Sau khi chiếm được Bắc ngạn sông Cầu, thì đã sang ngày 23 tháng Chạp, là ngày ông Táo chầu trời. Quách Quỳ sai ngựa lưu tinh thượng biểu về Biện-kinh, tâu thắng trận. Trong biểu nói rõ: Từ bản doanh của Quỳ tới lăng tẩm triều Lý còn ba mươi dặm (15 km), tới Thăng-long chỉ năm mươi dặm (25km). Hiện Quỳ cho quân nghỉ ăn tết, đợi sang giêng sẽ tiến quân vào ổ, bắt Lý Càn-Đức, với Lê-thị Yến-Loan đem về phục mệnh. Trong biểu, Quỳ xin triều đình cắt cử những chức quan cai trị gửi sang càng sớm càng tốt.
Chiều ba mươi tết, Quỳ ban lệnh giết trâu, mổ bò khao quân, mừng giao thừa. Quỳ cho phép các doanh được tổ chức những trò giải trí để quân khỏi nhớ nhà: Nào thi bắn tên, thi đánh vật, thi leo dây, hoặc họp nhau ca hát. Trong khi quân-sĩ ăn thịt, uống rượu mừng Xuân Đinh Tỵ, thì Quỳ cho họp chư tướng tại bản doanh ở phía Bắc bến đò Như-nguyệt để định kế đánh Thăng-long.
Hàng tướng Hoàng Kim-Mãn mách cho biết: Có ba con đường tới Thăng-long, Lý Thường-Kiệt đã cho lập phòng tuyến kiên cố chờ đợi. Con đường gần nhất là con đường qua bến đò Như-nguyệt. Lý Thường-Kiệt đã bố trí tại đây những lực lượng tinh nhuệ chờ đợi. Con đường gần thứ nhì là con đường Vạn-xuân, nằm cuối phòng tuyến Như-nguyệt, chỗ hội tụ ba con sông Lục-Nam, sông Cầu, sông Đuống. Tại đây cũng có phòng tuyến rất kiên cố. Ba là con đường bến đò Phú-lương men theo núi Tam-đảo, chỗ này cũng có phòng tuyến rất kiên cố.
Quách Quỳ nhắc lại cho tướng sĩ hiểu tình hình: Ta đã phân chia quân làm ba mặt trận đóng dài trên sông Cầu. Thứ nhất, mặt trận trên bến đò Phú-lương trao cho Yên Đạt làm chánh tướng, Khúc Chẩn làm phó tướng, với ba tướng xung-kích Lôi Tự-Văn, Lữ Chân, Lý Hiếu-Tông; ngoài ra còn có bọn hàng tướng Hoàng Sầm-Mãn, Nùng Thuận-Ninh, Sầm Khánh-Tân làm hướng đạo. Mặt trận Vạn-xuân trao cho Tu Kỷ làm chánh tướng, Đào Bật làm phó tướng, với bốn tướng xung kích Địch Tường, Quản Vi, Giới Định, Lý Thật; hai hàng tướng Lưu Báo, Nùng Sĩ-Trung làm hướng đạo. Mặt trận Như-ngyệt, Triệu Tiết làm chánh tướng, Miêu Lý làm phó tướng, với năm tướng xung kích Diêu Tự, Vương Tiến, Bình Viễn, Đặng Trung, Lưu Mân; các hàng tướng Nùng Thịnh-Đức, Nùng Quang-Lâm, Hoàng Kim-Mãn làm hướng đạo. Hai tướng kị binh Trương Thế-Cự, Vương Mẫn lưu động, do chính Quách Quỳ chỉ huy.
Quỳ nhấn mạnh:
– Ta đã sai sứ hẹn với đô đốc Dương Tùng-Tiên, phó đô-đốc Tô Tử-Nguyên tiến quân chiếm cửa Đông-kênh, sau đó vượt sông vào Như-nguyệt để chở quân vượt sông Cầu đánh Thăng-long. Vậy chư tướng hãy cho quân ăn tết ba ngày. Sang ngày mùng bốn, thì sai quân vào rừng đốn nứa, đốn tre làm bè. Ngày mười lăm phải xong. Còn quân sĩ thì kể từ ngày mười lăm đều đặt trong tình trạng ứng trực, để khi có lệnh là vượt sông liền.
Miêu Lý hỏi:
– Thưa nguyên soái, nếu đã có thủy quân chở mã bộ quân qua sông, thì sao phải làm bè?
– Giặc có mười vạn binh ở Nam ngạn. Ta muốn thắng giặc, thì phải đem ít nhất ba mươi vạn binh một lúc. Với quân số này, thì thủy quân không đủ khả năng vận tải trong một chuyến, vì vậy ta phải đóng bè.
Quỳ nói lớn:
– Đúng ngày mười sáu, cả ba cánh quân cùng vượt sông, phá chiến lũy. Chiếm được chiến lũy rồi, thì cánh quân Như-nguyệt tiến nhanh về đánh Thăng-long. Cánh quân của Yên Đạt tiến dọc theo Nam ngạn sông Cầu, tiến về vây Tây Thăng-long. Cánh quân Tu Kỷ đi song song tiến về vây phía Đông Thăng-long.
Y bảo Nguyễn Dư và bọn du thủ du thực theo trong quân:
– Người là em ruột Nguyễn Căn, mà Nguyễn Căn hiện trấn ở bên kia sông. Ta muốn dùng người làm hướng đạo. Nhưng sợ người xót tình anh em, nên không muốn người dự vào trận đánh này.
Triệu Tiết biết Quách Qùy khích Nguyễn Dư, y làm bộ bênh hắn:
– Tôi xin bảo đảm với nguyên soái là Nguyễn Dư sẽ trung thành với ta. Dư theo ta, chỉ với mục đích muốn giết thằng anh Căn mà thôi. Để chứng tỏ trung thành với ta, Dư đã cho người dò thám tình hình Thăng-long, tôi xin để Dư trình bầy.
Ghi chú,
QTNC chép về Nguyễn Dư như sau: Đứng xa mà trông Nguyễn Dư với Nguyễn Căn, thì ai cũng tưởng rằng một, nhưng nhìn kỹ ra, thì cái mặt y gẫy như lưỡi cầy, cái cằm nhọn hoắt. Mỗi khi nói, y hay làm điệu bộ, chù mỏ ra phụng phịu.
Được Triệt Tiết bênh vực, Dư đứng lên nói. Y không biết nói tiếng Hán, mà nói tiếng Việt, thành ra chỉ bọn Quách Quỳ, Triệu Tiết, Khúc Chẩn, Yên Đạt, Tu Kỷ đã từng học tiếng Việt, từng sang Đại-Việt hiểu được mà thôi:
– Bẩm nguyên soái, tên Căn là kẻ thù truyền kiếp của con. Nó đắc tội với con vô cùng, con chỉ muốn ăn tươi nuốt sống nó.
– Được! Ta tin người! Thế người cho ta biết, từ Như-nguyệt tới Thăng-long có quân Việt trấn đóng không?
– Thưa quan đại nguyên soái có. Có rất nhiều. Từ Như-nguyệt tới Cổ-pháp, lăng tẩm của triều Lý, có tới mười sáu xã. Như tất cả xã thôn Đại-Việt, các xã này đều có lũy tre bao bọc, ngoài lũy tre có hào sâu. Nếu nguyên soái muốn tiến quân về Cổ-pháp thì phải đánh các xã này, bằng không khi quan quân đi qua, chúng sẽ đánh tập hậu thì nguy lắm.
Quách Quỳ khen:
– Giỏi, người quả có tài đại tướng mà tên Thường-Kiệt không biết dùng. Người tiếp đi.
– Từ phòng tuyến Như-nguyệt tới Thăng-long chỉ có năm mươi dặm. Nhưng trên đường đi phải qua khu rừng tre mênh mông. Sau rừng tre là chiến lũy Cổ-pháp. Trong chiến lũy Cổ-pháp, rừng tre có đến bốn hiệu binh trấn đóng, đó là hiệu Quảng-thánh, Quảng-vũ, Ngự-long và Phù-đổng.
Quách Quỳ à lên một tiếng:
– Từ hôm vợ chồng Tôn Mạnh, Đinh Hoàng-Nghi rút khỏi Quyết-lý, Chi-lăng, ta cứ lo lắng rằng chúng ẩn náu trong rừng Bắc-biên để đánh sau lưng ta. Nào ngờ chúng rút về Cổ-pháp. Hà, tại Như-nguyệt chỉ có hai hiệu Thiên-tử binh thôi. Còn tại Cổ-pháp chúng có tới ba hiệu Thiên-tử binh với hiệu kị binh Phù-đổng. Khó đấy.
Đến đây hỏa đầu quân loan báo:
– Tiệc rượu đã xong, xin mời nguyên soái cùng chư tướng nhập tiệc mừng Xuân.
Quỳ bước ra khỏi căn lều, ngước mắt nhìn trời: Đúng là đêm ba mươi tết, màn đêm một mầu đem đặc, đến nỗi xoè bàn tay ra mà không nhìn thấy gì. Quỳ cầm cây pháo thăng-thiên châm lửa, tung lên trời. Chiếc pháo nổ đến đùng một tiếng, rối toả ra ánh sáng như ngôi sao. Lập tức các trại khác cũng đốt pháo, đánh trống, khua chiêng mừng Xuân mới.
Không khí mừng Xuân, mừng chiến thắng thực là nhộn nhịp. Lại có đội quân làm được con lân, múa trước cửa trướng Quách Qùy. Nhiều sòng bạc mở ra, quân sĩ tụ nhau đỏ đen, reo hò.
Quỳ cùng chư tướng nhập tiệc, người người đưa lời chúc tụng lẫn nhau. Rượu được hai tuần, Quỳ uống hết một bát lớn, rồi nói:
– Hôm nay là ngày tết. Hồi nãy ta ra lệnh chuẩn bị đổ bộ sau rằm tháng giêng. Ta muốn cùng chư tướng vào Thăng-long ngày hai mươi tháng giêng, hái một cành đào, sai ngựa mang về Biện-kinh dâng hoàng thượng.
Chư tướng hồ hởi vỗ tay hoan hô.
Giữa cái không khí đó, Triệu Tiết hơi cau mày lại, vì y nghe đâu đó có tiếng quân reo hò, la hét ở phía Đông. Y vẫy tay cho chư tướng im lặng. Chư tướng cùng đã nghe thấy tiếng reo. Họ đưa mắt nhìn nhau. Trong căn trại có đến hơn trăm người mà không một tiếng động.
Nùng Quang-Lâm nói cứng:
– Chắc binh sĩ vui đùa la hét đó thôi!
Lát sau, tiếng la hét lại từ phía Tây vọng lại, rồi tiếng la hét ngay doanh đóng ở bờ sông. Lần này lẫn cả tiếng trống báo động. Quỳ với các tướng bỏ tiệc rượu ra ngoài nhìn: Ba doanh Đông, Tây, Nam lửa bốc cháy ngùn ngụt.
Lôi Tự-Văn chỉ về phía Phú-lương:
– Kìa! Chết thật! Quân của ta ở Phú-lương có sự, lửa đang bốc cao.
Lý Thật chỉ tay về phía Vạn-xuân:
– Kìa, trại của ta ở phía Nham-biền cũng bốc cháy.
Đến đó quân báo:
– Giặc dùng thuyền đổ bộ dọc bờ sông, xung phong đánh ba doanh trung ương, Đông, Tây. Hai trại sát bờ sông bị tràn ngập. Địch đã đánh vào tới trại thứ ba. Chư quân đang ra sức chống trả.
Quách Quỳ ban lệnh:
– Bỏ tiệc, chư tướng đâu trở về đó.
Quỳ buột miệng ban lệnh rồi, y tự biết rằng lệnh đó khó thi hành, vì đường từ Như-nguyệt đến Phú-lương, Nham-biền đâu có gần? Dù võ công cao, địch tấn công tứ phía thì liệu trong đêm tối, chư tướng có thể về tới nơi không?
Tuy nhiên các tướng ở vùng Phú-lương, Nham-biền cũng lên ngựa với tùy tòng đốt đuốc ra đi. Còn các tướng tại trại Như-nguyệt thì trở về với quân.
Quân báo liên tiếp:
– Giặc từ sông đổ bộ lên ba doanh. Chúng rất hung hãn, lại có hổ, báo, chó sói yểm trợ. Quân ta không phòng bị, chết rất nhiều, ba dẫy trại sát bờ sông bị chọc thủng. Chúng đang đánh vào dẫy thứ tư.
– Giặc cũng từ sông đổ bộ vào căn cứ Nham-biền, Phú-lương. Tại hai nơi này, mỗi nơi chúng đổ bộ làm hai cánh, đánh ép lại. Hai nơi này chạm đích rất nặng. Ta với giặc đang hỗn chiến.
Quách Quỳ, Triệu Tiết lên đài cao đứng nhìn: Dưới ánh đuốc chập chờn, quân Việt như đàn hổ đói, dàn hàng ngang xung sát. Quân Tống chống không nổi, cứ lùi dần.
Tại khu Tây, do Miêu Lý, Vương Tiến, Bình Viễn đã trở về trại, đang đứng đốc quân chống trả. Tại khu giữa, Diêu Tự, Nùng Thịnh-Đức, Nùng Quang-Lâm, Hoàng Kim-Mãn đã giữ vững được phòng tuyến. Tại khu Đông, Lưu Mân, Đặng Trung trở về tới nơi, thì trại bị vỡ, quân sĩ bỏ chạy tán loạn.
Quân lại báo:
– Giặc dùng hạm đội Thần-phù chở ba hiệu Thiên-tử binh. Chúng lợi dụng đêm tối đổ binh lên ba nơi đánh trộm. Đạo đột kích ở phía Tây là hiệu Thần-điện do tướng Triệu Thu với vợ là Phương-Liễu chỉ huy. Đạo đột kích ở giữa là hiệu Bổng-thánh do tướng Mai Cầm với vợ là Phương-Đơn chỉ huy. Đạo đột kích ở phía Đông là hiệu Hùng-lược do tướng Ngô Ức với vợ là Phương-Dược chỉ huy.
Quân Tống bị bất ngờ, hỗn loạn, bốn doanh trại gần bờ sông bợ vỡ, người chết la liệt. Quân Việt đánh đến hàng thứ năm, thì quân Tống đã kịp thời chỉnh đốn hàng ngũ chống lại rất gắt.
Quách Quỳ đã nhìn rõ ba tướng Việt, cùng với ba bà vợ đứng đốc chiến. Y nói với Ôn Cảo, Triệu Tiết:
– Hôm trước ta tưởng trong các tướng chỉ huy Thiên-tử binh, chỉ có vợ chồng tên Đinh Hoàng-Nghi, Lý Tam là ghê gớm. Hôm nay ta mới biết đứa nào cũng thế cả. Phải làm cách gì giết đi một cặp, thì họa may chúng mới chùn nhụt.
Y ra lệnh:
– Báo cho Miêu Lý giữ vững mặt Tây, Đặng Trung giữ vững mặt Đông. Ta dồn chủ lực diệt vợ chồng Mai Cầm, Phương Đơn.
Quân chấp lệnh đi rồi, y bảo Triệu Tiết:
– Điều hai đội thiết-đột, hai đội cung thủ từ doanh Bắc về, giết cho bằng được thằng Mai Cầm với con Phương Đơn.
Quân chấp lệnh đi liền. Thoáng một cái thiết đột với cung thủ tới; quân Tống ở phòng tuyến doanh giữa dạt ra, các đội thiết đột, cung thủ tiến lên trước. Một đội thiết đột, một đội cung thủ đi cánh phải; một đội thiết đột cung thủ khác đi cánh trái. Cung thủ bắn, thiết đột xung lên, tiến ra bờ sông, rồi cánh trái quay về phải, cánh phải quay về trái. Thế là hiệu Bổng-thánh bị vây ba mặt như hình chữ U, sau lưng là sông.
Mai Cầm thấy thế nguy, hầu lấy tù và rúc lên một hồi, hiệu Bổng-thánh chia làm ba, cánh trước vẫn đánh thẳng vào trung ương; cánh phải, trái quay lưng lại nhau chống với thiết đột, và cung thủ. Thoáng một cái, quân thiết đột với quân Bổng-thánh lẫn vào nhau, thành ra đội cung thủ Tống hóa ra vô dụng.
Quách Quỳ nghiến răng dậm chân:
– Thần diệu! Sao trên đời lại có đội quân tinh nhuệ, can trường thế kia? Chúng đổi trận thế quá nhanh, quân ta bì thế nào được! Đội cung thủ của ta hóa vô dụng mất rồi.
Triệu Tiết ra lệnh cho đám hàng tướng đem quân khê động tiếp viện quân Tống:
– Nùng Thịnh-Đức đánh vào bên phải, Nùng Quang-Lâm đánh vào bên trái, Hoàng Kim-Mãn đánh vào giữa.
Đám hàng binh được tung vào trận, nhưng hiệu binh Bổng-thánh vẫn không nao núng, người người sát cánh xung sát… đao vung, giáo đâm tiến về trước lên. Đám hàng binh bị giết chết, ngã lổng chổng. Đứa còn sống thì bật lui trở lại.
Thịnh Đức thấy một nữ tướng rất xinh đẹp mặc quần áo trắng đang xung sát ở hàng đầu, y vung đao lên chém ngang vào lưng đối thủ. Nữ tướng cười nhạt, chuyển tay một cái đã bắt được đao Thịnh-Đức, tay kia đưa một nhát kiếm, đầu y rơi xuống đất. Trong khi cánh bên trái, Nùng Quang-Lâm đang đấu với một thiếu niên mặc quần áo trắng. Sau mười hiệp, y cứ phải lùi dần. Trong ánh đuốc chập chờn, y nhận ra tướng đó là Hùng Nghĩa. Y bật lên tiếng kêu:
– Hùng Nghĩa! Quang-Lâm đây! Xin dung tình!
Hùng Nghĩa quát lên:
– Ta không thể tha thứ cho bọn cõng rắn cắn gà nhà. Coi đây!
Choang một tiếng cây đoản thương trên tay của y chạm vào kiếm Hùng Nghĩa, bị bay vọt lên cao. Y còn đang bàng hoàng, thì đầu đã bay khỏi cổ.
Phương Đơn đứng đốc chiến reo lên:
– Anh Hùng Nghĩa, chị Âu Thanh, mau quay lại giết tên phản bội Hoàng Kim-Mãn.
Hoàng Kim-Mãn đang chiến đấu ở cánh giữa, y giết được hai Thiên-tử binh, làm phòng tuyến Việt bị hở một quãng. Thình lình một bóng trắng từ trên cao như con đại bàng chụp xuống đầu y. Y vung đôi song kiếm lên đâm vào bóng đó. Choang một tiếng, đôi song kiếm của y bật tung trở lại, hai cánh tay y tê rần. Bóng trắng đã đứng trước mặt y. Y nhận ra đó là Âu Thanh. Âu Thanh đưa kiếm vào cổ y. Y cười nhạt vung song kiếm tấn công. Đấu được mười chiêu, kiếm bị văng mất, Kim-Mãn kinh hoàng vội phát chưởng đánh Âu Thanh. Âu Thanh cười nhạt, vận đủ mười thành công lực đánh liền ba chưởng. Kim-Mãn đỡ được đến chiêu thứ nhì, thì người y như say rượu, lắc lư đứng không vững. Âu Thanh đánh tiếp chiêu thứ ba, y đưa cả hai tay đỡ, nhưng mặt y tím bầm, máu ứa ra hai mắt, hai mũi, hai tai và miệng, rồi ngã xuống.
Ôn Cảo hỏi Quách Quỳ, Triệu Tiết:
– Nguyên soái, võ công gì mà khủng khiếp vậy?
Quách Quỳ đáp, mà cảm thấy lạnh gáy:
– Chiêu số thì là chiêu số Sài-sơn, còn nội công thì là Cổ-loa tâm pháp, do Trần Tự-An, cha đẻ Kinh-Nam vương chế ra. Ai trúng phải, thì toàn bộ mạch máu trong người vỡ ra mà chết.
Đến đây thì quân thiết đột đã chặn được bước tiến của hiệu Bổng-thánh. Một bên là đội thiết đột rất thiện chiến, một bên là Thiên-tử binh rất tinh nhuệ cùng đem hết sức tranh thắng. Đao, kiếm chạm nhau chan chát.
Quách Quỳ bảo Triệu Tiết:
– Ta tấn công thằng Mai Cầm, huynh tấn công con vợ nó. Có như vậy mới mong diệt đươc hiệu Bổng-thánh này.
Quỳ, Tiết tung mình xuống đài, chỉ nhấp nhô mấy cái, hai người đã tới phòng tuyến. Quỳ vọt mình qua đầu quân thiết đột. Ở trên cao, y phóng chưởng tấn công Mai Cầm. Chưởng của y mạnh đến nghiêng trời lệch đất. Mai Cầm kinh hãi; biết rằng nếu mình đỡ, thì sẽ tan thây nát thịt ra mà chết, hầu vội lăn mình xuống đất tránh khỏi. Rầm một tiếng, chỗ hầu đứng thủng một hố sâu. Quách Quỳ chuyển tay phát chiêu thứ nhì hướng Mai Cầm.
Hùng Nghĩa vội phát chiêu tấn công Quách Quỳ cứu bạn. Hai chưởng gặp nhau, bình, binh hai tiếng, Hùng Nghĩa bật tung về sau ba bước, ông ọe một tiếng rồi miệng phun ra một búng máu.
Lý Lục, Mai Lục đem một toán Thiên-tử binh cùng vung đao tấn công Quách Quỳ. Quỳ khinh thường, y tung một chưởng vào Lý Lục. Lý Lục nghiến răng phát một chiêu Thiên-vương chưởng đỡ. Binh một tiếng, ông cảm thấy như trời long đất lở, người lảo đảo muốn ngã. Mai Lục xả một kiếm vào Quách Quỳ, để cứu chồng. Sau khi đối một chưởng với Lý Lục, cánh tay Quách Quỳ cảm thấy tê rần, y định đánh một chiêu nữa kết thúc tính mệnh ông, thì chiêu kiếm của Mai Lục đã tới. Y nhảy lùi về sau tránh.
Bên cạnh Quách Quỳ, Triệu Tiết đã đẩy lui Âu Thanh bằng hai chưởng. Âu Thanh lảo đảo muốn ngã. Bà kêu lớn:
– Kim-cương đệ thất đâu?
Vợ chồng Lý Thất đang mải chiến đấu, nghe tiếng sư tỷ kêu, cả hai vội quay lại xả kiếm tấn công Triệu Tiết. Hàng ngũ hiệu Bổng-thánh không người điều động bắt đầu rối loạn.
Giữa lúc đó, từ dưới sông có tiếng cọp gầm, beo rống, rồi hơn trăm con cọp, hơn trăm con beo với đội cung thủ Long-biên dàn lẫn với nhau; cứ một người, một thú, tiến lên. Đội binh được dẫn đầu bởi hai cặp nam nữ tướng rất trẻ, võ công cực cao, cứ mỗi chiêu đánh ra, là một thiết đột mất mạng. Cung thủ nạp tên bắn vun vút, đội thú tiến theo, lăn xả vào hông hai cánh thiết đột. Sau hai loạt tên, hàng ngũ thiết-đột bị đứt làm hai ba quãng. Quân thiết đột lại phải bỏ quân Bổng-thánh dàn hàng chống với hổ, báo, tiễn thủ.
Quách Quỳ định đánh một chưởng nữa kết liễu tính mệnh vợ chồng Lý Lục, thì y cảm thấy như có ai đánh trộm phía sau. Kinh hãi y tung mình lên cao, từ trên cao y đánh xuống một chưởng. Hai chưởng gặp nhau đến binh một tiếng, cánh tay y tê rần, còn người kia bị bật lui liền ba bước. Quỳ nhìn lại xem ai, mà đủ có công lực đỡ được chưởng của y. Trước mặt y, một trung niên nam tử, thân thể hùng vĩ, khôi ngô, dáng diệu ung dung nhàn nhã. Liếc nhìn bên cạnh, Quỳ thấy Tiết đang đối chiêu với một trung niên nam tử khác.
Quỳ đánh tiếp ba chiêu, trung niên nam tử không đỡ, mà đánh thẳng vào ngươi y một chưởng, làm y phải trở về với thế thủ. Sau khi chiết với nhau chín chiêu, thì thanh niên có vẻ yếu thế. Một thiếu phụ sắc nước hương trời, mặc quần áo xanh đánh liền chín chiêu kiếm, làm Quỳ phải lui mấy bước. Thanh niên ung dung mỉm cười, rồi nắm tay thiếu phụ nhảy vào giữa trận Thiên-tử binh.
Trong khi bên cạnh, một thanh niên khác chiết chiêu với Triệu Tiết, cũng lâm thế yếu, rồi cũng một thiếu phụ múa kiếm xông vào cứu viện, làm Tiết phải nhảy lui.
Dường như hai trung niên nam tử chỉ muốn cứu vợ chồng Hùng Nghĩa, Mai Cầm. Hai người đánh liền ba chưởng rồi nhảy vào giữa trận của hiệu Bổng-thánh. Hai đôi trung niên nam tử đó là Trung-Thành vương, vương phi Trinh-Dung; Tín-Nghĩa vương, vương phi Lê Ngọc-Nam.
Đến đây có tiếng tù và rúc lên, quân Bổng-thánh đổi trận rất mau, chuyển ra phía sau đội thú, rồi thoáng một cái đã đeo vũ khí lên vai, tay rút cung, nạp vào tên bắn vào quân Tống; cứ sau mỗi lần bắn một mũi, lại nhảy lùi mười bước. Khi tới bờ sông, tất cả tung mình xuống một dẫy chiến thuyền đậu ở đó. Trên bờ chỉ còn bẩy cặp thiếu niên Hùng Nghĩa, Hùng Lễ, Hùng Trí, Lý Lục, Lý Thất, Lý Bát, Lý Cửu với đội Giao-long Tây-hồ.
Đội thiết-đột, đội cung thủ Tống chỉnh lại được hàng ngũ, thì hiệu Bổng-thánh, đạo thú binh, đội cung-thủ Long-biên đã rút xuống chiến thuyền. Thuyền chèo ra giữa sông, dàn thành một hàng dài, đuốc đốt sáng rực.
Quách Quỳ thấy bẩy cặp nam nữ với đội Giao-long không quá năm trăm người vẫn can đảm đứng bên bờ sông cản hậu, y hô thiết đột xông vào. Một hồi tù và rúc lên, lập tức bẩy cặp nam nữ với đội Giao-long tung mình nhảy xuống sông, rồi lặn mất tích.
Trên sàn một soái hạm, Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương cùng chư tướng ung dung ngồi quanh bàn tiệc, tay cất chung rượu mừng xuân. Hơn trăm nhạc công đang tấu khúc nhạc mừng xuân, nhàn nhã như giữa thời thanh bình.
Quách Quỳ, Triệu Tiết nhìn cảnh đó mà tức ứa gan. Y chửi đổng:
– Đồ hèn hạ, chuyên cắn trộm.
Tuy vậy, hai người là những tướng đánh dư trăm trận, kinh nghiệm có thừa, cho nên sau trận bị đột kích; cả hai tướng thản nhiên vào trướng ngồi. Quân hầu rót rượu, Quỳ, Tiết nâng chung rượu uống, coi trận xung sát vừa qua như không đáng để mình chú ý. Sự thực trong tâm hai tướng dâng lên nỗi lo lắng không yên.
Lát sau ba tướng chỉ huy ba doanh là Miêu Lý, Diêu Tự, Đặng Trung tới. Quách Quỳ hỏi Nguyễn Dư:
– Ta có đấu vài chiêu với một tướng rất trẻ, thân thể hùng vĩ, khôi ngô tuấn tú dáng điệu phong lưu, tiêu sái. Cạnh y còn một thiếu phụ sắc nước hương trời, kiếm thuật tinh diệu. Vậy chúng là ai?
Dư khúm núm đáp:
– Tướng đó tên Lý Hoằng-Chân, tước phong Trung-Thành vương.
Quách Quỳ suýt xoa:
– Thì ra y! Thảo nào, y còn trẻ, mà đỡ được của ta trước sau chín chiêu. Ừ! Y vừa dùng võ công Tiêu-sơn vừa dùng võ công g Đông-a. Thì ra y học võ công của cha, lẫn của mẹ.
Triệu Tiết từng sang Đại-Việt trong thời khởi loạn của Dương gia, nên y biết rất nhiều về các nhân vật Đại-Việt. Y lắc đầu:
– Không phải thế. Bọn Giao-chỉ thường không dạy võ cho con. Như Lý Đức-Chính (ghi chú: Lý Thái-tông) không học võ với Lý Công-Uẩn mà học với sư huynh Công-Uẩn là tên thầy chùa Minh-Không. Lý Long-Bồ cũng học võ với sư huynh Công-Uẩn là Huệ-Sinh. Vợ Lý Long-Bồ không học võ với Trần Tự-An, mà học với Trần Kiệt; Kinh-Nam vương học võ với Vũ Anh. Hai tên Hoằng-Chân, Chiêu-Văn học võ công Tiêu-sơn với Huệ-Sinh, học võ công Đông-a với Trần Tự-An.
Triệu Tiết cau mặt lại một lát rồi tự nói một mình:
– Ừ! Cái tên đối chiêu với mình là Lý Chiêu-Văn, công lực thực kinh nhân. Sau khi mình đánh con Âu Thanh bay về sau hơn hai trượng thì tên Chiêu-Văn can thiệp. Y đỡ của mình được tới bẩy hiệp, thì một thiếu phụ xử dụng võ công Cửu-chân làm mình suýt bị thương. Không biết thị là ai?
Nguyễn Dư đáp:
– Hai đứa con gái dùng kiếm cứu Hoằng-Chân, Chiêu-Văn đều là bạn với Lê-thị Yến-Loan. Chúng là học trò của Tôn Đản, Cẩm-Thi. Đứa cứu Hoằng-Chân tên Nguyễn-thị Trinh-Dung, đứa cứu Chiêu-Văn tên Lê Ngọc-Nam.
Quỳ chợt nhớ ra điều gì, y hỏi:
– Tại trại Tây, trại trung ương, trại Đông đều có mấy đôi trai gái. Trai thì khôi ngô tuấn tú, gái thì yểu điệu xinh đẹp, nhưng võ công của chúng nửa chính, nửa tà. Chúng tà ai vậy?
Nguyễn Dư tự cảm thấy mình quan trọng vô cùng. Y đáp:
– Tại trại Tây, hai đứa con trai tên Hùng Lễ, Lý Lục; hai đứa con gái tên Âu Huyền, Mai Lục; tại trại trung ương, ba đứa con trai tên Hùng Nghĩa, Lý Thất, Lý Bát; ba đứa con gái tên Âu Thanh, Mai Thất, Mai Bát; tại trại Đông, hai đứa con trai tên Hùng Trí, Lý Cửu; hai đứa con gái tên Âu Lam, Mai Cửu. Bọn chúng có hai toán. Toán thứ nhất gồm mười đứa, kết thành năm cặp vợ chồng, mang tên Thần-vũ thập anh. Toán thứ nhì gồm mười tám đứa, kết thành Kim-cương thập bát hùng. Trước đây tất cả đều là kỳ chủ Hồng-thiết giáo Chiêm, vì vậy võ công của chúng là võ công tà môn. Sau này chúng được Mộc-tồn hoà thượng thu làm đệ tử, chúng được truyền võ công Sài-sơn, là võ công chân chính. Vì vậy võ công của chúng nửa chính nửa tà.
Quỳ hỏi Tiết:
– Tôi có một thắc mắc là: Ta mang quân trăm vạn sang, trong khi bọn Giao-chỉ chỉ có mười hai hiệu Thiên-tử binh chưa quá mười hai vạn. Nếu chúng khôn khéo, thì phải đóng cửa tử thủ mới phải. Đây, chúng luôn ra tay trước; như lúc ta sắp đánh Lạng-châu, thì đêm đó chúng đem một quân số quá ít đột kích ta. Rồi bây giờ ta chiếm được nửa nước, 207 khê động bị mất, Quyết-lý, Đâu-đỉnh, Chi-lăng, Phú-lương, Như-nguyệt, Lục-đầu bị chiếm. Ta chỉ việc dơ tay ra là chiếm được Thăng-long. Tại sao chúng không thủ ở Nam ngạn, mà lại vượt sông đột kích? Huynh có biết tại sao không?
Tiết được dịp khoe kiến thức. Y đáp:
– Đó là binh pháp của Thánh-Thiên thời Lĩnh-Nam chép trong bộ Dụng-binh yếu-chỉ. Sau này Quốc-phụ Giao-chỉ là Lý Long-Bồ có tu chỉnh lại. Căn bản binh pháp này là luôn đặt đối thủ vào thế bị động. Hóa cho nên, ta chuẩn bị đánh chúng, thì chúng kéo quân sang đánh ta trước. Lưu Di cho quân cứu viện Ung-châu, thì tên hoạn quan Thường-Kiệt cho quân chặn ta ở Côn-lôn. Khi bọn Trương Thủ-Tiết tới Ngọc-tuyền, thì ngay đêm đầu quân Giao-chỉ cướp trại, quấy phá suốt đêm.
Quách Quỳ như người mù được mở mắt, y nghĩ thầm:
– Tên Triệu Tiết khốn nạn thực. Điều đáng lẽ phải nói, thì y ngậm miệng, điều không cần nói thì y lại xen vào. Y có ý để cho ta chỉ huy bị thất bại, rồi mới ra tay. Chư tướng, triều đình sẽ cho rằng y có tài hơn ta. Như khi ta đánh khê động, y ngậm miệng, đợi khi hao quân, tổn tướng rồi y mới bàn đến việc chiêu dụ. Ai cũng cho việc chiếm 207 khê động là công của y. Khi ta định đánh Lạng-châu, y cũng ngậm miệng, kịp đến khi Thân Cảnh-Long, Tôn Mạnh, Đinh Hoàng-Nghi cướp trại, đánh viện quân nghiêng ngả, rồi y mới đưa ra kế vượt thượng đạo xuống Phú-lương. Ai cũng nói là trí lự y cao, nhiều mưu, công này thuộc về y. Khi ta chia quân đóng làm ba khu Phú-lương, Như-nguyệt, Nham-biền, đáng lẽ y nói rõ binh pháp Giao-chỉ cho ta đề phòng, thì y lại ngậm miệng. Đến nay ta bị Giao-chỉ đột kích xong, y mới nói rõ binh pháp của Khai-Quốc vương.
Đến đó, các cánh quân đều báo về đầy đủ.
Yên Đạt sai một tham tướng đến trình với Quách Qùy:
« Tại phòng tuyến Phú-lương, vợ chồng Hoàng Kiện, Động-Thiên có hiệu Thiên-tử binh Bổng-nhật của vợ chồng Lý Đoan, Lý Tứ; hiệu Vũ-thắng của vợ chồng Trần Di, Phương-Lý. Muốn qua sông đột kích, thì cần một hiệu giữ nhà, hai hiệu tập kích, nên y xin Lý Thường-Kiệt tăng viện. Thường-Kiệt gửi hiệu Bảo-thắng của vợ chồng Quách Y, Phương-Tiên tới trợ chiến. Hoàng Kiện cho hai hiệu Vũ-thắng, Bảo-thắng âm thầm dùng thuyền nhỏ đổ lên bờ đánh úp. Vì các tướng về hội tại Như-nguyệt, chư quân lại đang ăn tết, nên quân Giao đánh được bốn trại trong hai mươi trại. Khi chư tướng trở về, gần đến Phú-lương thì bị trúng phục binh của đội hổ, báo, sói. Tướng Lý Hiếu-Tông với hàng tướng Sầm Khánh-Tân bị trúng Cổ-loa nội lực của Hùng Nhân, Âu Hoàng, cả hai đều tuẫn quốc. Theo Yên tướng quân, cặp này là trưởng lão Hồng-thiết giáo Chiêm; hồi người tiếp viện cho Chiêm, đã chiết chiêu với chúng, hút chết về Chu-sa Huyền-âm độc tố ».
Tu Kỷ từ phòng tuyến Lục-đầu trở về, cứ nhìn gương mặt của y, Quách Quỳ cũng biết cánh quân này bị thảm bại. Y trình:
– Bọn Giao cực kỳ xảo quyệt. Rõ ràng trấn thủ Vạn-xuân ở Nam Lục-đầu là tên Lý Chiêu-Văn với vợ y là Lê Ngọc-Nam. Ấy thế mà giờ phút cuối, chúng đem tên Nho-sinh mặt trắng Lý Kế-Nguyên về thay vợ chồng Chiêu-Văn. Tên Kế-Nguyên dùng hiệu Đằng-hải của vợ chồng Trần Ninh, Lý Ngũ ; hiệu Long-dực của vợ chồng Dương Minh đánh trộm vào căn cứ Nham-biền.
Đến đây, tức quá, y chửi tục:
– Con bà nó, tôi chờ cái ngày mình đánh vào Thăng-long, sẽ bắt tên Kế-Nguyên nhét vào miệng y ba bãi phân ngựa cho bõ ghét.
Triệu Tiết hỏi:
– Tu huynh cứ bình tĩnh mà trình. Cái gì đã xẩy ra?
– Nguyên chỗ đóng trại của tôi dựa vào chân núi Nham-biền, kéo dài tới Bắc ngạn sông Cầu. Quân Giao đóng ở phía Nam. Vì khu gần bờ sông lầy lội, nên tôi đóng các doanh cách xa đến hơn mười dặm. Nơi đồn trú các doanh thông với sông Cầu có hai con đường đi khá rộng băng qua bãi lau sậy. Tên Kế-Nguyên cho hai mươi dàn Thần-nỏ phục sẵn tại đây. Đúng lúc giao thừa, y dùng bè chuối, đốt đuốc, reo hò, đánh trống chở quân từ Nam ngạn đổ bộ lên Bắc-ngạn.
Ôn Cảo gật đầu:
– Mưu y sâu thực.
Tu Kỷ cau mặt nghĩ thầm: Cái tên này biết mẹ gì về quân lữ mà cũng ra bộ ta đây biết mưu địch? Nghĩ vậy y hỏi:
– Ôn huynh đoán được mưu y chăng? Tôi xin rửa tai ra nghe Ôn huynh dạy.
– Có khó gì đâu? Phàm đánh đêm, nhất là đêm giao thừa, thì phải âm thầm chuyển quân như tên Hoàng-Nghi đột kích Vĩnh-bình; tên Hoằng-Chân, Chiêu-Văn đột kích Như-nguyệt; tên Hoàng Kiện đánh Phú-lương. Có phải thế không?
–???
– Đây chúng đốt đuốc, vừa đánh trống reo hò vừa qua sông, thì rõ ràng chúng nói lớn: Ta đánh mày đây, mày có giỏi hãy ra bờ sông chơi với ta một trận. Đấy, y dụ huynh xuất quân ra bờ sông chặn chúng đấy. Chúng còn khôn ngoan hơn, là không dùng chiến thuyền chở quân, mà dùng bè chuối, để ta nghĩ rằng: Nếu ta chặn đánh, khi chúng bại mà rút lui, ta có thể dùng cung tên bắn theo.
Mặt Tu Kỷ xám như tro, Ôn Cảo tiếp:
– Tôi độ chừng chúng biết chư tướng ta vắng mặt, ắt không ai dám ban lệnh cho quân xuất trại đánh chúng. Cho nên chúng ngừng bè ở giữa sông reo hò, đợi đến khi quý huynh trở về, chúng mới làm bộ cập bến. Quý huynh thấy ngon ăn điều quân đi theo hai con đường ra bờ sông chặn đánh chúng. Thế là lọt vào trận địa phục binh của chúng. Có đúng thế không?
–???
– Chúng đợi đội tiền phong của chư huynh vừa tới bờ sông, thì lập tức đội Thần-nỏ, hổ, báo, sói tấn công. Quân ta bị cắt làm đôi. Đám quân di chuyển theo hai con lộ dài mười dặm làm mồi cho Thần-nỏ, với hổ báo. Tiền quân tới bờ sông, bị đám quân đổ bộ xơi tái dễ dàng. Trong khi đó, phục binh ở phía Bắc Nham-biền mới nhân trại ta còn lại ít quân, chúng xông vào đốt phá, chém giết. Thế các tướng bình an cả chứ?
– Địch Tường bị Hùng Tín giết, Nùng Sĩ-Trung bị Âu Hồng giết.
Yên Đạt đặt vấn đề:
– Giao-chỉ có 12 hiệu Thiên-tử binh, thì hiệu Quảng-vũ do vợ chồng Đinh Hoàng-Nghi chỉ huy, chúng ta đã đụng nhau với chúng mấy lần. Tôi nhận thấy hiệu Quảng-vũ đa hiệu, đa dụng, uyển chuyển. Thế sao nay bẩy hiệu đột kích hôm nay, dường như chỉ can đảm, vũ dũng mà thôi; còn uyển chuyển thì thiếu.
Triệu Tiết đáp:
– Cả mười hai hiệu Thiên-tử binh đều được huấn luyện giống nhau, song khi lâm trận lại không giống nhau là do người chỉ huy. Trong 12 tướng, thì Giao-chỉ ngũ kiêu (Long-biên ngũ hùng) chỉ huy các hiệu Ngự-long, Quảng-thánh, Quảng-vũ, Bổng-nhật, Đằng-hải. Chúng là những đại tướng tài kiêm văn võ, mưu mẹo không biết đâu mà lường. Còn Tây-hồ thất quái (Tây-hồ thất kiệt) chỉ huy bẩy hiệu Vũ-thắng, Long-dực, Thần-điện, Bổng-thánh, Bảo-thắng, Hùng-lược, Vạn-tiệp. Chúng là những người giỏi dùng binh, có tài xung phong hãm trận, kém mưu mẹo. Nhưng ngược lại là những tướng can đảm, liều mạng, chúng chỉ là những chiến tướng. Khi lâm chiến với bọn Giao-chỉ ngũ kiêu, phải coi chừng bị trúng kế của chúng. Còn khi đối trận với Tây-hồ thất quái, phải nhớ hai điều; một là chúng liều mạng, dù ta đông người đến đâu, doanh trại kiên cố đến đâu chúng cũng thí mạng cùi cho đến khi đạt mục đích; hai là chúng rất giỏi thủy-chiến. Ngoài ra bọn Giao-chỉ còn có Kim-cương thập bát hùng nữa. Bọn này, về tài dùng binh, chúng không thua Ngũ-kiêu làm bao, nhưng về võ công, chúng cao thâm khôn lường. Chúng là học trò của Mộc-tồn hòa thượng. Chính ba tướng Dương Vạn, Dương Thiên, Dương Bách đã bỏ mạng về tay con vợ tên Lý Tam đấy.
Quách Quỳ an ủi chư tướng:
– Hôm trước, chỉ với bọn Cảnh-Long, Tôn Mạnh, Hoàng-Nghi mà ba đạo binh đệ tứ, ngũ, hao hụt một nửa; đạo đệ lục hoàn toàn tan rã phải tổ chức lại, rồi lại bị Lôi-tiễn bắn tan rã lần nữa. Khi đánh Quyết-lý đạo đệ thất, bát, cửu bị hao một nửa, đã cho bổ xung. Trong trận đột kích vừa qua, quân triều chỉ có đạo đệ thập trấn doanh trung ương giao chiến với hiệu Bổng-thánh của Mai Cầm là bị hao hụt. Còn lại toàn các chỉ-huy tân-đằng-hải bị tổn thất. Tinh lực của ta còn nguyên, ta thừa sức đánh Thăng-long.
Y nói cứng:
– Chúng ta bị chúng cắn trộm, tuy hao binh, tổn tướng, nhưng quân ta vẫn còn đông gấp chín chúng. Kế hoạch sang sông mà ta đã định vẫn không đổi. Xin các vị trở về chuẩn bị ngay. Từ đây tới Thăng-long chỉ có năm mươi dặm. Chúng có chạy lên trời được đâu?
Ôn Cảo hỏi:
– Trong trận vừa qua, quân Tân-đằng-hải bị tổn thất quá nặng. Binh tướng đều là bảo binh vùng Kinh, Hồ, Mân, Triết, Lưỡng Quảng. Bây giờ nên đưa tử thi về nguyên quán, hay chôn tại chỗ?
Quỳ hỏi ngược lại:
– Ôn huynh cho tôi biết số tổn thất thực sự là bao nhiêu?
– Trong ba mặt trận, thì mặt trận Nham-biền bị tổn thất nặng nhất, tổng cộng có mười hai chỉ huy tân-đằng-hải bị tan vỡ hoàn toàn, hai đạo quân triều bị hao hụt quá nửa. Mặt trận Như-nguyệt, thì đạo đệ thập hao phân nửa, sáu chỉ huy tân-đằng-hải bị xóa sổ. Mặt trận Phú-lương ít tổn thất nhất, chỉ có năm chỉ huy tân-đằng-hải bị tan vỡ mà thôi. Tính chung ba mặt trận, quân triều mất vạn rưởi, tân-đằng-hải mất quá bốn vạn. Cộng sáu vạn.
Quỳ ban lệnh ngay:
– Chở tử thi đem về nguyên quán, để tránh nạn thân nhân đi tìm xác như đã xẩy ra ở Côn-lôn, Đại-giáp.
Thấy Ôn Cảo trầm tư, Quỳ hỏi:
– Có gì khó khăn không?
– Thưa nguyên soái, đem tử thi về nguyên quán, đòi hỏi ba điều, mà ta khó cung ứng nổi: Một là phải bắt bảo binh vào rừng đẵn gỗ, xẻ ván làm sáu vạn cái quan tài không phải là dễ. Hai là lại phải dùng tới hai mươi bốn vạn bảo binh đem quan tài vừa đi vừa về ít ra hàng tháng. Ba là bảo binh nhân dịp này sẽ bỏ trốn hết.
– Nhưng ta có tới sáu mươi vạn bảo binh, dân phu kia mà!
– Thưa nguyên soái, hiện cứ một binh triều, có một bảo binh mang đồ, nấu ăn, giặt quần áo. Ta có ba mươi vạn binh triều, thì mất ba mươi vạn bảo binh cung cấp cho binh triều rồi. Còn lại hai mươi vạn để vận tải lương thảo, nếu lấy đi hai mươi bốn vạn bảo binh vận chuyển xác chết thì kiếm đâu ra?
Quỳ quyết định:
– Sai binh bắt dân Việt, bất kể nam, phụ, lão, ấu tập hợp thành đoàn lùa đi đào huyệt, còn bảo binh vào rừng đốn cây, xẻ gỗ làm quan tài, chôn tạm tại đây. Sau khi bình Giao-chỉ, ta sẽ bắt dân Việt cải táng, chuyên chở về nguyên quán. Nhớ chỉ đề tên tử sĩ trên nắp áo quan thôi, sau này ta cải táng lên khắc biết rõ tên người nằm ở trong; chứ đừng cho viết tên lên ván, cắm ở mồ, tránh nạn binh tướng tìm mồ bạn hữu để thắp hương, gây ra nạn yếm thế trong quân.
Hôm sau, tại một địa điểm cách phía Nam chiến lũy Như-nguyệt hơn mười dặm, đại tư mã Lý Thường-Kiệt hội với chư tướng để kiểm điểm tình hình. Linh-Nhân hoàng thái hậu tuyên chỉ:
– Trước đây chúng ta nghị kế thiết lập ba vòng đai phòng thủ, tưởng đâu Tống có thanh toán được vòng một, vòng hai; thì ít ra cũng phải một năm. Nào ngờ bọn Lưu Kỷ, Hoàng Kim-Mãn, Vi Thủ-An lại đầu hàng sớm, khiến Lạng-châu bị cô lập. Trước tình hình đó, để tránh bị diệt chủng, triều đình cho phép các trang động thuộc Lạng-châu được đứng trung lập; chúng ta hy vọng vào phòng tuyến thứ nhì. Nào ngờ vì Hoàng Kim-Mãn phản bội, nên ngao binh, ưng binh của ta hoá vô dụng, đưa đến Đâu-đỉnh bị thất thủ. Ta đành bỏ Quyết-lý, Chi-lăng. Bây giờ ta chỉ còn có phòng tuyến cuối cùng Như-nguyệt. Trước khi nghị kế, xin Đại-tư mã cho biết rõ tình hình địch.
– Tâu Thái-hậu.
Thường-Kiệt trình bầy: Tính tổng cộng từ khi Tống vượt biên đến giờ, giữa ta với Tống đã giao chiến với nhau trước sau tám trận. Trong tám trận đó, nếu định nghĩa theo binh pháp của Quốc-phụ: Khi ta với địch giao tranh, mà ta tổn thất một, địch tổn thất hai, được coi là thắng trận, thì ta thắng cả tám. Còn như theo chỉ dụ của Hy-Ninh đế, nếu ta mất một, Tống mất mười, mà chiếm được lãnh thổ ta thì vẫn coi là thắng. Theo dụ này thì Tống thắng sáu, ta thắng hai.
Linh-Nhân hoàng thái hậu an ủi:
– Sư huynh không nên câu nệ thắng hay hại. Từ cổ đến giờ chỉ có Trung-quốc mới xử tử tướng bại trận mà thôi. Như trong trận Hầu Nhân-Bảo đánh Đại-Việt, khi trở về, toàn bộ các tướng bị Tống Thái-tông xử tử trong quân. Còn lịch đại tộc Việt ta, không bao giờ kết tội các tướng bại trận cả, mà chỉ chú ý đến việc các tướng đó có quyết tâm bảo vệ đất tổ hay không mà thôi. Muội thấy, trong tám trận đã đánh, thì chính khí dọc ngang trời đất phải kể đến tướng sĩ của ta ở Ngọc-sơn, Đâu-đỉnh. Hùng khí lưu thiên cổ phải kể đến cuộc cướp trại Vĩnh-bình, Tây-bình, Lộc-châu. Trí dũng có thừa là cuộc thủ Quyết-lý, Chi-lăng. Mưu thần, chước thánh là trận đột kích đêm Giao-thừa.
Nét lo lắng trên gương mặt chư tướng đều từ từ biến đi.
Thường-Kiệt tiếp:
– Trước hết là trận Ngọc-sơn. Ta mất một, Tống mất mười hai. Nhưng đồn Ngọc-sơn thất thủ, Gia-viễn hầu Bùi Hoàng-Quan và phu nhân tuẫn quốc. Kể từ ngày ấy, ở mặt biển quân Tống không tiến thêm được bước nào, vì thủy quân Tống bị thủy quân ta đè bẹp.
Linh-Nhân hoàng thái hậu cúi đầu xuống, có lẽ ngài nhớ đến người bạn thời niên thiếu Trần Ngọc-Huệ nay đã ra người thiên cổ. Ngài đưa mắt nhìn Thái-sư hồi hưu Bùi Hựu:
– Một lần nữa triều đình chia buồn cùng Thái-sư và tang quyến.
Thái-sư Bùi Hựu cười dòn dã:
– Tâu Thái-hậu, trước khi trận Ngọc-sơn diễn ra, Hoàng-Quan có viết thư về cho lão phu. Nay lão phu xin đọc để Thái-hậu và chư vị cùng nghe.
Ông móc thư trong túi ra đọc lớn:
« Phụ thân, lão nhân gia đại kính.
Trước hết con xin gửi lời vấn an đến phụ thân và mẫu thân. Tình hình Ngọc-sơn rất nguy ngập. Tống tập trung quân ở Khâm-châu đến ba vạn người, cùng với hai hạm đội, không biết lúc nào, sẽ đánh Ngọc-sơn. Con tự biết, với ba nghìn người của con, thì Tống phải hy sinh tới ba vạn mới đánh được. Nếu như Tống thương quân, tiếc người, ắt họ không dám đánh. Còn như họ quyết tâm chiếm đất, không tiếc người, thì e con không giữ nổi.
Theo suy tính của vợ con, thì chắc Tống sẽ chịu mất người, để chiếm đất. Vậy con xin gửi mấy giòng này để vĩnh biệt song thân. Hai chúng con kết hôn trải mười ba năm, phu thê thuận hòa, chung lo quốc sự, ngày đêm ăn không biết ngon, ngủ không yên giấc; nayđã có với nhau ba mặt con. Bây giờ biết trước cái ngày tận trung báo quốc không xa, con xin gửi lời về; một là xin song thân tha cho cái tội bất hiếu, lỗi đạo thần hôn định tỉnh; hai là xin song thân thương tình, nuôi dạy ba trẻ cho nên người.
Chúng con khép nép, siết bao khiếp sợ, khóc chảy máu mắt, cúi rạp người, lạy tám lạy xin song thân tha tội cho chúng con.
Hoàng-Quan, Ngọc-Huệ ».
Đọc xong, Thái-sư nói:
– Đại-tư-mã bình tâm. Ta bại hay thắng, thực không đáng quan tâm. Lão phu tin rằng, chư tướng, chư quân đều nhất nhất sẵn sàng tận trung báo quốc như Hoàng-Quan, Ngọc-Huệ, đó mới là điều cần bàn luận.
Ông nhắc Thường-Kiệt:
– Xin Đại-tư-mã tiếp cho.
– Trận thứ nhì là trận quân ta đột kích đốt kho lương Vĩnh-bình, Tây-bình, Lộc-châu, rồi phục kích đánh truy binh. Trận này ta thắng lớn, vì giết được ba tên tướng phản họ Hoàng, diệt trọn đám hàng binh, đốt rụi ba kho lương. Trận thứ ba là trận đánh khi giặc truy kích, ta giết năm đại tướng danh tiếng là Lý Hạo, Dương Vạn, Dương Thiên, Dương Bách, Trương Chi-Giám, đánh tan đạo quân đệ tứ, đệ ngũ, diệt trọn đạo quân đệ lục. Tổng cộng đột kích, phục kích, Tống thiệt hại một vạn rưỡi quân triều, hai vạn Tân-đằng-hải với hàng binh. Tốn thất về phía ta gần như không, chỉ có sáu trăm người chết. Tiếp theo Tống tung người công ải Quyết-lý hai lần, Chi-lăng hai lần, đều thất bại, số tổn thất lên đến hơn sáu vạn người, đa số là Tân-đằng-hải với hàng binh.
Thái-hậu lắc đầu:
– Như thế trong bốn mươi vạn quân triều, Tống chỉ mới mất có vạn rưỡi thôi phải không?
– Tâu, đúng vậy.
Thường-Kiệt đáp: Trận Đâu-đỉnh, Tống dùng số đông tràn ngập. Ta mất hiệu binh Đại-hoàng gần vạn người. Tống mất ba vạn quân triều với năm vạn Tân-đằng-hải, và hàng binh. Nam-sơn hầu Dư Phi tuẫn quốc. Vì mất Đâu-đỉnh, ta phải bỏ Quyết-lý, Chi-lăng, thành ra phòng tuyến thứ nhì tan vỡ.
Ông cau mày, thở dài:
– Vỡ phòng tuyến thứ nhì, ta mất vạn quân không đáng lo. Cái đáng lo của ta là ta lợi dụng địa thế để kéo dài cuộc chiến bị mất; ngược lại cái ưu thế của Tống tăng, vì quân Tống được luyện tập đánh nhau ở đồng bằng đã quen, nay chúng lọt được vào đồng bằng rồi, như cá gặp nước. Lợi dụng Tống mới hạ trại, Trung-Thành, Tín-Nghĩa thử đột kích để dò thám thực lực của chúng. Trận này mới diễn ra trong đêm hôm qua là đêm Giao-thừa. Xin để nhị vương trình bầy.
Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi Trung-Thành vương:
– Hoàng thúc! Kết quả trận đột kích ra sao, xin hoàng thúc trình cho triều đình biết.
– Tâu Thái-hậu, trận đột kích thành công. Nhưng sau trận đột kích, thần cảm thấy lo lắng vô cùng. Trong trận đột kích ven sông này, cần phải dùng quân, tướng giỏi thủy chiến. Vì vậy thần cho Long-biên ngũ hùng giữ nhà, đùng Tây-hồ thất kiệt với bẩy hiệu Thiên-tử binh trực thuộc xuất chiến. Mặt Phú-lương, phò mã Hoàng-Kiện, công chúa Động-Thiên xử dụng hai hiệu; mặt trận Nham-biền, thần nhờ Lý đại đô đốc xử dụng hai hiệu; mặt trận Như-nguyệt thần cùng Tín-Nghĩa vương xử dụng ba hiệu. Trận đột kích thành công mỹ-mãn. Tại Nham-biền giết được đại tướng Địch Tường và hàng tướng Nùng Sĩ-Trung; tại Phú-lương, giết được đại tướng Lý Hiếu-Tông, hàng tướng Hoàng Sầm-Mãn; tại Như-nguyệt giết được hết các hàng tướng Hoàng Kim-Mãn, Nùng Thịnh-Đức, Nùng Quang-Lâm. Về quân số, đánh tan 23 chỉ huy tân-đằng hải, ba đạo quân triều, tổng số sáu vạn người. Về phía ta, các tướng vô sự, Thiên-tử binh mất hơn nghìn.
Vương nhấn mạnh:
– Ta ra quân trong lúc Tống đang ăn tết, khởi đầu thắng thế lớn. Sau hơn giờ giao chiến, giặc chỉnh bị được hàng ngũ, cuộc giao tranh cực kỳ ác liệt. Sau trận thử lửa, thần nhận thấy quân tân-đằng hải có khả năng ngang với hoàng nam của ta, nhưng vì chưa quen dàn trận, nên ta mới thành công. Còn quân triều, nói thực ra, chúng ngang với Thiên-tử binh của mình.
Trong phòng họp, mọi người cùng đưa mắt nhìn nhau, vì cái nguy cơ mất nước gần kề. Bởi quân triều của Tống tới bốn mươi vạn, mà ta chỉ có mười hai vạn.
Trung-Thành vương tiếp:
– Tính chung, kể cả trận Ngọc-sơn cho đến nay, ta mất hai vạn người, đa số là quân các lộ, Thiên-tử binh mất chưa quá bốn nghìn. Quân Tống mất hai mươi bốn vạn, thì mười tám vạm là quân Quảng, quân tân-đằng-hải, bảo binh; còn quân triều chỉ hao có sáu vạn.
Đại-tư-mã Lý Thường-Kiệt tiếp lời Trung-Thành vương:
– Quách Quỳ mang theo bốn mươi vạn binh triều, chủ yếu là 30 đạo binh đem từ Tây, Bắc về với năm đạo kị binh. Kị binh chúng còn nguyên, binh triều mới chỉ có chín đạo hao hụt. Nếu bây giờ tấn công ta, chúng sẽ dùng binh triều đối trận với Thiên-tử binh; tân-đằng-hải đánh các xã. Như vậy một kị binh của ta phải đánh với năm kị binh Tống, một Thiên-tử binh của ta phải đánh với bốn quân triều của Tống.
Triều đình đều ngao ngán, lo lắng bứt rứt.
Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi Trung-Thành vương:
– Theo hoàng thúc ước tính, thì Tống sẽ đánh xuống Thăng-long như thế nào?
– Tâu Thái-hậu, tin mới nhất cho biết, Quách Quỳ hội chư tướng đêm Giao-thừa. Y đã định đánh sang cả ba mặt Phú-lương, Như-nguyệt, Nham-biền một lúc. Nhưng Nham-biền, Phú-lương là hư, Như-nguyệt là thực. Sau khi Như-nguyệt bị chiếm, ắt quân ta ở Phú-lương, Nham-biền phải bỏ phòng tuyến về cứu Thăng-long. Bấy giờ quân Tống mới biến hư thành thực, vượt Phú-lương, Nham-biền truy kích tiêu diệt.
Linh-Nhân hoàng thái hậu suýt xoa:
– Cũng may tế tác của ta biết được việc này trước. Thưa hoàng thúc, chúng định đánh Như-nguyệt bằng cách nào?
– Tâu, phương lược như sau: Đợi chu-sư Tống tới chở quân qua Nam ngạn phá chiến lũy. Nhưng Triệu Tiết khôn hơn, y hiến kế rằng, chu sư giỏi lắm mỗi chuyến chở được năm vạn người. Như vậy khi chu sư trở về chở lần thứ nhì, thì năm vạn trước bị ta làm thịt hết rồi. Phải làm cách nào chở sang một lúc mười vạn quân, ào ạt phá chiến lũy, khiến ta không kịp trở tay. Sau đó chu sư kết thành phù kiều (cầu nổi) để tiếp tế chiến cụ như rơm tẩm dầu đốt chiến lũy, thuẫn, lá chắn, cùng tải thương binh tử sĩ về. Chọc thủng Như-nguyệt rồi, thừa thắng cho kị binh hỏa tốc tiến về Thăng-long, quân bộ tiến sau bảo vệ hai hông cho kị binh cùng phòng ta đánh cắt đường về. Còn tân-đằng-hải chia nhau đánh các xã để kiếm lương, dân phu.
Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi:
– Trong chư vị đây, ai có diệu kế gì để gỡ thái thế một mất, một còn của ta này?
Lập tức chư tướng ào lên bàn luận phân vân.
Đến đó một thị vệ vào trình:
– Thưa Đại-tư-mã, có thư từ Khu-mật viện báo rằng hai vị thánh tăng Minh-Không, Đạo-Hạnh dẫn theo bốn vị sư phụ Viên-Căn, Viên-Mộc, Viên-Chi, Viên-Diệp cầu kiến. Xin Đại-tư-mã cho biết tôn ý.
Nguyên-soái Thường-Kiệt ban lệnh cho viên tá lãnh phụ trách truyền tin:
– Dùng chim ưng truyền lệnh cho Khu-mật viện rằng: Đem xe ngựa rước các ngài đến đây ngay.
Viên tá lãnh dạ một tiếng rồi rời trướng liền.
Từ hai mươi năm qua, bồ tát Minh-Không, Đạo-Hạnh thường sống lẫn lộn với kẻ cùng khổ. Khi thì hai ngài dùng y đạo chữa trị, khi thì hai ngài thuyết pháp; cũng có khi hai ngài gặp bọn trộm cướp, đạo tặc, bọn du thủ du thực, hai ngài dùng võ công thu phục chúng, rồi giáo hóa pháp lý từ bi của đức Thế-tôn khiến chúng trở thành thiện nhân. Hóa cho nên khắp Đại-Việt, ai cũng kính trọng gọi hai ngài là thánh tăng.
Đại-Việt dưới quyền cai trị của Linh-Nhân hoàng thái hậu luôn dùng đức cải hóa người hơn là hình pháp khiến trong dân gian, kẻ phạm pháp rất ít. Hơn bốn chục năm qua, đã có Mộc-tồn, Viên-Chiếu vừa dùng đức cảm hóa, vừa dùng hình pháp trị bọn gian tà. Nay thêm hai ngài Minh-Không, Đạo-Hạnh nữa, nên chi nhà tù gần như trống không.
Mấy tháng trước đây, hai ngài vân du Trung-quốc, giúp Hy-Ninh hoàng đế nhà Tống trị tà trong Hoàng-cung, được vua cúng dàng đồng đen. Ngài Minh-Không dùng phép thu cả kho đồng vào túi, đem về Đại-Việt đúc thành Nam-thiên tứ đại thần khí, thì dân chúng gọi hai ngài là thánh tăng.
Công chúa Thiên-Ninh hỏi Tín-Nghĩa vương:
– Hoàng-thúc! Chư tướng hiện diện hôm nay đây biết rất ít về hai thánh tăng Minh-Không, Đạo-Hạnh. Đại khái chỉ biết hai ngài là sư phụ của Tây-hồ thất kiệt mà thôi. Còn ngoại giả thì không biết gì hơn. Xin hoàng-thúc cho biết hành trạng hai ngài, trước khi cùng hai ngài nghị kế cứu nước.
Tín-Nghĩa vương đáp ngay:
– Thánh-tăng Minh-Không họ Nguyễn. Thánh-tăng Đạo-Hạnh họ Từ.
Long-nhượng thượng tướng quân, Thiện-Tâm hầu Phạm Dật hỏi:
– Khải vương gia, đệ đọc trong Thái-tổ thực lục thấy chép rằng ngài Minh-Không, Huệ-Sinh với đức Thái-tổ là ba đệ tử đắc ý của quốc-sư Vạn-Hạnh. Như vậy năm nay ít ra ngài Minh-Không phải trên trăm tuổi. Nhưng… nhưng đệ thấy ngài còn trẻ quá. Không lẽ ngài thành bồ tát rồi trẻ mãi không già như tiên nương Bảo-Hòa chăng?
Phạm Dật vừa hỏi dứt, thì từ Linh-Nhân hoàng thái hậu cho đến Thường-Kiệt, Trung-Thành, Tín-Nghĩa… đều lắc đầu. Tín-Nghĩa vương ngồi ngay ngắn, sửa y phục rồi nói:
– Để ta nói về hành trạng anh linh tộc Việt cho đệ nghe. Nguyên vào cuối thời Thập-nhị sứ quân, dân Việt cực khổ đến nỗi sống không được, mà chết cũng không xong. Bấy giờ ba vị đại đệ tử của đức Thích-ca Mâu-ni là Tu-bồ-đề, Ma-ha Ca-diếp, Di-Lặc quá thương xót dân Việt, mới đầu thai làm người Việt với hạnh nguyện rằng sẽ giúp tộc Việt dựng lại nước. Ngài Tu-bồ-đề đầu thai thành tổ Minh-Không, ngài Ma-ha Ca-diếp đầu thai làm ngài Sùng-Phạm, ngài Di-Lặc thành Bố-Đại hòa thượng. (Xin xem Anh-hùng Tiêu-sơn,
Phạm Dật cùng chư tướng đều gật đầu, tỏ vẻ hiểu biết về việc này.
Tín-Nghĩa vương tiếp:
– Khi bồ-tát Sùng-Phạm truyền 100 năm công lực cho phò-mã Thân Thiệu-Thái xong, ngài không đầu thai ngay, mà chờ tổ Minh-Không viên tịch rồi cùng đầu thai. Niên hiệu Thuận-Thiên thứ 19 (1028), tổ Minh-Không thấy xác mình mục, mới gọi sư đệ là tổ Huệ-Sinh với chư đệ tử tới dặn rằng người với tổ Sùng-Phạm sẽ tái đầu thai. (Xin xem NQSH, hồi thứ 11).
Phạm Dật vốn cực kỳ thông minh, hầu à lên một tiếng:
– Đệ hiểu rồi, sau đó tổ Minh-Không tái đầu thai, vẫn lấy pháp danh là Minh-Không, còn tổ Sùng-Phạm đầu thai vào nhà Tăng-quan đô-án Từ Vinh, thành ngài Từ Đạo-Hạnh. Có đúng thế không?
– Đúng vậy. Niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh thứ 2 (1060) hai ngài tìm đường sang Tây-trúc tu đạo, nhưng đi đến nước Kim-xỉ thì bị núi ngăn tuyệt đường. Hai ngài mới trở về Đại-Việt.
Đến đây vương đưa mắt nhìn Linh-Nhân hoàng thái hậu, ngụ ý muốn để hậu thuật hành trạng nhị thánh, mà chính hậu được hưởng.
Linh-Nhân hoàng thái hậu biết ý vương. Hậu bèn thuật hành trạng của ngài Minh-Không như giả làm ăn mày dạy dỗ cho công tử họ Dương giữa Thăng-long; chữa bệnh cho chó của Tín-Nghĩa vương, rồi nhận Tây-hồ thất kiệt làm đệ tử; xem Tử-vi, cùng ban thuốc cho hậu để trị bệnh khi bị thác loạn thần kinh; xuất hiện tại chùa Pháp-vân trị bệnh cho vua Thánh-tông; xuất hiện tại chùa Thánh-chúa ban thuốc trị bệnh cho vua Thánh-tông với hậu, nên mới có vua Nhân-tông. Trong trận Bắc phạt ngài lại xuất hiện với ngài Đạo-Hạnh hai lần. Một lần cứu tướng Tống để khỏi bị Mộc-tồn hòa thượng giết, một lần tại thành Ung để giúp thần tăng Pháp-Nhẫn khuyên Tô Giàm cho dân rời xa chiến địa. Nhưng gần đây nhất, hai ngài nhận lời Khu-mật viện vân du Trung-quốc để làm cho Hy-Ninh đế cách chức Vương An-Thạch, và phá thế yểm hại Đại-Việt gần nghìn năm của Trung-quốc, rồi đúc Nam-thiên tứ đại thần khí.
Chư tướng nghe xong, bất giác cùng có cảm nghĩ hân hoan vô cùng. Linh-Nhân hoàng thái hậu kết luận:
– Phật giáo đến Trung-quốc, bị Trung-quốc hóa đi, nhưng vẫn rời xa việc bảo vệ xã tắc. Còn Phật-giáo vào Đại-Việt, đã được Việt hoá thành một chủ đạo tộc Việt là lấy đạo pháp bảo vệ đất nước từ thời ngài La Quý-An, Sùng-Phạm, Bố-Đại, Vạn-Hạnh, Minh-Không, Huệ-Sinh; nhưng cái chủ đạo ấy vẫn chưa hình thành một thứ chủ đạo dân tộc hoàn toàn. Nay đến ngài Minh-Không, Đạo-Hạnh, tinh thần đó thành chủ đạo, thành vũ khí giữ nước.
Đến đó, thân binh báo:
– Hai thánh tăng cùng với bốn hòa thượng chùa Báo-ân giá lâm.
Linh-Nhân hoàng thái hậu vẫy Long-biên tứ hùng, Tây-hồ thất kiệt ra ngoài đón rước.
Linh-Nhân hoàng thái hậu cung tay:
– A-di-đà Phật! Chúng đệ tử xin tham kiến nhị vị bồ tát. Tứ vị sư huynh.
Minh-Không đáp lễ:
– Nhọc thánh thể Thái-hậu cùng chư vị ra đón. Nghe Thái-hậu cũng chư tướng nghị kế giữ nước. Anh em bần tăng tuy hạc nội mây ngàn, nhưng cũng là con dân Đại-Việt, nên đến thái hậu cho ra trận làm bốn phận con dân.
Lễ nghi tất.
Tây-hồ thất kiệt là đệ tử của Minh-Không, nên bẩy tướng kéo ghế lại ngồi bên ngài. Linh-Nhân hoàng Thái-hậu với Long-biên ngũ hùng là sư đệ sư muội của bốn nhà sư Viên, nên tứ hùng cùng lại ngồi bên bốn ngài.
Lý Thường-Kiệt tóm lược những gì đã nghị sự cho sáu vị nghe.
Minh-Không chỉ Tín-Nghĩa vương:
– Bần tăng thấy dường như vương gia đã có đến năm sách lược bảo quốc, mà sao chưa tâu lên Thái-hậu?
Tín-Nghĩa vương kinh hoàng, vì năm sách lược đó, ông hoạch định trong tâm, mà sao vị sư phụ này lại biết. Chợt động tâm cơ, vương chửi thầm:
– Mình thực sơ tâm! Hai vị bồ tát này luyện Mật-giáo đến trình độ tối cao, thì tất cả những gì mình suy nghĩ, ngài cũng thấy, đâu có lạ?
Vương cung tay:
– Xin tuân pháp dụ của sư phụ.
Vương cung tay hướng Thái-hậu:
– Thần xin đưa ra năm diệu kế để giữ nước.
– Xin hoàng thúc cứ nói.
– Cái ngày mà Quách Quỳ vượt sông e không xa. Ta không thể cản bước tiến quân của y. Phòng tuyến Như-nguyệt của ta cực kiên cố, với hai hiệu Thiên-tử binh Bổng-thánh của Mai Cầm, Phương-Đơn; Bảo-thắng của Quách Y, Phương-Tiên quyết tử trấn ở đây. Vậy sách đầu tiên của ta là chấp nhận trận đánh Như-nguyệt, ta mất một, Tống mất mười. Nếu như trong khi đánh, thấy quân mình chết nhiều quá, Quách Qùy cho lui quân, thì e rằng sau này khó có thể đủ khả năng vượt sông nữa; đây là thượng sách cho ta. Bằng y chịu hy sinh hai mươi vạn người, để phá Như-nguyệt thì ta cũng đành chấp nhận.
Quan Thái-phó Quách Sĩ-An hỏi:
– Khi ta biết chủ tâm của Tống là dùng hết khả năng đánh Như-nguyệt. Vậy sao ta không phối trí tại đây ba, bốn hiệu binh nữa cho ăn chắc?
Tín-Nghĩa vương lắc đầu:
– Thưa quan Thái-phó, phòng tuyến Như-nguyệt phía trước là sông, đã đắp thành lũy. Phía sau là vườn, ruộng, địa thế rất hẹp, không thể đồn trú quá hai hiệu binh. Vả có đem nhiều binh tới đây cũng vô ích, mà chỉ nên đồn trú dọc đường Như-nguyệt Thăng-long mà thôi. Vì vậy tôi đã đề nghị đem thực nhiều Thần-nỏ, thú-binh, cùng các cao thủ. Nhân Như-nguyệt gần Tản-lĩnh, tôi đã xin tiên nương Bảo-Hòa viện cho đội võ sĩ phái Tản-viên nghìn người. Với nghìn người này, có sức mạnh bằng mười vạn quân.
Nhiều đại thần chau mày tỏ vẻ không đồng ý vì: Phía sau Như-nguyệt năm mươi dặm thì tới Thăng-long. Như-nguyệt thất thủ, thì e hai khắc sau kị mã đã tới kinh đô rồi. Quan tổng trấn Thăng-long Ngô Thường-Hiến hỏi:
– Ví thử Tống chịu hy sinh 20 vạn người để phá cho được Như-nguyệt thì vương gia tính sao?
– Đó là điều tôi mong đợi. Nếu như Quách Quỳ nướng 20 vạn người vào đây, thì ta đánh một hai trận nữa, ắt y không còn lực, chỉ có thể rút lui. Vì từ Như-nguyệt tới Thăng-long có ba đoạn đường. Một là Như-nguyệt đến rừng tre khoảng hai mươi dặm, hai bên có 18 xã. Theo phương lược của Quách Quỳ, thì y cho kị binh đi trước, bộ binh đi sau, dùng tân-đằng-hải đánh các xã. Ta dùng hai hiệu binh các lộ, chia cho các xã hợp với hoàng nam để chống lại quân tân-đằng-hải. Như thế là sách dùng tân-đằng-hải kiếm lương với dân phu bị phá; mà kị binh, bộ binh tiến trước thấy hai sườn bị uy hiếp phải dừng lại. Đây là sách thứ nhì.
Chư tướng vỗ tay hoan hô.
– Đoạn đường thứ nhì là từ rừng tre tới Cổ-pháp, khoảng mười dặm, hai bên có mười xã, ta cũng áp dụng như trên. Ngay trước Cổ-pháp là vòng đai bảo vệ Thăng-long của công chúa Thiên-Ninh với hai hiệu Ngự-long của Phạm Dật, Kim-Loan; Quảng-vũ của Vũ Quang, Kim-Liên. Phòng tuyến này còn chắc hơn phòng tuyến Như-nguyệt nữa. Quân Tống đến đây dù Quách Qùy có muốn hy sinh giống Như-nguyệt, thì e không còn đủ quân nữa. Trong khi đó dọc đường, quân các lộ của ta với hoàng nam đánh chặn dường tiếp tế lương thảo. Như vậy Tống không thể xuống Thăng-long được. Đây cũng vẫn nằm trong sách thứ nhì.
Thái sư Lý Đạo-Thành hỏi:
– Khải vương gia, ví thử Quách Qúy nhất quyết thí quân ở Cổ-pháp, thì Thăng-long nguy tai!!!
– Thưa Thái-sư, tiểu bối chưa trình bầy xong mà.
Tín-Nghĩa vương giảng giải: Sách thứ ba, là ta lợi dụng Tống dùng hết khả năng đánh Như-nguyệt, còn hai mặt Nham-biền, Phú-lương là hư. Ta hãy tưởng tượng rằng khi chiến lũy Như-nguyệt thất thủ, quân kị bộ Tống đang tiến về Thăng-long. Ta dùng đạo binh lưu động của Trung-Thành vương đánh tan một trong hai đạo Nham-biền, Phú-lương, rồi tiến về uy hiếp bản doanh Quách Quỳ, đốt cháy kho lương. Dĩ nhiên Quách Quỳ phải rút quân về bảo vệ lấy căn bản. Nếu y không rút về, thì chỉ nửa ngày quân y sẽ tan, vì không có lương ăn!
Vương nhấn mạnh:
– Cái khó khăn là chiến lũy Cổ-pháp phải cầm chân kị binh ít nhất trong hai ngày, để đạo binh Trung-Thành vương có thời giờ hành sự. Không biết công chúa Thiên-Ninh giữ nổi chiến lũy Cổ-pháp trong bao nhiêu lâu?
Công chúa Thiên-Ninh tự tin:
– Xin hoàng thúc yên tâm, cháu có thể giữ được ít nhất một tháng.
Chư tướng vỗ tay hoan hô.
Tín-Nghĩa vương tiếp:
– Bấy lâu nay, triều đình bắt Thân phò mã với công chúa Thiên-Thành; công chúa Côi-sơn với phò mã Tôn Mạnh; thượng tướng quân Đinh Hoàng-Nghi với phu nhân ẩn thân trong rừng. Bây giờ ta thư cho ba vị ấy xuất hiện, vượt biên sang Tống đốt kho lương, đánh úp các đồn Quyết-lý, Chi-lăng, rồi trấn giữ tại đây. Tống bị cắt đường vận lương, bị tuyệt đường về, ắt Quỳ phải dồn hết lực lượng khai thông đường Như-nguyệt sang Trung-nguyên, Như thế y không thể tiến về Thăng-long được. Đây là sách thứ tư.
Vương đưa mắt nhìn Côi-sơn tam anh:
– Sách thứ năm, phi tam vị sư bá, không ai thực hiện nổi.
Trần Trung-Đạo hỏi:
– Sách này ra sao?
– Sách này ta đã dùng sau trận Côn-lôn, Đại-giáp, Ngọc-tuyền, Hỏa-giáp, Ung-châu. Nay dùng lại một lần nữa.
Trung-Đạo bật cười:
– Sách này tuy không có kết quả ngay, nhưng nó thấm vào tâm não muôn nghìn năm sau của người Hoa rằng: Cho con em đánh sang Đại-Việt, thì chỉ có đi, mà không có về.
Phò mã Hoàng Kiện hỏi:
– Trình sư bá, chi tiết áp dụng ra sao?
– Ta khích động cho gia đình tử sĩ sang đào mả đem xác về, để gây trấn động giang sơn Tống, gây bất mãn, lo sợ cho binh Tống. Không biết số tổn thất chính xác của Tống ở mỗi mặt trận là bao nhiêu? Chôn tại đâu?
Trung-Thành vương trình:
– Sau trận đột kích của ta vào Vình-bình, Tây-bình, Lộc-châu, cùng cuộc phục kích đánh truy binh của Tống cộng bốn lần Tống đánh Quyết-lý, Chi-lăng, số quân triều chết khoảng hai vạn. Quách Qùy đã cho đưa tử thi về nguyên quán, khiến dân phu phục dịch cực kỳ khổ sở, dọc đường gây ấn tượng kinh hoàng cho dân chúng. Cho nên Quách Quỳ tạm bỏ chương trình đưa xác tử sĩ về nguyên quán. Số quân tân-đằng-hải chết trận tại Bắc-biên là sáu vạn, đa số quê ở vùng Trường-sa được chôn ngay ở biên giới. Từ trận Đâu-đỉnh, trận đánh đêm Giao-thừa, quân triều chết hơn bốn vạn, quân tân-đằng-hải chết hơn chín vạn, đa số quê ở Quảng-Đông, Quảng-Tây y cho chôn ở Bắc Như-nguyệt. Quách Quỳ, đợi sau chiến tranh sẽ cải táng đưa về nguyên quán.
Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi:
– Triều đình có nhận được tin của Đinh Hoàng-Nghi báo cho biết Quách Quỳ không cho cắm gỗ đề tên tử sĩ lên mộ là ý gì vậy?
– Tâu, vì y sợ quân Tống sống thăm mồ mả bạn hữu tử trận, nên không cho đề tên kẻ xấu số lên ván, cắm ở mộ; mà chỉ cho viết trên nắp áo quan, đợi sau chiến tranh, mới đào lên đem về nguyên quán.
Trung-Đạo hỏi:
– Có cách nào lấy được danh sách tử sĩ Tống tại các mặt trận không?
– Thưa sư bá cháu đã có trên tay.
Trung-Thành vương đáp: Vì Quỳ bắt dân ta xẻ gỗ làm quan tài chôn tử sĩ Tống, cùng chôn cất, cháu lợi dụng cho tế tác len lỏi vào, nên đã lấy được đầy đủ họ tên, cấp bậc, quê quán. Không biết sư bá dùng làm gì?
– Tốt lắm. Trước đây, ta đã cho đệ tử đón đường giết ngựa trạm của Tống, tịch thu được nhiều văn kiện. Nhờ đó ta biết ấn, chữ ký, binh phù của Ôn Cảo, Triệu Tiết, Quách Quỳ. Ta đã cho khắc mấy chiếc ấn giống của chúng. Bây giờ ta chép danh tính của tử sĩ Tống từng huyện một, rồi giả công văn gửi đến các huyện; lệnh cho huyện loan báo hung tín tới gia đình. Trong thư ta sẽ ghi rõ mồ hiện chôn tại đâu, thân nhân có thể sang thăm, hoặc tự cải táng mang về.
Linh-Nhân hoàng thái hậu nhắm mắt lại một lát rồi nói:
– Sách này rất độc. Hãy cứ tưởng tượng, gần hai chục vạn dân phu, bảo binh, tân-đằng-hải tử trận, thì ít ra cũng có mười vạn gia đình đi tìm xác con em. Họ đâu có đi một mình? Tính trung bình mỗi tử sĩ có ba người đi tìm xác, thì ít ra cũng có sáu mươi vạn người tràn qua biên giới. Bấy giờ Quách Quỳ ắt biết đây là mưu của ta, nhưng đành thúc thủ. Y không thể sai quân cản những người này. Nhược bằng y có sai, thì quân cũng không tuân.