Tiền thân ngài là con của Lạc-long-quân, vâng lệnh Ngọc-Hoàng thượng đế đầu thai làm Việt-vương Đinh Liễn đánh 12 sứ quân. Nay lại đầu thai đánh Tống. Vì vậy Linh-Nhân hoàng thái hậu truyền tu bổ đền thờ vua Đinh ở Trường-yên. Trong đền thờ cả Việt-vương Đinh Liễn tức ngài. Đền này nay còn ở thị xã Ninh-bình.
Trong khi tìm tòi trong kho tàng thư tịch Việt, tôi thấy ĐNCTC và Cao-bằng sự tích có chép: Đền Hoàng-lục ở xã Lũng-định, huyện Thương-lang, tỉnh Cao-bằng thờ An-biên tướng quân Hoàng Lục. Tướngquân sống vào thời vua Lý Nhân-tông, từng tham gia cuộc Bắc phạt đánh châu Khâm, Liêm, Ung và cuộc kháng chiến chống bọn tướng Tống là Quách Qùy, Triệu Tiết, rồi tử trận. Triều đình truyền lập đền thờ. Có lẽ là đền thờ ngài Đinh Hoàng-Nghi. Nhưng tôi chưa đến tận nơi sưu tầm, vả không thấy chép trong QTNC và TTCTGCK nên không dám quyết. Đành áp dụng phương pháp của cổ sử: Nghi dĩ truyền nghi (Điều gì nghi ngờ, thì cũng nói là nghi ngờ).
Độc giả muốn thâm cứu về tiểu sử ngài, xin xem bài tựa NQSH, quyển 1, mục 7.1.3.
Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi trong nước mắt:
– Thưa quốc trượng, thế còn tin khủng khiếp thứ nhì?
– Tin này đáng kinh sợ hơn tin trước.
Ông ngửa mặt nhìn lên nóc nhà: Hy-Ninh thâm! Vương An-Thạch cũng thâm! Quách Quỳ càng thâm hơn. Trước khi rời Biện-kinh ra đi, Hy-Ninh cho mật sứ mời các cao thủ thượng thừa Trung-quốc âm thầm theo trong quân, nhưng giữ tuyệt mật. Mật đến độ Triệu Tiết, Yên Đạt, Tu Kỷ, Khúc Chẩn, Miêu Lý cũng không biết, đợi khi trận đánh quyết định mới xuất hiện, khiến ta không trở tay kịp.
Cử tọa mặt nhìn mặt kinh hoàng. Vua bà Bình-Dương hỏi:
– Khải sư bá, những cao thủ đó là ai vậy?
– Mười đại cao thủ chữ Pháp ở chùa Thiếu-lâm, Tứ đại trưởng lão phái Hoa-sơn, Song-hùng phái Trường-bạch, Tam-ma phái Liêu-Đông.
Cử tọa cảm thấy lạnh xương sống, cùng phát ra tiếng « ái chà! ối! trời ơi ». Nhất là nghe đến tên Liêu-Đông tam ma, không ai mà không ớn.
Tiên nương Bảo-Hòa lắc đầu:
– Thưa sư bá tin này liệu có chính xác không? Với những cao thủ thượng thừa này, nếu như Quách Quỳ cho xuất trận thì e rằng sư huynh Phu-Quốc, nhị vương Trung-Thành, Tín-Nghĩa cùng chư tướng ở Nham-biền đã mất mạng, mười lăm vạn quân Tống không đến nỗi bị đánh tan. Tại chiến lũy Như-nguyệt, nếu họ xuất thủ thì chỉ cần nửa giờ các tướng ta mất mạng hết, Tống không đến nỗi thiệt mười vạn nhân mạng. Mới đây trận Cổ-pháp, Phú-lương, nếu họ cho cao thủ thượng thừa ra trận, thì giờ này họ đã ở Thăng-long rồi.
– Bởi vậy già này mới nói là chúng thâm. Nguyên khi Hy-Ninh họp các đại tôn sư ở Thiên-chương các, xin trợ giúp Quách Quỳ đánh Đại-Việt, thì các tôn sư đều từ chối. Họ viện lý rằng giữa võ lâm Đại-Việt với Trung-quốc vốn có tình giao hảo từ lâu. Nay họ không thể giúp triều đình xâm lăng Đại-Việt, theo ý ngông cuồng của Vương An-Thạch. Hy-Ninh khẩn khoản mãi, họ mới đồng chấp nhận chỉ xuất trận một lần duy nhất, sau trận đó, dù bại dù thắng họ cũng không can thiệp nữa. Do vậy Hy-Ninh trao mật chỉ cho Quách Quỳ rằng các các cao thủ chỉ được tung vào một trận cuối cùng mà thôi. Vì y sợ nếu tung ra sớm e các cao thủ thượng thừa của ta xuất hiện thì các trận sau khó mà thành công. Theo ý Hy-Ninh, thì dù phải hy sinh năm mươi vạn quân, mà chiếm được Đại-Việt thì Quách Quỳ cũng được phong tước công. Theo tin mới nhận được, thì trận đánh ngày mai các cao thủ Tống mới xuất trận. Ý định của Quách Quỳ là cao thủ Tống thình lình ra tay, các tướng ta bị giết hết, đại quân Tống sẽ tràn ngập Cổ-pháp, Phú-lương, Vạn-xuân, rồi tới Thăng-long.
Ông cầm tờ giấy ra đọc lớn:
– Từ khi Quách Quỳ đem quân tới Bắc Như-nguyệt thì Mộc-tồn, Viên-Chiếu đã đem một số cao thủ ẩn trong quân Tống để dò la tin tức. Đây tin mới nhất đây: Năm nhà sư Pháp-Tuệ, Pháp-Minh, Pháp-Đức, Pháp-Thiên, Pháp-Hạ mới tăng viện cho Miêu Lý để ngày mai đánh vào Cổ-pháp. Năm nhà sư Pháp-Tiên, Pháp-Trị, Pháp-Quốc, Pháp-Cách, Pháp-Vật đã ở trong đạo quân của Vương Tiến, ngày mai tiếp viện cho Miêu Lý. Hoa-sơn tứ lão chuẩn bị để đánh đạo quân Trung-Thành vương. Liêu-Đông tam ma chuẩn bị đánh đạo quân của Tín-Nghĩa vương. Trường-bạch song hùng đã có mặt ở Phú-lương.
Ông chỉ vào Vị-Hòang:
– Cháu nói rõ về vụ này cho chư tướng biết.
Thế-tử Vị-Hoàng đứng dậy chào cử tọa một lượt rối nói:
– Các đại cao thủ Tống hạ sơn đa số do lời thỉnh cầu của Hy-Ninh, duy có Liêu-Đông tam ma thì lại do Vương An-Thạch chiêu mộ. Võ công của Liêu-Đông thuộc tà môn, nên từ xưa đến giờ bị võ lâm Trung-nguyên coi là tà ma ngoại đạo. Đệ tử Liêu-Đông đa số đều là đầu trộm đuôi cướp, bị quan quân truy nã rất gấp. Nay An-Thạch hứa rằng, sau khi bình Đại-Việt, bất biết đệ tử môn phái này phạm tội gì cũng được ân xá hết.
Chư tướng cùng thắc mắc về võ công của phái Liêu-Đông ra sao, mà bất cứ cao thủ võ lâm nào nghe đến đều kinh hồn táng đởm.
Vị-Hoàng đáp:
– Sở trường của phái Liêu-Đông là dùng Huyền-âm chưởng. Chưởng này bá đạo hơn Nhật-hồ độc chưởng nhiều. Bởi bất cứ cao thủ nào đấu với đệ tử Liêu-Đông, chỉ cần chạm vào chưởng của chúng, là bao nhiêu công lực tiêu tan hết, hóa ra người tàn tật.
Tiên-nương Bảo-Hòa cau mặt lại:
– Thế thì nó cũng giống như Qui-pháp âm dương của Đại-Việt ta. Tôi nhớ trước đây trong trận Tản-lĩnh, Kinh-Nam vương Tự-Mai, U-bon vương Lê Văn rồi Tôn Đản đã dùng thuật này hút hết công lực của các đại cao thủ phái Hoa-sơn, mà có ai gọi là tà ma đâu? Hiện bốn đệ tử Mai, Lan, Cúc, Trúc của tôi cũng biết thuật này.
Vị-Hoàng cung tay:
– Thưa sư bá! Qui pháp âm dương với tản công của phái Liêu-Đông khác nhau rất nhiều. Qui-pháp âm dương chỉ hút công lực đối thủ, khi đối thủ dồn chân khí tấn công mình. Còn tản công phái Liêu-Đông thì chính bọn họ dồn công lực đánh người, nhân đó đẩy độc khí sang. Ai bị qui-pháp âm dương hút mất công lực, sau đó tái luyện lại rất mau. Còn ai bị tản công, thì độc chất vào cơ thể, công lực mất hết, sau không thể luyện lại được. Bọn Liêu-Đông thường dùng tản công làm mất hết công lực người rồi bắt sống, làm nhục đủ điều. Chính vì vậy… vì vậy chúng mới đóng năm cái cũi mang theo trong quân rồi tuyên bố rằng sẽ bắt…sẽ bắt… năm người giam vào đó đem về Biện-kinh.
Đến đây Vị-Hoàng ngừng lại dường như không dám nói. Tiên-nương Bảo-Hòa cười:
– Chúng tuyên bố bắt những ai? Cháu cứ nói ra, việc gì mà phải che dấu?
– Dạ, chúng tuyên bố bắt Mộc-tồn hòa thượng, Viên-Chiếu hòa thượng, sư thúc Lê Văn với hai vị thánh tăng Minh-Không, Đạo-Hạnh.
Cử tọa cùng bật lên tiếng ồ.
Tự-An nghiêm mặt:
– Khi chúng dám tuyên bố như vậy, ắt bản lĩnh của chúng không tầm thường đâu. Phải cẩn thận lắm mới được.
Thường-Kiệt cung tay:
– Xin thái sư phụ điều động chư tôn sư Đại-Việt để chống với cao thủ Tống.
Tự-An suy nghĩ một lúc rồi nói:
– Bọn Trường-bạch sở trường về độc công. Đối phó với Trường-bạch song hùng ở Phú-lương ngoài Thiệu-Thái ra, không ai đương nổi. Vậy Thiệu-Thái, Bình-Dương đem bẩy đại cao thú phải Mê-linh khẩn lên đường ngay.
Hai vị cúi đầu nhận lệnh.
Linh-Nhân hoàng tái hậu đứng dậy chắp tay:
– Vì tầm quan trọng của mặt trận Phú-lương nên trước đây đệ tử để phò mã Hoàng Kiện, công chúa Động-Thiên trấn thủ tại đây. Nay hai vị đó đều tẫn quốc rồi. Vậy đệ tử lớn mật, dám xin sư phụ, sư mẫu tổng chỉ huy mặt này cho.
Vua bà Bình-Dương cầm tay thái hậu, nói bằng ngôn từ bình dân:
– Thái hậu yên tâm. Anh chị sẽ cố gắng làm tròn bổn phận.
Tự-An tiếp:
– Bọn Liêu-Đông chuyên dùng thuốc luyện độc chưởng. Đối phó với chúng phải có người giỏi y lý. Vậy U-bon vương Lê Văn với công chúa Nong-Nụt bằng mọi giá phải dùng thuyền nhỏ đuổi theo hạm đội Thần-phù, Bạch-đằng để diệt bọn Liêu-Đông tam ma, và để bắt bọn chúng bỏ vào cũi mang về Thăng-long.
Ông đưa mắt nhìn cử tọa một lượt:
– Từ hai chục năm nay, Hoa-sơn tứ lão ra sức tìm cách phá Long-biên kiếm pháp. Họ đã tìm ra rằng: Long-biên kiếm pháp dùng kiếm chiêu ảo diệu để thắng địch. Vì vậy họ dùng kiếm khí để khắc chế. Họ ra sức luyện nội công Long-biên đến chỗ cực kỳ cao thâm. Trong các cao thủ của ta, họa may Mộc-tồn, Viên-Chiếu hòa thượng là có thể trị được họ.
Linh-Nhân hoàng thái hậu lắc đầu:
– Trình quốc trượng, khổ một điều là sư phụ với sư bá hỉ nộ bất thường, hạc nội, mây ngàn không biết đâu mà tìm. Nhất là sư bá Mộc-tồn, chỉ có tiên nương Bảo-Hòa, Thiếu-Mai mới có thể nói cho sư bá nghe. Không biết sao, trong cuộc hội quan trọng như thế này, mà sư bá, sư phụ không giá lâm?
Tự-An cười:
– Dĩ nhiên gã Mộc-tồn không tới. Bởi trên đời này dù cho Ngọc-Hoàng đại đế, Diêm-La lão tử y cũng không sợ, mà chỉ sợ gặp mặt Bảo-Hòa với Thiếu-Mai. Trong cuộc hội quan trọng này, y biết thế nào Bảo-Hòa, Thiếu-Mai cũng hiện diện, thì đời nào y dẫn xác tới? Nhưng lão phu biết y ở đâu rồi. Để lão phu viết thư cho y.
Nối rồi ông viết thư, vẫy tay gọi bốn nhà sư chữ Viên:
– Phiền bốn hòa thượng cầm thư này trao cho Mộc-tồn, Viên-Chiếu dùm. Nhớ sao chiều nay phải tới tay họ.
Bốn người lến đường tức thì.
Tự-An nhìn Bảo-Hòa mỉm cười:
– Người chỉ huy tuyến Cổ-pháp này là cô cháu xinh dẹp Thiên-Ninh. Vậy tiên nương là sư phụ của Thiên-Ninh, xin đem các cao thủ Mai, Lan, Cúc, Trúc, vợ chồng Hùng Nhân, Nghĩa, Lễ giúp đệ tử đối phó với ngũ đại thần tăng Thiếu-lâm.
Ông đưa mắt cho hai thánh tăng Đạo-Hạnh, Minh-Không:
– Sau khi đánh tan đạo quân Miêu Lý, ắt công chúa Thiên-Ninh sẽ đánh úp Như-nguyệt. Tại Như-nguyệt còn năm thần tăng Thiếu-lâm nữa, xin hai thánh tăng hạ Phật giá giúp Bà-chúa-kho.
Ông nhìn Thường-Kiệt:
– Già trả lại việc điều quân cho cháu.
Công chúa Thiên-Ninh hỏi Thường-Kiệt:
– Thưa sư huynh! Ban nãy sư huynh nói rằng đội Giao-long binh sẽ đánh phù kiều. Mà đội này hiện theo Tín-Nghĩa vương, thì sao có thể cùng ta xuất thủ?
– Sư muội ơi! Trước khi thiết kế, ta đã cho chim ưng mang lệnh tới Tín-Nghĩa vương. Vương đã lệnh cho ho dùng thuyền khẩn cấp ẩn trong nhánh sông nhỏ gần chiến lũy Như-nguyệt, chờ khi quân Tống đang bỏ chạy xuống phù kiều, thì xuất hiện giết chúng, rồi cắt phù kiều. Ta lại nhân Quảng-đông ngũ cái từ Chiêm về trợ chiến. Ta nhờ họ cùng đội đệ tử Việt kiều của họ giả làm dân phu tải tử thi Tống về Như-nguyệt. Xe của họ có hai lớp đáy. Dưới lớp đáy thứ nhì để toàn mã não, hoàng thạch. Ngày mai giữa lúc ta đánh phù kiều, tất Quách Quỳ cho quân tập trung ở bờ Bắc, để sang sông tiếp viện. Quảng-Đông ngũ cái cùng đội Giao-long sẽ lắp giáo vào sừng trâu, rồi đốt mã não, hoàng thạch. Trâu bị đốt nóng, chạy đâm bổ vào đội hình quân Tống. Với sáu trăm trâu, kéo sáu trăm xe lửa, sẽ gây cho quân Tống kinh hoàng. Còn đội Giao-long Tây-hồ thì nhảy xuống sông chặt phù kiều.
Ông ngừng lại:
– Hôm trước Bà-chúa-kho bắt được bao nhiêu ngựa của Tống? Ngựa đó bây giờ ở đâu?
Công chúa Thiên-Ninh chỉ Vũ-kị thượng tướng quân Hà Mai-Việt:
– Muội bắt được năm nghìn chiến mã Tống, đã trao cho Mai tướng quân. Trước đây Mai tướng quân có một vạn kị mã, mà chỉ có năm nghìn chiến mã. Nay bắt được chiến mã Tống, thành ra ta có một vạn chiến mã cho một vạn kị mã. Hiệu Phù-đổng trở thành mạnh vô cùng.
Thường-Kiệt ban lệnh:
– Bây giờ Vũ-kị thượng tướng quân Hà Mai-Việt hãy lên đường ngay. Còn mặt trận này xin trao trả công chúa Thiên-Ninh.
Buổi hội chấm dứt.
Tại chiến lũy Cổ-pháp, Đại-Việt
Giờ Hợi, ngày 21 tháng giêng, niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng đời vua Lý Nhân-tông bên Đại-Việt, bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ mười đời vua Thần-tông nhà Tống (Đinh-Tỵ, DL.1077).
Công chúa Thiên-Ninh thăng trướng:
– Hiệu Ngự-long của Phạm Dật, Kim-Loan, Lý Nhất, Mai Nhất phát xuất từ rừng tre; có hai thánh tăng Minh-Không, Đạo-Hạnh, Thần-vũ tam hùng Nhân, Nghĩa, Lễ chỉ huy thú binh theo trợ chiến. Hiệu Quảng-thánh của Lý Nhị, Mai Nhị phát xuất từ Cổ-pháp; có bốn sư tỷ Thân Mai, Lan, Cúc, Trúc; Thần-vũ tam thư Âu Hoàng, Thành, Huyền đem thú binh trợ chiến. Đúng giờ Sửu ngày mai, khi thấy Lôi-tiễn bắn lên trời, thì đồng loạt tấn công vào chỗ đóng quân của Miêu Lý.
Công chúa dặn:
– Chư tướng phải ra lệnh cho quân: Nhược bằng quân Tống bị trúng độc, thì tuyệt đối không được chém giết.
Công chúa nói với tiên nương Bảo-Hòa:
– Sư phụ cùng chư đệ tử theo giúp con.
Các cánh quân âm thầm lên đường. Công chúa Thiên-Ninh đứng bên mười dàn Thần-nỏ chờ đợi. Thời gian nặng nề trôi qua.
Đúng giờ Sửu, công chúa phất tay, xạ thủ châm lửa đốt vào Lôi-tiễn rồi bắn. Ba trái Lôi-tiễn rú lên chói tai, bay lên nền trời, kéo thành ba vệt đỏ tươi, rồi nổ ba tiếng lớn, biến thành ba trái cầu lửa trên trời.
Lập tức tiếng trống thúc, tiếng quân reo, tiếng ngựa hí, tiếng thú gầm rung động trời đất. Hai hiệu Ngự-long, Quảng-thánh cùng đốt đuốc, reo hò tấn công vào khu vực đóng quân của Tống.
Hồi chiều ngày 20 tháng giêng, Miêu Lý cướp được lương thảo, y hí hửng định phát cho quân nấu ăn. Sau khi ăn xong, chư quân đều cảm thấy buồn ngủ kỳ lạ. Miêu cho rằng, sau hai ngày xung sát, nay quân được ăn no, thì buồn ngủ là lẽ thường. Chính y với chư tướng cũng lăn ra ngủ.
Nhưng qua ngày hai mươi mốt, binh tướng càng cảm thấy người mề mệt, buồn ngủ kỳ lạ, rồi đến chiều thì chân tay cảm thấy vô lực. Miêu Lý bàn với Trương Thế-Cự, cả hai cứ cho rằng binh tướng nhiễm phải lam chướng, chỉ cần nghĩ một hai ngày là hết.
Bây giờ thình lình, tiếng Lôi-tiễn nổ rung động không gian, Miêu Lý cùng chư tướng giật mình thức dậy. Nhưng người nào cũng cảm thấy chân tay vô lực, cử động khó khăn. Trương Thế-Cự lên tiếng:
– Chóng mặt quá.
Y tung người lên cao, nhưng lực không có, y loạng choạng rồi ngã ngồi xuống. Các tướng cũng cùng một hoàn cảnh như Thế-Cự.
Xung quanh trại, đốc đốt sáng rực. Quân Việt đang hò hét xua thú tấn công. Miêu Lý thét lên:
– Tại sao chúng ta lại mệt như thế này? Hay là chúng ta bị trúng độc?
Thiếu-lâm ngũ đại thần tăng đã dẫn đám võ sĩ tới. Pháp-Tuệ lên tiếng:
– Miêu quân hầu, dường như chư quân đều trúng độc. Có lẽ độc ở trong thực phẩm của bọn Giao-chỉ thì phải. Hồi chiều, sau khi ăn xong, chư đệ tử của anh em bần đạo đều cảm thấy buồn ngủ kỳ lạ. Sau bần tăng dùng thần công giải độc cho họ. Cho đến lúc nãy mới xong.
Nói rồi năm vị tăng đều vận chưởng phát nhẹ vào lưng chư tướng. Kỳ diệu thay, chỉ một cái phát nhẹ, mà độc tố được giải. Chư tướng vận công thử, thấy khí huyết trở lại bình thường thì mừng chi siết kể.
Quân Việt đã tràn ngập các trại, khu trung ương bị bao vây bởi đội cung thủ Long-biên. Xen giữa hai cung thủ lại có một cặp hổ, một cặp báo, hay một cặp sói. Chúng nhe nanh trắng ởn, há miệng đỏ lòm ra mà gầm gừ. Ngũ-tăng vẫy tay ra lệnh, lập tức đội đệ tử dàn ra thành vòng tròn, chuẩn bị đối phó. Miêu Lý biết đại cuộc đã hỏng, y quát lớn:
– Ta muốn gặp chúa tướng các người.
Hai thớt voi từ từ tiến tới. Trên bành, mỗi thớt có đôi trai gái tuổi khoảng trên hai mươi lăm. Trai thì hùng vĩ, khôi ngô, gái thì sắc nước hương trời. Bọn Miêu Lý nhận ra đó là Phạm Dật, Kim-Loan, Lý Nhất, Mai Nhất. Phạm Dật cung tay:
– Long-nhương thượng tướng quân, Thiện-tâm hầu Phạm Dật cùng Thiên-ân, Nhu-mẫn quận chúa Lê Kim-Loan xin bái kiến chư vị tướng quân nhà Đại-Tống cùng các vị võ lâm đồng đạo.
Là một tướng kị binh lỗi lạc, nhưng từ lúc rời Như-nguyệt đến giờ, Trương Thế-Cự bị mắc mưu Phạm Dật, Kim-Loan quá nhiều: Nào cho ba con trâu lồng để lừa bắt đội kị binh thám mã, nào sư kị đệ nhất bị trúng phục binh, nào ngựa ăn phải cỏ độc, nào bị ăn phải thực phẩm tẩm thuốc; bây giờ bị bao vây. Y nổi cáu:
– Tên ôn con kia! Mi có giỏi hãy cùng lão gia đấu vài nghìn chiêu, chứ người chỉ biết dùng mưu cắn trộm, thì lão gia có chết cũng không phục.
Kim-Loan cười lớn:
– Chư tướng có nghe Vũ-kị đại tướng quân nói không? Này Trương tướng quân, phàm dụng binh, thì trước hết dùng mưu để thắng đối phương. Khi không còn cách nào nữa, mới phải lăn vào chém giết nhau. Từ lúc Trương hầu đem đoàn kị binh vô địch đến rừng tre, phu quân tôi chưa bắn một mũi tên, đánh một chiêu võ, mà bắt được hai đội thám mã kị binh. Một trận phục kích nho nhỏ, diệt trọn sư đệ nhất. Một vài hũ thuốc, bắt hơn năm nghìn chiến mã, khiến cho đội kị binh vô địch thành đội kị binh đi bộ. Đó mới là đại tướng; chứ còn lăn mình vào đấm đá nhau hùng hục, thì chẳng hóa ra mình cũng như trâu, như bò sao?
Binh tướng Việt cười ồ lên.
Trong khi Kim-Loan nói, Miêu Lý dặn ba gã Đông, Tây, Nam:
– Cục diện ngày hôm nay, dù chúng ta có bản lĩnh nghiêng trời lệch đất cũng không thoát khỏi vòng vây này. Vậy trong khi thị mải nói, ba người vọt tới kiềm chế vợ chồng thị, bắt chúng phải mở vòng vây cho ta.
Ba người gật đầu, vận khí đứng chờ.
Trong khi đó Kim-Loan tiếp:
– Còn như cái việc các vị ăn gạo tám, gạo rự, gạo nếp cùng khô cá thu, cá chim, chúng tôi có mời các các vị đâu? Có ai vô lý như Trương hầu không? Trương hầu sai quân đi cướp về ăn, rồi chẳng may thực phẩm miền Nam không hợp với tỳ vị người miền Bắc mà sinh bệnh, bây giờ quân hầu lại chửi chúng tôi! Hỡi ơi! Đạo lý ở chỗ nào vậy?
Ba gã Đông, Tây, Nam cùng vọt người lên, chỉ nhấp nhô mấy cái, ba người đã vượt khỏi vòng vây của đội cung thủ Long-biên với đội binh thú. Ba người cùng lạng người tới cạnh voi, phóng chưởng đánh xuống đầu vợ chồng Phạm Dật. Chưởng phong làm quân sĩ đứng gần muốn nghẹt thở. Phạm Dật, Kim Loan như không biết đến cái nguy hiểm. Nàng tiếp:
– Hỡi ơi!
Đến đây chưởng phong đã bao trùm hai người. Ba gã Côn-lôn biến chỉ thành trảo chụp đối thủ. Bỗng từ hai bên với của Phạm Dật, Kim-Loan, có ba bóng trắng, đen, xanh xẹt lên cao như bốn con hạc, rồi cùng phát chưởng tấn công vào trước mặt ba gã Côn-lôn. Kình phong mạnh muốn nghiêng trời lệch đất. Ba gã Côn-lôn kinh hãi, vội biến trảo thành chưởng đỡ. Bình, bình, bình ba gã Côn-lôn bắn vọt trở về chỗ đứng cũ như chính chúng nhảy về vậy. Cả ba gã đều cảm thấy cánh tay tê liệt, khí huyết chạy nhộn nhạo cực kỳ khó chịu.
Bon Miêu Lý nhìn lại, xem ai mà có công lực mạnh như vậy? Bất giác chúng đều ngẩn người ra, vì đó là ba thiếu nữ mình hạc xương mai, tuổi tuy lớn, nhưng vẫn còn giữ được vẻ đẹp hiếm có.
Miêu Lý hỏi Nguyễn Dư:
– Ba con đượi non nào vậy?
– Chúng họ Thân, có tên Mai, Lan, Cúc. Chúng hông còn trẻ đâu. Tuổi chúng khoảng trên dưới năm mươi; tất cả đều là đệ tử của tiên nương Bảo-Hoà tức sư muội của Lý Thánh-tông, Lý Thường-Kiệt.
Lưu Mân than:
– Mẹ cha nó, đàn bà Việt đẹp thực, ba con đượi này tuổi trên năm mươi, mà sao trông như hơn hai mươi vậy?
Bỗng mặt ba gã Côn-môn tím bầm lại, rồi màu ứa ra ở thất khiếu (hai mắt, hai mũi, hai tai, và miệng). Cả ba lảo đảo ngã lăn ra.
Từ đầu đếo cuối, nhà sư Pháp-Tuệ không nói, không rằng, bây giờ ông tới bắt mạch ba gã Côn-lôn, rồi đọc kinh vãng sinh. Miếu Lý hỏi:
– Đại sư! Họ chết vì lý do gì?
– Đúng ra với ba chiếu võ của phái Tản-viên không thể khiến Côn-lôn tam kiệu mất mạng. Nhưng… nhưng ban chiêu võ được xử dụng bằng « Bức mạch công» hay còn có tên là Cổ-loa tâm pháp.
Nghe đến Cổ-loa tâm pháp, các cao thủ Tống mặt nhìn mặt, chân tay phát run. Bởi họ biết thức nội công này do đại hiệp Trần Tự-An, phụ thân Kinh-Nam vương chế ra, ai trúng phải, thì các mạch màu đều vỡ tan ra mà chết. Họ từng thấy Kinh-Nam vương xử dụng đấu với các cao thủ Tây-hạ, Liêu. Cứ mỗi chiêu, một người mất mạng.
Có tiếng nhã nhạc đâu đó vọng lại, rồi một thớt voi tiến tới. Người ngồi trên bành là một thiếu nữ sắc nước hương trời, bọn tướng Tống nhận ra là Bà-chúa-kho. Voi rẽ vòng vây tiến vào trong, công chúa Thiên-Ninh hướng các cao thủ Tống:
– Sự thể đã như thế này, mà các vị còn muốn dùng võ công thoát khỏi nơi đây ư? Khó lắm! Ví dù các vị có phá được vòng vây này, thì liệu trên con đường dài tới Như-nguyệt có mấy đội sói, mấy đội ưng canh phòng; các vị chạy đến đâu cũng bị chúng tru tréo lên, rồi hổ, báo, tiễn thủ xông ra cản trở, thì trước sau cũng uổng mạng mà thôi.
Trương Thế-Cự khảng khái:
– Công chúa điện hạ! Trong trận này, chúng ta thấp cơ, thua trí, thì quyết lấy cái chết để báo đáp đấng quân phụ, chứ nhất định không chịu hàng đâu. Ví dù chúng tôi hang Việt, thì triều đình cũng giết cả nhà chúng tôi. Vì vậy chúng tôi đành chịu chết, để được triều đình phủ tuất, thân được phong thần, gia đình được hưởng ân huệ của triều đình còn hơn hàng.
– Ta không muốn, cũng không đòi tướng quân hàng mà.
– Thế thì công chúa định thế nào đây?
– Này Trương tướng quân, tướng quân bị đẩy sang đây là do giấc mộng điên cuồng của tên hủ Nho Vương An-Thạch, mà nay y đã bị cách chức rồi. Bây giờ tướng quân hàng Việt, thì sẽ bị thiên hạ chê cười rằng hèn nhát, rằng bất trung. Còn như tử chiến, thì trở thành thứ ngu trung, chết cho cái ngông cuồng của tên Vương An-Thạch, muôn nghìn năm sau võ lâm, nhân sĩ sẽ chê bai.
– Đúng thế.
Pháp-Tuệ ứng lời: Không biết công chúa có cao kiến gì khác để cứu chư vị tướng quân hiện diện không?
Công chúa Thiên-Ninh mỉm cười:
– Trước khi xuất trận, Kinh-Nam vương với công chúa Huệ-Nhu đã dặn tôi rằng: Khi đối trận với bộ hạ cũ của người thì phải nới tay, không thể giết, cũng chẳng nên làm nhục. Vì vậy, hôm nay tôi xin mời các vị quá bộ ghé Thăng-long nghỉ ngơi, đợi hết chiến tranh, chúng tôi sẽ đưa các vị về Trung-nguyên.
Miêu Lý giận cành hông, y quát lên:
– Như vậy thì không khác gì chúng tôi bị cầm tù. Này công chúa, đầu kẻ sĩ có thể chặt, chứ không thể làm nhục. Đã đến nước này, chúng tôi xin một trận liều chết chứ chứ không chịu nhục.
– Vậy thì được! Chúng tôi xin giúp chư vị tướng quân được trở thành những tên ngu trung, chết cho cái ngông cuồng của tên hủ nho Vương An-Thạch. Hiện chúng tôi có bốn vị sư tỷ Mai, Lan, Cúc, Trúc, tôi xin mời ba vị tướng quân chỉ giáo cho vài chiêu. Nếu như bên các vị thắng hai thì các vị cứ việc thư thả trở về Như-nguyệt. Còn như chúng tôi thắng hai, thì xin mời các vị về Thăng-long. Không biết chư vị nghĩ sao?
Miêu Lý chỉ vào ba nhà sư chữ Pháp-Tuệ, Pháp-Minh, Pháp-Đức:
– Không được! Muốn cho công bằng, thì bên Đại-Việt cử người đại diện cho Đại-Việt; còn bên Đại-Tống cũng phải do bên Đại-Tống chỉ định.
Y chỉ vào năm nhà sư Thiếu-Lâm là Pháp-Minh, Pháp-Đức, Pháp-Thiên:
– Tôi xin cử ba vị đại sư đây lĩnh giáo cao chiêu của các tiên cô phái Tản-viên.
Bỗng có tiếng quát thanh thoát:
– Khoan!
Một thớt voi từ từ tiến tới. Tướng sĩ Tống cùng mở to mắt nhìn: Trên bành có hai thiếu nữ, tuổi khoảng mười bẩy, mười tám. Một người là quận chúa Minh-Thúy, còn một người nữa sắc nước hương trời. Mùi trầm hương từ thiếu nữ này bốc ra thơm ngát. Cao nhất là công chúa Thiên-Ninh, cho tới các tướng thấp nhất của Đại-Việt cùng cung cung kính kính hướng voi hành lễ.
Miêu Lý hỏi Nguyễn Dư:
– Con lỏi nào mà Thiên-Ninh phải hành lễ vậy? Không lẽ là Linh-Nhân hoàng thái hậu?
– Không phải đâu! Y thị họ Thân tên Bảo-Hòa, chưởng môn phái Tản-viên đấy!
Miêu Lý kinh hãi:
– Ta nghe nói tiên nương Bảo-Hòa lớn hơn Kinh-Nam vương hai ba tuổi gì đó, thế thì nay ít ra y thị cũng phải bẩy mươi tuổi rồi mới đúng; có đâu trẻ như con gái mười bẩy mười tám thế kia?
– Thị tu tiên, nên trẻ hoài không già.
Công chúa Bảo-Hòa không coi bọn tướng sĩ Tống ra gì, ngài hướng năm vị sư chữ Pháp:
– A-di-đà Phật, không biết cơ duyên nào khiến năm vị thần tăng giá lâm Đại-Việu thấp nhiệt này? Kìa, cả đại sư Pháp-Tuệ, sao lại để cà sa nhuốm bụi trần thế này?
– Đa tạ tiên nương quá khen! Anh em bần tăng hạ sơn cũng chỉ vì quốc sự như tiên nương cả.
Tiên nương vẫn lễ độ, ngọt ngào:
– Nếu như ba vị thần tăng xuất thủ, thì bên Đại-Việt, tôi xin cùng mấy đệ tử phải ứng tiếp cho phải đạo lý. Không biết các vị nghĩ sao?
Nghe tiên nương đề nghị, Pháp-Tuệ kinh hãi:
– Công chúa điện hạ! Khi công chúa cùng đại hiệp Thông-Mai danh trấn Hoa-Việt, thì anh em bần tăng còn là những thiếu niên. Trong trận Khâm-châu trước đây, công chúa đã thắng bang trưởng Hồng-thiết giáo Trung-nguyên là Đặng Đại-Bằng. Không lẽ nay công chúa lại hạ thể đấu với anh em bần tăng, chẳng hóa ra lớn bắt nạt nhỏ ư?
– Thôi được, các vị đại sư đã tự xin thua, thì tôi cũng chẳng xuất thủ làm gì. Bên Đại-Việt, trận đầu do Thân Mai xuất thủ. Nhưng tôi có một đề nghị: Xuất quân chiếm Đại-Việt là tên hủ nho Vương An-Thạch với Hy-Ninh. Còn giữa các cao tăng Tống, Việt, không thù không oán. Vậy tôi xin, nếu sau ba trăm chiêu, mà không phân thắng bại thì coi như hòa. Không biết đại sư nghĩ sao? Không biết bên Tống, vị nào tứ giáo trận đầu?
Miêu Lý cẩn thận hơn:
– Nếu như cả ba trận cùng hòa thì tiên nương định sao?
– Cũng dễ thôi! Quận chúa Minh-Thúy đây sẽ đưa quý vị về Thiên-trường để Kinh-Nam vương với công chúa Huệ-Nhu, để vương với công chúa dẫn quý vị về trả cho Tống triều.
Pháp-Tuệ chỉ Pháp-Minh:
– Sư đệ bần tăng đây xin được lĩnh giáo cao chiêu của Thân tiên tử.
Thân Mai cung tay:
– Xin mời đại sư!
Hay tay bà chắp lại vái dài, rồi biến thành chiêu Ác ngưu nan độ, trong Tản-viên chưởng pháp, kình lực mạnh như nghiệng trời lệch đất. Bọn Miêu Lý kinh hãi nghĩ thầm:
– Hỡi ơi! Bốn con lỏi này là sư muội của tên yêm hoạn Thường-Kiệt có khác. Không biết Pháp-Minh có thắng được thị hay không?
Pháp-Minh thấy đối phương là nữ, mà dùng dương chưởng thì coi thường. Ông cũng chắp tay đáp lễ, rồi biến ra chiêu Vô-vô minh trong Kim-cương ban nhược chưởng tấn công. Chưởng chưa ra hết, mà mọi người như muốn nghẹt thở. Thân Mai tung người lên cao, khiến chưởng của Pháp-Minh trúng vào ụ đất cạnh đó đến ầm một tiếng. Ụ đất bay tung lên cao, bụi tỏa ra một vùng lớn. Pháp-Minh đánh hụt, lập tức phát chiêu Vô lão tử đánh từ dưới chuyển lên trên, kình phong mạnh như núi lở băng tan. Thân Mai chĩa ngón tay phát một chỉ xuyên vào giữa chưởng của Pháp-Minh đến véo một tiếng. Chỉ xuyên qua chưởng trúng giữa ngực đối thủ. Pháp-Minh kinh hãi vội lăn mình xuống đất tránh chiêu chỉ ác liệt. Thân Mai không nhân nhượng đánh theo một chỉ nữa. Pháp-Minh lại tung người lên cao tránh, rồi đánh xuống một chưởng. Đến đây, cả hai cùng biết rõ bản lĩnh của nhau.
Quận chúa Minh-Thúy hỏi tiên nương Bảo-Hòa:
– Sư bá, theo sư bá, trận này ai sẽ thắng?
– Pháp-Minh là thần tăng của Thiếu-Lâm, ông đã luyện tới cùng kỳ cực tinh hoa võ thuật của phái này. Mà tinh hoa võ thuật Thiếu-Lâm xuất phát từ thiền công của Phật-gia là một thoại thần công chính đại quang minh. Còn Thân Mai là đệ tử đằc ý của sư bá. Mai ở trên Tản-lĩnh từ hồi sáu bẩy tuổi, trải qua hơn bốn mươi năm khổ công luyện tập, đã học đến cùng kỳ cực của võ công Tản-viên.
– Thưa sư bá, cháu nghe phụ vương nói rằng võ công Tản-viên nức tiếng vô địch thiên hạ. Vậy sư tỷ Thân Mai phải thắng đại sư Pháp-Minh chứ?
– Không hẳn thế đâu con ơi! Võ công Tản-viên do tổ sư Sơn-Tinh sáng lập đặt trên căn bản thuần dương, mà võ công trấn môn là Phục-ngưu thần chưởng nức danh thiên hạ. Sau này Vạn-tín hầu Lý Thân dùng võ công âm nhu đấu với tổ Sơn-Tinh ba ngày ba đêm bất phân thắng bại. Cuối cùng hầu phải dùng Long-biên kiếm pháp mới thắng được tổ. Tuy thắng tổ, nhưng ngài cũng khâm phục Phục-ngưu thần chưởng; ngài cùng tổ thảo luận với nhau hơn tháng, cuối cùng ngài dùng nội công âm nhu của mình luyện được Phục-ngưu thần chưởng âm nhu. Vì cương, nhu trái ngược nhau, nên khó có người luyện thành. Thời Lĩnh-Nam chỉ có ba người luyện được, đó là Khất đại phu Trần Đại-Sinh, Bắc-bình vương Đào Kỳ và phu nhân của Khất đại phu là Chu Tái-Kênh. Tới những ngày gần đây, Bố-Đại hòa thượng lại hợp nội công dương cương của Tản-viên, nội công âm nhu của Long-biên, thiền công, với Phục-ngưu thần chưởng cương nhu mà chế thành Mục ngưu thiền chưởng dạy cho anh ta là Thiệu Thái. Trong khi ngài dạy anh ta, ta cũng có mặt; ta dùng nội công âm nhu, dương cương thử luyện Mục-ngưu chưởng, nhưng ta không chế chỉ nổi cái nhân ngã tứ tướng của nhà Phật, nên Mục ngưu thiền chưởng lại hóa ra một loại chưởng mới cực kỳ hung ác. Ta không dạy chưởng này cho Thân Mai. Tuy vậy Mai đã học được tất cả những tinh hoa của Phục nưu thần chưởng âm, nhu. Chỉ dùng Phục ngưu thần chưởng cương, nhu thì Mai có thể thắng Pháp-Minh. Nhưng thể tố Pháp-Minh to lớn, lại đang tuổi khí huyết sung mãn, nhưng thể tố Thân Mai lại quá nhỏ bé, vì vậy trong vòng ba trăm chiêu, không ai có thể thắng ai.
– Thưa sư bá, nế như ba trận đều hòa, thì sư bá có để cho cháu dẫn họ về yết kiếm phụ vương không?
– Dĩ nhiên là sư bá giữ lời hứa. Con nên nhớ rằng trong cuộc Nam xâm của Tống này, giữa mấy nghìn tướng Tống, trăm vạn binh Tống với toàn thể Đại-Việt vốn không thù không oán. Binh, tướng Tống đều là những anh tài tinh hoa của Trung-thổ. Chỉ vì tham vọng điên cuồng của Vươg An-Thạch, mà họ phải xa quê hương, xa cha mẹ, vợ con, thân bằng để xuống miền Nam thấp nhiệt này. Đúng ra, ta chỉ cần hô một tiếng, thì quân Đại-Việt sẽ băm vằm họ ra ngay, nhưng ta không muốn giết họ.
– Vậy sao sư bá không tha cho họ?
– Có ba điều không thể tha cho họ. Một là trong khi chúng ta ở đây, thì công chúa Thiên-Ninh đang dẫn đại quân tập kích quân Tống ở Nam ngạn sông Cầu. Ta tha cho họ về, thì kế hoạch bị lộ. Hai là ta tha cho họ về, rồi Quách Qùy lại sai họ dẫn quân đánh Đại-Việt nữa, như vậy Linh-Nhân hoàng thái hậu sẽ không bằng lòng. Ba là nếu như Quỳ không dùng họ, thì sau này họ trở về Trung-thổ, bọn hủ nho sẽ nêu là những cái quái qủy gì, nào là nhục mệnh quân vương, nào là tướng để mất quân, rồi đem cả nhà họ ra chém.
Minh-Thúy hiểu ngay:
– Con hiểu rồi. Nếu như nay họ được giao cho phụ vương, phụ vương sẽ sai người vưa về trả cho triều đình, lấy lý do rằng họ đã làm hết sức, đã tận trung với quân phụ. Nhưng chẳng may binh lực Đại-Việt quá hung hậu mà sa cơ. Phụ vương mủi lòng vì thương họ là bộ hạ cũ, xin với Đại-Việt tha cho họ. Như vậy, bọn mặt dơi tai chuột ở Tống triều vì kinh sợ phụ vương, mà không dám hại họ.
– Con thông minh thực, thông minh ngang với cô mẫu Thanh-Mai của con.