Ngày Mậu-Thìn, 10 tháng mười một năm Ất-Mão (DL. 20-12-1075), niên hiệu Thái-Ninh thứ tư đời vua Lý Nhân-tông của Đại-Việt, bên Trung-nguyên là niên hiệu Hy-Ninh thứ tám đời vua Thần-tông nhà Tống.
Không gian đế đô Thăng-long, trấn Thanh-hóa, trấn Thiên-trường, trấn Đồn-sơn muốn nổ tung lên vì những cuộc chuyển quân vĩ đại. Dân chúng, gia đình tướng sĩ chen chúc nhau ở bến thủy-quân để tiễn thân nhân lên đường vào giúp Chiêm-quốc chống với Chân-lạp.
Tại Thanh-hóa, hạm đội Âu-Cơ cập bến. Cờ xí phất phới, những cánh buồm lớn mầu nâu kéo lên, nổi bật trên nền trời xanh lơ. Trên bờ hai hiệu Thiên-tử binh Hùng-lược, Vạn-tiệp dàn ra; cờ xí bay rợp trời, gươm đao sáng ngời, trống thúc vang dội. Trong cái khí thế nghiêng trời lệch đất đó, Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân ruổi ngựa duyệt qua hàng binh. Đi cạnh vương là hai đô-thống Ngô Ức, Tạ Duy với hai phu nhân Phương-Dược, Phương-Quế. Phía sau các hàng quân là vợ con, gia đình bình tướng đi tiễn đưa.
Binh tướng cũng như gia đình đều được thông báo rằng quân trẩy đi lần này để tham chiến tại Pandurango giúp Chiêm-thành chống Chân-lạp.
Sau khi duyệt binh rồi, Trung-Thành vương trao cho đô-đốc Trần Phúc, đô-thống Ngô Ức, Tạ Duy một bức thư niêm phong kín và dặn nhỏ:
– Đây là mật chỉ của hoàng-thượng. Khi hạm đội ra khơi, thì cả ba vị cùng hội nhau lại, mở phong thư này và thi hành.
Một chiếc chiếc pháo lệnh bắn vọt lên trên trời. Chiếc pháo nổ tung ra bốn phía. Đoàn hùng sư hướng các cầu tầu, lên chiến hạm. Thoáng một cái, hơn hai vạn người ngưa đã rời khỏi bờ. Sau ba hồi trống, hạm đội nhổ neo hướng ra khơi, phút chốc đã biến mất vào chân trời mờ mịt.
Đô-đốc Trần Phúc thấy hạm đội đã rời bờ khá xa, trông vào đất liền chỉ còn thấy một mầu xanh lơ của nước biển, dưới chân mây; những con hải-âu đang đo cánh trên nền trời… ông mới nói với Ngô Ức, Tạ Duy:
– Xin mời hai đô-thống, hai phu nhân vào khoang cùng mở mật chỉ để thi hành.
Năm người vào trong khoang lớn, Trần Phúc mở bao thưa ra. Nhìn tờ giấy in hình chim ưng, mỗi chân cặp một thanh kiếm, thì cả năm đều biết là lệnh của Khu-mật viện. Trong lệnh vỏn vẹn có mấy giòng:
« Lệnh nói rằng tham chiến ở Pandurango là hư kế để lừa địch. Hãy quay thuyền lên phía Bắc, rồi giảng giải cho quân sĩ biết rõ những âm mưu xâm chiếm Đại-Việt của Tống; vì vậy ta phải đánh Tống trước để tự vệ. Khi tới ngoài khơi Thiên-trường, sẽ gặp hạm đội Bạch-đằng chở hai hiệu Bổng-thánh, Bảo-thắng. Khi tới cửa sông Hồng, sẽ gặp hạm đội Động-đình chở hiệu Thần-điện. Ba hạm đội đi theo hàng một. Hạm đội Âu-Cơ đi đầu, thứ đến Bạch-đằng. Hạm đội Động-đình đi thứ ba. Tới Đồn-sơn, sẽ gặp hạm đội Thần-phù chở hai hiệu Vũ-thắng, Long-dực đi thứ tư. Bấy giờ sẽ có lệnh chi tiết sau ».
Năm người chia nhau đến từng chiến hạm giảng giải cho binh sĩ. Nghe các chúa tướng kể chi tiết về vụ Tống chuẩn bị đánh Đại-Việt, nên mình phải ra tay trước, binh sĩ hoan hô nhiệt liệt.
Phu-nhân của đô-thống Tạ Duy là Phương-Quế, đứng trên đỉnh một chiến thuyền khích lệ tướng sĩ:
– Chư quân đã nghe, đã hiểu mục đích việc ra quân của chúng ta rồi phải không?
– Nghe, hiểu.
– Chư quân từng học, từng nghe, từng quỳ gối lễ đền miếu thờ các anh hùng đời trước chết cho Đại-Việt. Con người ta, ai sinh ra cũng phải chết, không chết trước thì chết sau. Nếu như được chết cho Đại-Việt, sẽ thành thần, đời đời trăm họ tôn thờ mới là cái chết xứng đáng. Có phải vậy không?
– Đu…úng!
– Vậy đây là dịp duy nhất để chư quân được chết cho Đại-Việt, được thành thần.
– Nghe!
Thuyền tiếp tục đi về hướng Bắc. Sau một ngày thì gặp hạm đội Bạch-đằng. Sang ngày thứ ba lại gặp hạm đội Động-đình. Đến ngày thứ tư, thì chu-sư tới Đồn-sơn. Đây là căn cứ thủy quân chính của Đại-Việt. Bốn hạm đội dàn ra thành một hành dài. Chim ưng mang lệnh của đại đô đốc Lý Kế-Nguyên tới, mời các đô-đốc chỉ huy hạm đội, bẩy đô-thống cùng phu nhân chỉ huy bẩy hiệu Thiên-tử binh đến soái hạm họp.
Chư tướng có mặt đầy đủ. Trên bàn chủ-toạ, nguyên-soái Thường-Kiệt ngồi chính giữa. Bên phải là đại đô đốc Lý Kế-Nguyên, bên trái là Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn.
Tín-nghĩa vương mỉm cười:
– Chắc chư tướng ngạc nhiên vì sự hiện diện của cô-gia ở đây phải không? Bởi trước đây trong cuộc nghị kế Bắc phạt, Linh-nhân hoàng thái hậu ban chỉ cho cô gia giữ nhiệm vụ tổng trấn từ Hải-vân tới Thanh-hóa, mà sao nay cô gia lại hiện diện phải không? Thưa đó là hư kế để lừa giặc mà thôi.
Nguyên-soái Thường-Kiệt để kiếm lệnh lên bàn:
– Trước hết bản soái loan báo cho các vị biết tình hình mặt trận trên bộ. Đầu tiên là trận Cổ-vạn. Bề ngoài là Tô-mậu hầu Vi Thủ-An chỉ huy, nhưng trên thực tế là Côi-sơn công chúa với Tôn phò mã. Như kế đã định trước: Ngày 15 tháng 9 lợi dụng địch mang quân sang đánh ta. Ta chia quân làm hai. Một mặt đi đường tắt đánh úp Cổ-vạn; một mặt chặn đánh địch ở đèo Vong-thiên. Toàn bộ năm nghìn quân Quảng, bốn nghìn Bảo-binh vừa bị bắt, vừa đầu hàng, vừa bị giết. Tả-lãnh vệ đại tướng quân Chu Am bị bắt. Bát tác sứ Toàn Hưng, thủ-lĩnh trại Cổ-vạn Nùng Hiệp-Thành bị giết. Sau khi lên tận nơi kiểm kê chiến lợi phẩm, thái-hậu phải rùng mình, vì số lương thảo tích trữ tại đây có thể nuôi mười vạn quân trong một năm, số vũ khí có thể trang bị cho năm vạn quân. Đó là một bằng chắng Tống định dùng lương thảo đó nuôi quân đánh ta, và d;ung vũ khí đó, bắt dân ta nhập ngũ để đánh Liêu.
Chư tướng vỗ tay.
– Ngày 1 tháng 10, Lưu Di mới được tin Cổ-vạn mất. Y tâu về triều rằng đó là những đụng chạm giữa các khê động. Có lẽ giờ này Tống triều cũng chưa biết rõ cuộc hành quân vĩ đại của ta với chủ đích gì?
Chư tướng lại vỗ tay.
– Ngày 2 tháng 10, cánh quân Quảng-nguyên, Lạng-châu, Tô-mậu đồng loạt tấn công vào các ải Thái-bình, Hoành-sơn, Vình-bình, Tây-bình, Lộc-châu. Trong ba cánh, thì cánh Quảng-nguyên đánh vào Tây-bình, Lộc-châu. Cánh này do phò-mã Thân Cảnh-Phúc với hai đô-thống Lý Đoan, Trần Ninh chỉ huy, ba vị phải đối đầu với quân số đông đảo của Tống gồm hai vạn Bảo-giáp, năm nghìn quân Quảng, ba nghìn kị binh. Nhờ ta tập kích bất ngờ, nên chiếm hai châu này dễ dàng. Bọn Nùng Toàn-An, Nùng Tông-Đán chạy thoát. Sau khi kiểm kê lương thảo, Thân phò mã ước tính rằng số lương tiền của Tống chứa tại đây có thể nuôi năm vạn quân trong một năm. Số vũ khí có thể trang bị cho bẩy vạn quân. Đó là hai bằng chứng về âm mưu của Tống. Trong lúc Tây-bình thất thủ, Trấn-viễn đại-tướng quân Lưu Khả của Tống đang dẫn quân Quảng, quân kị đi thao diễn cách đó hơn năm chục dậm. Bọn Nùng thoát thân, khẩn khoản xin Lưu đem quân về chiếm lại Tây-bình. Nhưng Khả là đại tướng trí dũng tuyệt vời. Y biết rằng đem quân chiếm lại Tây-bình rất khó, sao bằng đem quân đi đường tắt vượt biên đánh vào Lạng-châu, như vậy ta phải rút quân về để tự cứu.
Đến đó ông ngừng lại uống nước, làm chư tướng nóng ruột muốn lên tiếng hỏi: Rồi ra sao? Nhưng quân chế thời Lý rất nghiêm, nên mọi người cố nín nhịn ngồi chờ. Ông hỏi chư tướng:
– Các vị thử đoán xem, tình hình sẽ như thế nào?
Đô-đốc chỉ-huy hạm đội Thần-phù là Trần Hải đáp:
– Từ mấy chục năm nay, ở Bắc-biên dù thời chiến hay thời loạn, lúc nào trên thời cũng có Thần-ưng, dưới đất có Thần-ngao canh phòng; còn quân sĩ, thì cứ ba đội, một đội ứng trực. Chỉ cần ba hồi tù và là có thể lâm chiến. Vì vậy chắc Lưu Khả thất bại.
Phu-nhân đô-thống Trần Di là Phương-Lý lắc đầu:
– Thưa đô-đốc không hẳn như thế. Bởi trong đêm, hai bên cùng có cuộc chuyển quân lớn, Thần-ưng, Thần-ngao khó có thể phân biệt. Mà dù có phân biệt, báo động kịp thời, thì ta cũng không thể ứng chiến được ngay, vì kị kinh phi như bay! Có thể như thế này: Quân Tống tràn vào đánh mấy trang ấp sát biên. Mồi trang ấp đều có lũy tre kiên cố bảo vệ, cổng có hoàng-nam, Thần-ngao canh phòng. Vì vậy Tống phải khó khăn lắm mới chiếm được vài trang ấp. Bấy giờ lực lượng Bắc-biên mới tiếp cứu.
Thường-Kiệt hài lòng:
– Quả đúng như Phương-Lý ước tính. Câu hỏi khác được đặt ra: Nếu các vị là vua bà Thiên-Thành, hay phò-mã Thân, các vị phản ứng ra sao?
Đô-đốc Trần Phúc chỉ huy hạm đội Âu-Cơ, đô-đốc Trần Lâm chỉ huy hạm đội Động-đình cùng đáp:
– Thưa sư huynh, đệ tạm ngừng tiến quân, cho quân của Thân phò mã đánh quặt trở về, quân phòng thủ Bắc-biên cố thủ trong trang ấp. Như vậy chỉ hai ngày quân Lưu Khả hết lương, ắt tan vỡ. Tuy nhiên sẽ có trận đánh quyết tử của Tống với ta, mà số tổn thất của ta cũng không nhỏ.
Ghi chú,
Thường-Kiệt là con Ngô An-Ngữ. Mà Ngô là đệ tử của Trần Tự-An. Còn Trần Phúc là cháu nội Trần Kiệt; Trần Lâm là con Trần Phụ-Quốc. Vì vậy so vai vế Thường-Kiệt thuộc vai sư đệ Trần Lâm, và vai sư huynh Trần Phúc.
Đô-thống Quách Y đáp:
– Giặc cùng chớ đuổi. Nếu trường hợp đó xẩy ra, ắt Thân phò mã sai hai đô-thống Lý Đoan, Trần Ninh đem quân về cứu Lạng-châu. Hai trự Đoan, Ninh sẽ không ngại ngùng gì mà bắt hết vợ con tướng sĩ Tống chở ra mặt trận cho đi trước, rồi đội cung thủ núp sau, để đe dọa: Ai hàng thì tha cho cả bản thân và gia đình. Ai chống thì cứ tiến lên, bắn ra để vợ con chết trước!
Cả năm đô-đốc Lý Kế-Nguyên, Trần Phúc, Trần An, Trần-Hải, Trần-Lâm đều lắc đầu, phì cười:
– Hành sự như vậy thì thành công đấy, nhưng thiếu tinh thần võ-đạo! Giặc nó cười mình rằng hèn, rằng chơi cùi! Thiếu anh hùng tính.
Đô-thống Tạ Duy cãi:
– Trường hợp này mới đúng võ đạo. Đúng đứt đuôi con nòong nọoc đi chứ lị. Các vị có biết không, khi còn sinh thời, sư-phụ dạy: « Trong việc hộ quốc, nếu phải làm bất cứ việc gì, dù dơ bẩn, dù ác độc, cũng làm. Vả phép dụng binh, làm sao đổ máu càng ít, thì dù phải có hành vi bần tiện đến đâu cũng làm ». Vì vậy bọn đệ đã hẹn nhau, khi chơi với Tống, nếu cần thì bóp dế, xài cẩu quyền cũng xài, nếu phải chơi cùi cũng chơi!
Uy tín Khai-Quốc vương cực kỳ lớn trong thời Lý, vì vậy khi nghe Tạ Duy nhắc đến ngài, tự nhiên mọi người ngồi ngay ngắn lại. Thường-Kiệt gật đầu:
– Quả đúng như lời Tạ đô-thống nói. Khi được tin Lưu Khải đem quân tràn vào biên giới ta, Thân phò mã sai hai đô-thống Lý, Trần đem thú-binh, kị-binh, cùng Thần-nỏ trở về tiếp cứu. Còn vua bà Thiên-Thành thì đem hai hiệu binh Hồng-châu, Kinh-Bắc ứng chiến. Trong khi hai bên đối trận, Đô-thống Trần Ninh đem năm mươi xe, trên chở bố mẹ, vợ con các tướng Tống ra, rồi cho đội Thần-nỏ, Thần-tiễn Long-biên đi sau. Tới trước trận, đô-thống gọi các tướng sĩ Tống: « Phía trước, các người tiến lên đánh các trang ấp, thì trang ấp kiên cố, đánh không nổi. Các người lùi trở về, thì Tây-bình, Lộc-châu bị chiếm, vợ con, của cải trong tay chúng ta. Này! Các người nên nhớ quân Đại-Việt là quân nhân nghĩa, nếu các người buông vũ khí đầu hàng, thì không những tính mệnh được tha, mà của cải cùng gia thuộc cũng được an toàn ». Binh tướng Tống kinh hoàng, một vài người buông vũ khí đầu hàng, lập tức bị Lưu Khải chém đầu tại chỗ, rồi hô tiến lên. Đô-thống Lý Đoan chụp ngay hai đứa trẻ còn bế ngửa, trong đám con của binh-sĩ Tống xé tét làm hai mảnh. Tướng sĩ Tống kinh hoàng, đồng buông vũ khí đầu hàng.
Tây-hồ thất kiệt cười khoái trá:
– Bọn Long-biên ngũ hùng chơi mánh này hay thực!
Đô-đốc Lý Kế-Nguyên lắc đầu:
– Xé xác trẻ con vô tội như vậy e tổn thương đến đức hiếu sinh của Thượng-Đế. Muôn ngàn lần không nên.
Tây-hồ thất kiệt lại bưng miệng cười.
– Tôi bàn vậy không đúng sao?
Lý Kế-Nguyên cau mày: Không lẽ đây cũng là võ đạo?
Đô-thống Mai Cầm bật cười:
– Thưa quan Thái-phó! Quan Thái-phó là thầy của Thái-hậu, cũng như thầy của bọn cháu. Bọn cháu đâu đám bảo Thái-phó sai? Nhưng Thái-phó ơi! Người tắm trong đạo của đức thánh Khổng, thì khó mà hiểu được bọn ăn này, móc túi như bọn cháu.
-?!?!?!
– Cháu chắc Lý Đoan đã dùng vải bọc xác con chó, con thỏ gì đó, giả làm trẻ nít, rồi đem xé để hù bọn Tống mà thôi, chứ đâu có xé xác trẻ thơ!
Thường-Kiệt bật cười:
– Lý đô-thống quả đã hành sự như Mai đô-thống ước tính.
Lý Kế-Nguyên là một thứ quân tử đầy đức khiêm-cung, biết mình lý giải sai, ông cung tay hướng Mai Cầm:
– Nguyên này thực không bằng Mai đô-thống.
– Cháu không dám. Đa tạ Thái-phó đã dạy cho cháu một bài học về đức khiêm-cung của người quân tử.
Thường-Kiệt tiếp:
– Nhưng Lưu Khải với đội võ-sĩ trực thuộc không chịu hàng. Chúng xông vào trận định bắt hai đô thống Lý Đoan, Trần Ninh. Chỉ hai chiêu Lưu đánh Lý, Trần phun máu miệng bỏ chạy. Cũng may Thân phò mã vừa tới. Lưu thách Thân phò mã đấu tay đôi. Thân phò mã với Lưu đấu đến hơn trăm chiêu bất phân thắng bại. Vì Lưu đã ở vào tuổi gần bốn mươi, công lực thâm hậu vô song, trong khi Thân phò mã mới vừa tới tuổi hai mươi lăm.
Chư tướng đều suýt xoa về bản lĩnh của Lưu hải, bởi bản lĩnh của phò-mã Thân Cảnh-Long đứng vào hàng số một số hai Đại-Việt.
– Dần dần, Thân phò mã yếu thế. Phò-mã đành đánh một chiêu, rồi nhảy ra ngoài chịu thua. Người giữ lời hứa, thả cho Lưu về Tống. Lưu đắc chí cười nhạt: « Ta tưởng Mục-ngưu thiền chưởng của Nam-man xuất ra từ Thiền-công là vô địch thiên hạ, hóa ra cũng tầm thường thôi ». Y vừa giật cương cho ngựa đi, thì một mã phu Đại-Việt tung cái túi vải to bằng quả dưa vào người y. Cái túi bay rất chậm, nhưng quay rất mau. Y vung tay định đỡ, thì cái túi vỡ tan ra, rồi hai viên sỏi trúng vào huyệt Khúc-trì, hai viên khác trúng vào huyệt Dương-lăng-Tuyền của y, khiến chân tay y cứng đơ; rồi một cái đùi chó trong túi bay ra chui tọt vào miệng y, khiến y ngậm lại không được.
Mọi người cùng bật lên tiếng kêu:
– Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng.
– Đúng thế. Quả là ngài!
Thường-Kiệt tiếp: Thình lình một viên kị mã Tống tung người lên; ông vỗ vào vai Lưu Khải một cái, khiến huyệt đạo của y được giải khai. Y lấy cái đùi chó trong miệng ra rồi chửi:
– Đồ hèn hạ đánh trộm. Nếu Mộc-tồn Vọng-thê có giỏi hãy xuất hiện cùng mỗ đấu vài ngàn hiệp.
Bấy giờ chư quân mới nhìn người giải huyệt cho Lưu Khải, thì ra y là một nhà sư mặc áo cà-sa đại hồng.
Mộc-tồn Vọng-thê hoà thượng từ trong quân Việt tung mình nhảy ra. Binh sĩ Việt đồng chắp tay vái:
– Nam mô Mộc-tồn Vọng-thê bồ-tát.
Hoà-thượng hất hàm hỏi Lưu Khải:
– Nhất sinh ta không chấp bọn hậu bối các ngươi. Ngươi đấu võ với tên bé con Cảnh-Long, ngươi thắng y, y rộng lượng tha cho mi sống; đáng lẽ mi phải lủi ngay mới phải. Đây mi lại nhục mạ võ công Đại-Việt, nên ta mới trừng phạt mi. Vậy ta ra chiêu đây, nếu mi đỡ được của ta ba chưởng, thì ta tha cho mi sống. Đỡ đi, chiêu thứ nhất này.
Nói rồi ngài phát chiêu, đó là chiêu Thiên-vương trấn thiên. Lưu Khả vận đủ mười thành công lực đỡ. Ầm một tiếng, người y bay bổng lên cao. Y rơi xuống đất như trái mít rụng, miệng ứa máu ra. Con ngựa của y thì bị tan làm năm sáu mảnh, máu me, ruột gan bay tứ tung.
Mộc-tồn hoà thượng nói:
– Nếu ta đánh một chưởng nữa, thì người mi sẽ bẹp như con tép bị ngựa dẵm lên. Vậy ta cho mi thở trong mười tức, rồi ta đánh chiêu thứ nhì.
Lưu Khả thở đến tức thứ bẩy thì lảo đảo đứng dậy. Mộc-tồn hoà thượng phát chiêu thứ hai, đó là chiêu Lôi-đả Ân-tặc. Chưởng chưa ra hết mà Lưu Khả đã ngã lăn xuống đất. Bỗng có bóng vàng thấp thoáng, nhà sư giải huyệt cho Lưu Khải nhảy ra vung chưởng đánh cắt vào giữa chưởng của ngài. Ầm một tiếng, nhà sư đó bật tung lại sau ba bước liền. Mộc-Tồn hòa thượng cười nhạt:
– Người chẳng là đại-sư Pháp-Nhẫn, thủ tọa Đạt-ma đường chùa Thiếu-lâm đấy ư? Là cao tăng, mà sao người lại theo quân Tống xâm lăng Đại-Việt? Hãy đỡ chiêu nữa của ta.
Bồ-tát lại đánh tiếp chiêu thứ ba. Đại-sư Pháp-Nhẫn đưa cả hai chưởng ra đỡ. Mọi người thét lên kinh khủng, vì dù với chiêu đó, thì cả ông với Lưu Khả đều tan xương nát thịt ra mà chết. Bỗng có tiếng quát thanh thoát:
– Xin Bồ-tát dung tình!
Rồi hai nhà sư náo nâu tung mình ra cùng đỡ chưởng thứ ba của ngài. Ầm một tiếng, đại sư Pháp-nhẫn với hai nhà sư áo nâu đều lảo đảo muốn ngã. Một nhà sư áo nâu chắp tay hành lễ:
– Đại bồ-tát, tiểu tăng lớn mật dám xin đại bồ-tát tha mạng cho vị đại sư Pháp-Nhẫn. Bởi người là một cao tăng đạo cao đức trọng.
Mộc-tồn hoà-thượng cười nhạt:
– Thì ra hai thánh tăng Minh-Không, Đạo-Hạnh đấy ư? Tại sao người lại cứu bọn Tống?
Nghe đến Minh-Không, Tây-hồ thất kiệt đồng đưa mắt nhìn nhau, vì ngài chính là Minh-Không bồ tát thời Thuận-thiên tái giáng sinh. Trong thời thơ ấu, khi bẩy vị còn ăn xin lang thang ở Thăng-long, ngài đã phát tâm bồ-đề gửi Tín-Nghĩa vương nuôi dạy, rồi được Khai-Quốc vương thu làm đệ tử, cho nên ngày nay mới thành đại tướng.
Minh-Không đại sư chắp tay:
– Bạch bồ tát! Trước đây đại-sư Pháp-Nhẫn không những đã cản trở vua Tống Anh-Tông đem quân đánh Đại-Việt mà thôi, ngài còn khuyên nhà vua không cho đem quân sang đánh tất cả các nước lân bang nữa. Vì Lưu tướng quân là đệ tử của đại sư. Đứng trước cái chết của đệ tử, hỏi ai đang tâm đứng nhìn? Vì vậy đại sư phải ra tay cứu Lưu tướng quân, đó là lẽ thường tình.
Mộc-tồn bồ-tát chắp tay hành lễ với đại-sư Pháp-Nhẫn ba lễ rồi móc trong túi ra năm viên thuốc trao cho ngài:
– Thiên tai! Thiện tai! Mộc-tồn này kiến văn hủ lậu, nên không biết được tâm bồ tát của đại-sư. Mong đại sư hỷ xả ân xá cho.
Rồi ngài bỏ năm viên thuốc vào miệng đại sư Pháp-Nhẫn. Đại-sư Pháp-Nhẫn nuốt thuốc, sau khi vận khí mấy tức, ngài mửa ra một búng máu, rồi đứng dậy chắp tay vái Mộc-tồn bồ tát:
– Đa tạ Bồ-tát ban thuốc.
Mộc-tồn bồ tát hướng phò-mã Thân Cảnh-Long nói:
– Bé con, ta mang Lưu Khải đi nhé!
Rồi ngài chụp Lưu Khải cặp vào nách, cùng đại sư Minh-Không, Đạo-Hạnh, Pháp-Nhẫn tung mình vào rừng mất hút.
Đô-thống Triệu Thu hỏi:
– Trình nguyên-soái, đạo quân đánh Tây-bình, Lộc-châu coi như xong. Thế còn đạo quân đánh Vĩnh-bình, Thái-bình, Hoành-sơn ra sao?
– Vì những thù hận giữa Môn-châu với Vĩnh-bình, nên khi lệnh tấn công ban ra, Trấn-Bắc thượng tướng quân Hoàng Kim-Mãn cùng đô-thống Vũ Quang xua quân đánh tràn sang như nước vỡ bờ. Quân Vĩnh-bình chống cự rất mãnh liệt. Hoàng-nam của Môn-châu chết khá nhiều, mà không lọt được vào ải. May nhờ phu nhân của đô-thống Vũ Quang là Võ Kim-Liên rất can đảm, bà thân cầm đao đi đầu, chỉ huy đội binh thú tấn công: Trên trời Thần-ưng đánh xuống, bên dưới Thần-nỏ bắn yểm trợ, rồi cho Thần-phong nhào xuống đốt; đợi khi quân phòng thủ rối loạn, mới cho Thần-hổ, Thần-báo, Thần-ngao, Thần-tượng xung phong. Bấy giờ quân ta mới lọt vào trong ải.
Ông đưa mắt nhìn chư tướng một lượt rồi tiếp:
– Khi chiếm Vĩnh-bình xong, Đô-thống Vũ Quang kiểm kê tài sản báo cáo về rằng số lương thảo, tiền bạc chất ở đây có thể nuôi mười vạn quân trong một năm. Số vũ khí có thể trang bị cho năm vạn quân. Đây là bằng cớ thừ ba về âm mưu của Tống. Chiến thắng vẻ vang, quân hầu Hoàng Kim-Mãn cùng ba con trai mới nghĩ đến trả thù năm xưa bị Tô Tá xua quân sang hãm hiếp vợ con hầu trước mặt hầu, giết không biết bao nhiêu dân Vĩnh-bình. Mặc dù có sự can thiệp của Đô-thống Vũ Quang, phu-nhân Võ Kim-Loan, nhưng Hoàng quân hầu cũng cứ trả thù.
Ông thở dài lắc đầu:
– Hầu sai đem mẹ, vợ, con của tướng sĩ Vĩnh-bình, Tô Tá ra hành hình. Lối hành hình thực kinh khủng, dã man, tàn bạo chưa từng có: Sai đặt tiệc rượu để những tướng sĩ Môn-châu có vợ con, gia thuộc bị Tô Tá cho hãm hiếp, chém giết trước đây, vừa ăn vừa coi. Còn tướng sĩ của Tô Tá bị trói vào cọc gần đó để thấy bố, mẹ, vợ, con họ bị xẻo từng miếng thịt, hoặc lấy dùi nung trong bếp than, rồi xiên vào thịt. Tội nhân gào khóc thê thảm, mà không chết được. Cuộc hành hình kéo dài suốt một ngày, đám già trẻ khốn nạn đó mới chết. Hôm sau, Hoàng hầu lại đem đám tướng sĩ Môn-châu tẩm mật lên người, rồi để trước các ổ kiến lửa cho kiến bò lên cắn. Tội nhân rên rỉ suốt hai ngày mà chưa chết. Đứng trước vụ này, đô-thống Vũ Quang nảy ra ý mời Mộc-tồn bồ-tát can thiệp. Nhưng không biết ngài ở đâu? May thay, giữa lúc đó, sứ giả của Ưng-sơn song hiệp đem thanh kiếm tới nói với Hoàng hầu phải chọn một trong hai điều: Hoặc là tha tất cả tội nhân, trao cho sứ giả mang về Vạn-thảo sơn trang trị bệnh; tự hậu không được giết hay đánh tù binh, dân chúng Vĩnh-bình; phải ngăn cấm binh sĩ cướp bóc, hãm hiếp dân chúng. Hoặc là dùng thanh kiếm này tự tử ngay. Nếu trong ba ngày không thi hành xong, thì Ưng-sơn sẽ giết cả nhà hầu, đến con chó, con mèo cũng không tha. Hoàng hầu kinh hãi, vội chọn điều thứ nhất.
Lý Thường-Kiệt sai thân binh đem nước trà mời chư tướng uống cho ấm bụng, rồi tiếp:
– Trong bốn cánh quân, thì cánh Quảng-nguyên thiếu may mắn nhất. Thái-tử thiếu bảo, Phiêu-kị đại tướng quân, Quảng-nguyên hầu Lưu Kỷ chia quân làm hai. Chính hầu đem quân Bắc-biên, hoàng-nam đánh Hoành-sơn; đô-thống Phạm Dật, với phu nhân Lê Kim-Liên mang quân đánh Thái-bình. Không may cho ta, tế-tác của Trấn-Nam tướng quân Thái Bằng biết tin trước một ngày, nên y cho một nửa quân đóng ngoài trại, một nửa quân đóng trong trại làm thế ỷ dốc. Khi quân ta đến nơi, hai bên giao tranh cực kỳ ác liệt. Cánh quân của đô-thống Phạm Dật gồm hiệu Thiên-tử binh Ngự-long do chính đô-thống chỉ huy với đội Thần-ngao. Phu nhân Lê Kim-Liên chỉ huy thú binh, Thần-nỏ, đội Thần-tiễn Long-biên xung phong bốn lần đều bị đánh bật ra. Cuối cùng ban đêm phu nhân cho đội Thần-hầu đột nhập ải Thái-bình đốt doanh trại, nhà cửa. Trong lúc quân Tống lo cứu hỏa, quân ta mới đánh vào được. Trấn-Nam tướng quân Thái Bằng đem tàn quân bỏ chạy, An-viễn tướng quân Lâm Mậu-Thăng bị chết tại trận. Có lẽ đây là cuộc giao tranh khốc liệt nhất. Còn Lưu quân hầu đánh Hoành-sơn có phần cơ cực hơn. Sau ba ngày giao tranh bất phân thắng bại, hoàng-nam, quân Bắc-biên chết quá nhiều, Lưu hầu định rút lui. Giữa lúc đó, đô-thống Phạm Dật đem quân tiếp viện. Sau hơn ngày giao chiến cực kỳ khó khăn, quân ta có vẻ thắng thế, thì một tướng Tống đấu với Lưu hầu hơn trăm hiệp. Hầu bị trúng chưởng suýt bỏ mạng. May thay lúc đó, phu-nhân Ngô Cẩm-Thi xuất hiện cứu hầu. Phu nhân đấu với tướng đó đến ba trăm chiêu mới hạ được y. Thì ra y là Yên Đạt. Nguyên y vâng lệnh triều Tống đi kiểm tra lương thảo ở Nam thùy, giữa lúc y ở Hoành-sơn thì xẩy ra cuộc chiến. Sau khi Yên Đạt bỏ chạy, ta chiếm Hoành-sơn. Trần-Nam tướng quân Thái Bằng bị bà Ngô Cẩm-Thi giết chết, quản hạt Ngũ Cử bị Lê Kim-Liên giết, giám-áp trại Quách Vĩnh-Nghiêm bị đô-thống Phạm-Dật giết. Lưu hầu kiểm kê chiến lợi phẩm ở hai trại này mà phát rùng mình: Lương thảo đủ nuôi hai mươi vạn binh trong một năm, vũ khí đủ trang bị cho năm vạn quân. Đây là bằng chứng thứ tư về âm mưu của Tống định đánh ta.
Tín-Nghĩa vương suýt xoa:
– Tổng cộng lương tiền cả vùng Nam-thùy mà ta thu được, tính ra có thể nuôi năm mươi vạn quân trong một năm, vũ khí có thể trang bị cho ba mươi vạn binh. Như thế đủ hiểu rằng Tống đã chuẩn bị xong để đem trăm vạn người đánh ta trong sáu tháng, không cần tiếp tế. Số vũ khí dự trù bắt người mình để thành lập đạo quân ba mươi vạn, rồi đem lên đánh Liêu, đánh Hạ.
Thường-Kiệt để cho chư tướng nghỉ một khắc, rồi tiếp:
– Đạo trên bộ đã xong. Nay ta được tin Lưu-Di sai chuyển tất cả quân ở Khâm-châu, Liêm-châu kéo về chiếm lại Cổ-vạn, Tây-bình, Lộc-châu. Họ đã khởi hành hai ngày rồi. Bây giờ ta thừa cơ đánh úp Khâm, Liêm châu. Các vị được cái danh dự đánh trận này.
Các tướng vỗ tay nhiệt liệt phấn khởi. Thường-Kiệt tiếp:
– Lực lượng chúng ta đây có bốn hạm đội, bẩy hiệu Thiên-tử binh, một đạo kị binh, một lữ Thạch-xa, một lữ Thần-nỏ, thêm đội Giao-long Tây-hồ. Chúng ta có nhiệm vụ đánh chiếm Khâm-châu, Liêm-châu. Đánh Khâm-châu, thì chỉ cần đổ lên bờ biển, là tiến tới nơi. Tuy nhiên che mặt Nam cho Khâm-châu gồm các ải dọc biên giới Như-hồng, Như-tích, Để-trạo, Thiên-long. Ta phải đánh bốn trại này trước. Sau khi chiếm các trại biên phòng, ta tiến về Ung-châu. Trên đường đi, phải đánh Dung-châu, Bạch-châu, Nghi-châu.
Giữa cái không khí trang nghiêm của lịch sử ấy, chư tướng cùng im lặng, đến nỗi những người ngồi bên nhau có thể nghe thấy tiếng tim đập của nhau. Trong khoang có tới hơn trăm người, mà im lặng như trong đêm khuya.
Thường-Kiệt tiếp:
– Ta chia quân làm ba cánh. Cánh thứ nhất đánh vào các ải trực thuộc Khân-châu là Như-hồng, Như-tích, Để-trạo, Thiên-long. Tại vùng này Tống có đạo binh-triều thứ 34, một lữ kị-binh 44, nhưng họ đã tiến về phía Tây để cứu Cổ-vạn rồi, thành ra họ chỉ có bảo-giáp giữ nhà mà thôi. Mỗi ải có khoảng hai nghìn người, được luyện tập cực kỳ tinh nhuệ như binh triều. Thế mà ta phải đánh thực nhanh, bằng không đạo binh cứu viện lại lộn trở về, thì khó thành công.
Ông hướng vào Tín-Nghĩa vương:
– Lực lượng đánh vùng này gồm hạm đội Thần-phù của đô-đốc Trần Hải, bộ binh gồm hai hiệu Thiên-tử binh Vũ-thắng của đô-thống Trần Di, Phương-Lý, Long-dực của đô-thống Dương Minh, Phương-Cúc. Tổng chỉ huy là hoàng-tử Chiêu-Văn.
Tín-Nghĩa vương cùng chư tướng đứng dậy nhận lệnh.
– Cánh thứ hai có nhiệm vụ đánh chiếm căn cứ thủy quân ở cửa biển Khâm-châu. Tống thiết lập căn cứ thủy quân Khâm-châu với mục đích đánh ta, vì vậy họ đã chỉnh đốn, thao luyện hạm đội Nam-thùy, giao cho đô-đốc Dư Tấn chỉ huy từ mấy năm nay. Tấn nguyên xuất thân từ bang Đường-lang, võ công rất cao, lại giỏi thủy chiến. Trước khi xuống Quảng-Đông, y tâu xin vua Tống cho thu dụng hết bọn vong mạng, bọn cướp biển ở vùng Mân-Triết xung quân., Vì thế tuy quân số khoảng một vạn người, nhưng rất thiện chiến. Tấn còn bắt tất cả thợ mộc, thợ rèn ở Quảng-Đông, mở xưởng đóng thuyền. Số thợ tới hơn vạn người nữa, nhưng đám này không luyện tập võ nghệ, binh bị, ta không cần để tâm. Mục đích đánh Tống của ta là bằng mọi giá phải phá cho căn cứ thủy quân này của Tống. Nếu không thì cánh thứ ba tiến đánh Khâm-châu sẽ bị hở lưng. Lực lượng đánh căn cứ thủy quân cần tinh nhuệ, chứ không cần nhiều. Bản soái quyết định để hạm đội Động-đình của đô-đốc Trần Lâm, hiệu Thần-điện, đội Giao-long Tây-hồ của đô-thống Triệu Thu với Phương-Liễu. Tổng-chỉ huy là đại đô-đốc Lý Kế-Nguyên.
Lý Kế-Nguyên cùng chư tướng đứng dậy nhận lệnh.
– Cuối cùng là lực lượng đánh Khâm-châu. Tại Khâm-châu, Tống có đạo binh 31 do giám-áp Văn Lương, Ngô Phúc chỉ huy; một lữ kị 41 hai viên chỉ-huy sứ Tống Đạo, Đinh Toại chỉ huy. Ngoài ra còn có viên tuần-kiểm chỉ huy ba nghìn bảo-binh nữa. Đúng ra đạo binh triều với đạo kị này đã lên đường cứu Cổ-vạn, Tây-bình. Nhưng họ còn chờ quân Liêm-châu xuống thay thế. Nếu như ta đánh úp được khi chúng chưa kịp tập họp quân thì nhất rồi. Còn như trái lại bắt buộc ta phải chấp nhận giao-chiến, e tổn thất không ít. Tướng trấn thủ Khâm-châu là Trần Vĩnh-Thái. Y xuất thân từ phái Hoa-sơn, đỗ tiến sĩ, là đệ tử út của Tây-sơn lão nhân, tức sư đệ của công-chúa Huệ-Nhu, của Triệu Tiết, bản lĩnh y rất cao thâm. Y được Kinh-Nam vương nâng đỡ. Sau thời gian chiến đấu ở mặt trận Tây-hạ, Bắc-liêu, y được phong Đông-hưng hầu, lĩnh ấn Vân-ma đại tướng quân, rồi đề bạt cho làm trấn thủ Khâm-châu. Nhưng phải cái chứng y tự cao, khinh địch. Ngoài ra còn có giám-thuế Âu-dương Dẫn coi về binh lương. Tất cả bọn quan trấn thủ Khâm-châu đều là chân tay Vương An-Thạch sai xuống Nam chuẩn bị đánh ta, nên rất hung hăng.
Ông chỉ lên bản đồ:
– Đây là thành Khâm-châu. Tất cả đạo binh 31, kị-binh 41 đều đóng trong thành. Ta có hai hạm đội, bốn hiệu Thiên-tử binh. Vậy…
Ông chỉ đô-đốc Trần An:
– Hạm đội Bạch-đằng do đô-đốc Trần An chỉ huy chở, hiệu Bổng-thánh của đô-thống Mai Cầm với Phương-Đơn, hiệu Bảo-thắng của đô-thống Quách Y với Phương-Tiên. Sau khi cập bến lập tức hiệu Bổng-thánh đem theo đội Thần-nỏ, đội Thần-hổ, Thần-báo tràn vào cửa Đông, đánh vào trung ương, bắt chiếm dinh tổng-trấn, bắt hết quan lại. Hiệu Bảo-thắng của đô-thống Quách Y với Phương-Tiên đánh chiếm trại kị-binh. Hạm đội Âu-Cơ của đô-đốc Trần Phúc chở hiệu Hùng-lược của đô-thống Ngô Ức với Phương-Dược; hiệu Vạn-tiệp của đô-thống Tạ Duy với Phương-Quế. Sau khi cập bến, hiệu Hùng-lược đánh chiếm hai cửa Nam, Tây; hiệu Vạn-tiệp đánh chiếm cửa Bắc, Đông.
Ông chỉ vào vùng Liêm-châu:
– Sau khi hạ xong Khâm-châu, ta đánh Liêm-châu, rồi tiến về Dung, Bạch, Nghi.
Ông đứng dậy ban lệnh rất chậm:
– Tất cả các đạo quân phải di chuyển đến mục tiêu, để đúng giờ Tý ngày Bính-Tý, tức 20 tháng 11 là tấn công đồng loạt.
Ông quay lại hỏi Động-đình thất kiệt:
– Trước đây chư huynh đều là những cao-thủ võ lâm, hành hiệp ở vùng Lưỡng-Quảng nức tiếng Thiên-hạ. Chẳng may vì lòng yêu nước, mà bị bọn hủ nho Vương An-Thạch đưa vào chỗ chết. Rất may giữa các vị với anh em võ-lâm Đại-Việt thông cảm với nhau. Các vị đã kết huynh đệ với Long-biên ngũ hùng thì cũng như sư huynh sư đệ với Kiệt này. Nay trong cuộc ra quân tự vệ của Đại-Việt, Kiệt dám cả gan nhờ chư vị huynh đệ một việc.
Động-đình nhất kiệt Từ Bá-Tường đứng dậy:
– Anh em chúng tôi là kẻ sĩ đất Kinh-Sở, gặp đường cùng, được đức Thánh-tông ban cho khỏi chết, lại cứu gia quyến sang Đại-Việt. Nhưng chúng tôi cũng được tin từ quê nhà cho biết: Bọn hủ nho Tống ra sức trả thù chúng tôi: họ hàng, hạn hữu, sư huynh sư đệ đồng môn kẻ thì bị giết, người thì bị bắt, gia sản bị tịch thu. Cho nên nay họ phiêu bạt khắp nơi. Còn phía Đại-Việt từ triều đình, đến võ-lâm Đại-Việt đối xử với chúng tôi như tình ruột thịt, đãi chúng tôi như thượng tân. Nghĩ rằng: Phàm kẻ sĩ trong thiên hạ, phải ân oán cho phân minh. Mấy năm qua, anh em chúng tôi muốn đem tài hèn, sức mọn ra đền đáp Đại-Việt để đáp ơn tri ngộ, đó là báo ân; lại cũng hướng mắt về quê, lòng ngút lửa hận, nghiến răng thề có ngày về giết hết bọn kiến ruồi, đó là trả oán. Nay dịp đã đến, vậy Nguyên-soái cần sai bảo gì, xin cứ ban lệnh.
– Các vị sống ở vùng Nam Ngũ-lĩnh, các vị đã biết rồi đó: Tống triều coi dân Nam Ngũ-lĩnh (ghi chú Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quý-châu ngày nay) là thứ man di. Những quan lại, võ tướng được cử xuống, đa số là những kẻ bị đầy, thành ra chúng tha hồ vơ vét, tha hồ tàn ác, mà Tống triều cũng nhắm mắt làm ngơ. Chỉ dụ của thái-hậu là tuyệt đối không được giết tù hàng binh. Nhưng các vị có thể dùng luật võ lâm « Thế thiên hành đạo», điều tra để biết bọn nào là bọn tham quan, bọn nào là bọn ác bá, bọn nào là bọn đầu trộm đuôi cướp… rồi đem xử theo luật võ lâm. Như vậy khiến cho uy danh, đức độ các vị càng thêm lớn, mà dân chúng cũng được tắm ơn mưa móc trong võ đạo của các vị.
Từ Bá-Tường cung tay:
– Xin tuân lệnh nguyên soái.
Hôm ấy là ngày Đinh-Sửu 19 tháng 11 năm Ất-Mão, niên hiệu Thái-Ninh thứ tư đời vua Lý Nhân-tông bên Đại-Việt, nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ 8 đời vua Thần-tông nhà Tống.
Hạm đội Động-đình rời bến Đồn-sơn tiến lên phía Bắc, các chiến thuyền dàn theo hình con thoi. Đi đầu làm mũi nhọn là một chiến hạm lớn. Chiến hạm kéo theo hai mươi chiến thuyền nhỏ, hóa trang thành những thuyền đánh cá của Tống. Kế tiếp là hàng thứ nhất, thứ nhì mỗi hàng có ba chiến hạm trung, dàn ngang. Hàng thứ ba, thứ tư, mỗi hàng là năm chiến hạm lớn. Đến hàng thứ năm, thứ sáu lại thu vào ba chiến hạm trung. Cuối cùng là chiến hạm lớn, dùng làm soái hạm. Trên chiến hạm đi đầu, đại-đô đốc Lý Kế-Nguyên, đô-đốc Trần Lâm, đô-thống Triệu Thu họp năm trăm dùng sĩ Giao-long Tây-hồ, dặn dò chi tiết. Đại đô-đốc Lý Kế-Nguyên nhắc lại:
– Đoàn của chúng ta phải tới ngoài khơi Khâm-châu vào giờ Tý. Tất cả dũng-sĩ Giao-long do đô-thống Triệu Thu chỉ huy, sẽ xuống hai mươi chiến thuyền nhỏ, hóa trang thành ngư dân, rồi chèo vào cửa biển Khâm-châu. Sao cho đến giờ Sửu thì ép sát vào các chiến hạm Tống, rồi chuồn xuống nước để đục thuyền. Trong khi đó thì ta đổ hiệu Thiên-tử binh Thần-điện do phu-nhân Phương-Liễu chỉ-huy đánh vào xưởng đóng chiến thuyền.
Đô-thống Triệu Thu nói dõng dạc:
– Tôi nhắc lại phép đục thuyền của chúng ta gồm bốn bước là: Bước một định rõ khu đục. Bước thứ nhì dùng đinh sắt có móc câu xuyên thủng đáy thuyền. Bước thứ ba dùng dao sắc vận sức đục nhớm, sao cho lưỡi dao gần xuyên thủng ván thuyền thì dừng lại. Bước thứ tư dùng xích sắt buộc vào móc câu. Bước thứ năm là buộc các xích sắt với nhau. Như vậy khi các chiến thuyền di chuyển, thì sợi xích sắt giật tung miếng ván đục nhớm ra, đáy thuyền sẽ thủng một miếng lớn. Thủy quân Tống sẽ thành tôm cá hết. Sau khi thi hành xong thủ đoạn, lại âm thầm lên thuyền chèo ra khơi.
Đô-đốc Lý Kế-Nguyên tiếp:
– Sau khi đội Giao-long ra khơi, lập tức bắn hỏa hiệu lên, bấy giờ phu-nhân Phương-Liễu mới cho hiệu Thần-điện mới tấn công xưởng đóng chiến thuyền. Còn hạm đội Động-đình dàn ra trấn cửa biển Khâm-châu, để bảo vệ hậu quân cho hạm đội Âu-Cơ, Bạch-đằng đổ quân.
Phương-Liễu thân đến từng chiến thuyền dặn dò các sư, lữ trưởng chi tiết cuộc đổ bộ, rồi nhấn mạnh:
– Hai mươi chiến thuyền lớn, mỗi chiếc chở một lữ, sẽ âm thầm đổ vào bãi biển Đông-tân, nơi đây nước sâu chiến thuyền có thể đậu sát bờ mà không cần phải bắc cầu, hay lội nước. Khi lên bờ, chúng ta vẫn phải giữ tuyệt đối im lặng, rồi tiến dần đến xưởng đóng chiến thuyền chờ sẵn. Đợi khi có tín hiệu của đội Giao-long báo việc đục thuyền đã thành công, mới được đốt đuốc lên tấn công đồng loạt.
Trong khi đó, phía sau hạm đội Động-đình khoảng trăm dặm, hai hạm đội Âu-Cơ, Bạch-đằng âm thầm di chuyển dưới ánh trăng mờ. Binh-sĩ trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng. Khi đoàn chiến thuyền bắt đầu đổi hướng quẹo về Tây, thì người người đều biết rằng các hạm đội đang tiến vào vịnh Khâm-châu.
Trên hai hạm đội, các đô-thống Mai Cầm, Quách Y, Ngô Ức, Tạ Duy cùng các phu nhân Phương-Đơn, Phương-Tiên, Phương-Dược, Phương-Quế đều đứng trên nóc soái hạm quan sát địa thế, tìm bãi đổ bộ. Bởi nguyên soái Thường-Kiệt đã khẩn khoản dặn rằng: « Cuộc đổ bộ này hoàn toàn đặt trên căn bản xuất kỳ bất ý. Nếu như vì lý do nào đó, địch biết trước, chỉ cần vài nghìn cung thủ phục sẵn, thì toàn bộ cánh quân các vị bị diệt. Cánh quân các vị bị diệt, sẽ kéo theo cánh của Tín-Nghĩa vương tan vỡ. Sau đó, Tống kéo đại quân qua, thì cái vạ mất nước e khó tránh ».
Bờ biển thành Khâm-châu đã hiện ra xa xa, Mai-Cầm dặn Phương-Đơn chi tiết những việc phải phối hợp giữa Thần-ngao, Thần-hổ, Thần-báo và bộ binh. Đến đó thì các chiến thuyền cùng lúc cập bến. Cửa thuyền mở thực nhanh, cầu thang bắc lên liền. Phương-Đơn vẫy tay, Ngao-binh mở cũi, đoàn Thần-ngao phóng lên bờ, rồi tỏa ra bốn phía trinh-sát. Người người nín thở chờ đợi. Chưa đầy một khắc, đoàn Thần-ngao đều trở về vẫy đuôi. Như vậy là không có phục binh. Phương-Được phất tay, các xe chở Thần-nỏ đẩy lên bờ, rồi dàn ra tức khắc, trong khi Thần-báo, Thần-hổ chạy song song yểm trợ, đề phòng. Bấy giờ Mai-Cầm mới cho Thiên-tử binh đổ bộ. Cuộc đổ bộ vừa xong, chàng nhìn sang bên trái, thấy hiệu Hùng-lược của Ngô Ức, Phương-Dược cũng vừa đổ xong. Chàng nhìn bên phải; Tạ Duy,Phương-Quế đang cho đổ bộ hiệu Vạn-tiệp.
Vẫn không một tiếng động.
Trống ngực Phương-Đơn đập liên hồi… hồi hộp lo sợ. Nàng tiến đến sát chân thành Khâm-châu quan sát. Vì trước đây Động-đình thất kiệt đã cho người về tìm lại một số bạn hữu, huynh đệ đồng môn dặn họ sẵn sàng chờ quân Việt qua để trả thù. Hôm rồi họ đã sai chim ưng liên lạc với đám này. Họ hẹn đêm nay, khi quân Việt tới, họ sẽ giết quân canh, mở cổng thành cho vào.
Phương-Dược bóp miệng giả làm tiếng cú rúc liền một hồi, lập tức cửa thành bật tung ra. Có tiếng hô mật hiệu. Phương-Dược đáp lại, rồi vọt ngựa vào trước:
– Có gì lạ không?
Một đội võ sĩ hơn ba mươi người đón nàng ở trong, người trưởng toán vẫy tay:
– Tốt đẹp cả, vào đi.
Phương-Dược đánh lửa châm vào chiếc pháo thăng thiên rồi tung lên trời. Chiếc pháo nổ đánh đùng một cái, tỏa ra hình con chim ưng đang bay. Lập tức cửa Bắc, Nam cùng mở tung. Hai hiệu Hùng-lược, Vạn-tiệp đồng đốt đuốc reo hò tiến vào trung ương thành. Như nguyên soái Thường-Kiệt đã ra lệnh trước. Tạ Duy, Phương-Dược đánh cửa Bắc, Nam, chiếm các kho lương thực, vũ khí. Ngô Ức, Phương-Dược đánh chiếm các cơ sở trong thành. Còn Mai Cầm, Phương-Đơn đánh chiếm dinh tổng-trấn, rồi đem quân vượt cửa Bằc trấn ở chân núi Tiểu-đã.
Khi Phương-Đơn xua Thần-hổ, Thần-báo, Thần-ngao cùng một đội võ sĩ tiến đến vây dinh tổng-trấn, thì cũng đúng lúc Ngô Ức, Phương-Dược, Ta Duy, Phương-Quế đem đội Thần-ngao tới. Phương-Đơn cho thú binh, võ sĩ vây kín dinh, đuốc đốt sáng như ban ngày.
Trong dinh, đèn nến sáng chưng, tiếng nhã nhạc, cùng tiếng ca-nhi vọng ra véo von. Sáu tướng nhìn nhau ngơ ngác. Phương-Quế hỏi:
– Cái gì vậy? Không lẽ giờ này mà bọn tướng soái Tống không biết rằng tính mạng sắp lâm nguy rồi hay sao? Không lẽ chúng bầy kế nghi binh?
Chưa ai kịp trả lời, thì từ phía Đông-Nam lửa bốc lên ngút trời, tiếng quân reo dậy đất. Mai Cầm lớn:
– Hiệu Thần-điện của Triệu Thu đang đánh xưởng đóng tầu. Ta mau giải quyết chuyện ở đây, rồi tiếp viện cho họ. Sáu chúng ta với mấy đội thú binh, thì dù có nguy kế gì ta há sợ sao?
Đến đó có một thị nữ cầm đèn lồng ra, thị cúi đầu lễ phép nói bằng tiếng Việt:
– Hôm nay là ngày sinh nhật của Vân-ma đại tướng quân, Đông-hưng hầu Trần đại nhân. Cho nên đại nhân mời chư vị quan chức trong thành Khâm-châu tới dự tiệc. Đáng lẽ tiệc bắt đầu vào giờ Hợi, tàn vào giờ Tý. Nhưng vì biết có đại giá ba vị đô-thống, ba vị phu-nhân tới, nên Trần đại nhân cho hoãn lại vài giờ để chờ quý khách. Xin mời!!!
Bọn Mai Cầm còn đang trù trừ, thì có tiếng nói vọng từ trong ra, rất quen thuộc:
– Tây-hồ tam kiệt trong tay có đến ba hiệu Thiên-tử binh, mấy đàn thú, hàng trăm nỏ-thần, thế mà được mời dự tiệc lại sợ. Thôi! Trở về Thăng-long đổi tên là Tây-hồ thất cầy sấy đi cho rồi.
Sáu người không đừng được, đành theo ả thị nữ tiến vào trong dinh, tay để vào đốc kiếm. Bước vào đại sảnh, đưa mắt nhìn, sáu người thấy có ít nhất gần trăm thực khách vừa văn, vừa võ, vừa nam vừa nữ chia nhau ngồi cạnh các bàn tiệc đầy sơn hào hải vị. Một đội ca-nhi đang múa hát. Thấy khách vào, nhã-nhạc, ca-nhi ngừng lại.
Quan sát một lượt, cả bọn thấy chỗ bàn chủ vị có có bốn người, đó là Côi-sơn công chúa Trần Thanh-Nguyên, Đinh Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh, Hà Mai-Việt. Cạnh đó còn có cả Thần-vũ thập anh.
Cả sáu người vội cung tay hành lễ:
– Sư thúc, nguyên soái Thương-Kiệt cho biết sư thúc tổng chỉ huy đánh Cổ-vạn… thế mà… thế mà… sao sư thúc lại hiện diện ở đây?
Công-chúa Côi-sơn là con út của đại-hiệp Trần Tự-An, thụ hưởng giòng máu ngang tàng của cha, lại ảnh hưởng của các anh là Thông-Mai, Tự-Mai về cái tật coi trời bằng vung; nhưng được bản sư là Tịnh-Huyền, một thần-ni đắc đạo giáo huấn, nên công chúa chỉ ngang với người trên, mà rất ôn nhu với thuộc hạ, với con cháu. Công chúa mỉm cười:
– Các cháu vượt biển suốt đêm qua, vừa đói, vừa mệt rồi. Hãy ngồi xuống uống hớp rượu, ăn tiệc đã.
Bà đứng lên nắm tay Phương-Đơn, Phương-Dược, Phương-Quế cho ngồi bên cạnh, rồi nhỏ nhẹ nói với các sư điệt:
– Để sư thúc dạy khôn cho! Các con có thấy một sự lạ là, một cái châu Cổ-vạn với những tướng sĩ Tống toàn hạng giá áo túi cơm, thì sư-thúc Tôn Đản, Cẩm-Thi, nguyên-soái Thường-Kiệt chỉ cần sai vợ chồng Đinh Hoàng-Nghi đánh là được rồi, việc gì phải cử ta với Tôn phò mã đảm trách. Có phải thế không?
– Bọn cháu cũng hơi ngạc nhiên, nhất là để Vũ-kị đại tướng quân Hà cùng Thần-vũ thập anh theo trong đạo này nữa, thực quá dư thừa!
– Đúng thế!
Bà chỉ Phương-Quỳnh:
– Con thuật cho các bạn nghe đi.
– Tuân chỉ sư thúc.
Phương-Quỳnh thuật:
– Sau khi đánh Cổ-vạn, sư-thúc dùng Thần-vũ thập anh tập trung tù binh Tống gồm bảo-binh, cùng binh Quảng tổ chức thành đội ngũ, lập ra hiệu binh Cổ-vạn dùng để tiến đánh các đồn nhỏ xung quanh. Khi tế-tác báo cho biết Lưu Di sai điều đạo quân thứ 34, lữ-kị thứ 44 ở Khâm-châu về cứu Cổ-vạn, Tây-bình, Lộc-châu; sư thúc sai chim ưng báo tin cho Tín-nghĩa vương tiến đánh Như-hồng, Như-tích, Để-trạo, Thiên-long. Còn đích thân người cùng Vũ-kị đại tướng quân, Thần-vũ thập anh, anh Hoàng-Nghi với em đem kị binh Đại-Việt, hiệu binh Cổ-vạn, Thần-nỏ phục ở chân núi Thập-vạn đại-sơn đánh viện binh. Đạo binh thứ 34 của Tống do hai viên giám-áp Văn Lương, Ngô Phu chỉ huy. Lữ kị binh do hai viên chỉ-huy sứ Tống Đạo, Đinh Toại chỉ huy. Đây là hai đạo binh từng dự trận ở Tây-hạ, nên rất thiện chiến. Tuy bị trúng phục binh, thế mà chúng chiến đấu rất hăng. Trận chiến kéo dài suốt nửa ngày, đạo binh Cổ-vạn hao hụt mất một phần ba mà chúng vẫn không bỏ chạy. Vì đường núi gập ghềnh, nên Thần-nỏ, kị-binh, đội binh thú không tiến lên được. Sau Thần-vũ thập anh phải điều đội Thần-nỏ, Thần-hổ, Thần-báo vượt thung lũng phía sau, đánh vào hậu quân chúng. Bấy giờ chúng mới bỏ chạy.
Nàng ngừng lại, hớp một hớp nước rồi tiếp:
– Chúng chạy về tới Thiên-long, thì bị quân của Tín-nghĩa vương chặn đánh. Chúng đành đầu hàng. Anh Hoàng-Nghi đề nghị với sư thúc, mình nên dùng cờ xí, binh phục Tống, để đánh úp Khâm-châu. Sư thúc đồng ý, nhưng các tướng Tống nhất định không chịu dẫn quân Việt đánh quân họ. Sư thúc sai Thần-vũ thập anh cho binh sĩ giả làm binh tướng Thiên-long bại trận, kéo về Khâm-châu. Khi quân ta sắp đến Khâm-châu, có một số võ lâm Tống phát hiện được, họ báo cho tướng trấn thủ Trần Vĩnh-Thái biết. Nhưng giữa lúc ấy, y đang cùng bạn hữu, văn võ bá quan dự tiệc sinh nhật bà vợ thứ mười. Y không tin, sai võ sĩ đuổi mấy võ lâm Tống ra. Đội quân đầu của ta là kị binh do Hà đại tướng quân chỉ huy, mang cờ Tống, y phục Tống, phi như bay. Còn Thú-binh, Thần-nỏ đi sau. Ta ập vào thành, giữa lúc Trần Vĩnh-Thái cùng các quan đang chuẩn bị nhập tiệc. Chúng ta bắt trọn ổ các quan trong thành Khâm-châu. Vừa lúc đó các anh chị từ biển đánh vào cửa Nam, Bắc, Đông. Sư thúc dùng tiệc của Vĩnh-Thái làm tiệc khao quân… và chờ các anh, các chị tới.
Ghi chú,
Tống-sử, Lĩnh-ngoại đai đáp, thuật rằng: Trước khi quân Đại-Việt tới, đã có kẻ hở cho người Tống biết rằng quân Việt sắp đánh úp Khâm-châu. Dân Khâm mách với Trần Vĩnh-Thái; nhưng y không tin. Khi chiến thuyền Việt ập vào bến, lại có người báo quân Việt đổ bộ, y vẫn không tin, còn bầy tiệc rượu uống. Quân Việt vào thành bắt được Vĩnh-Thái, cùng tất cả bộ hạ đem giết. Sau khi chến tranh Lý-Tống hết, Tống triều cho lập đền, tô tượng Vĩnh-Thái để thờ, phong là Chuyển-trí đại-vương. Vì Trần Vĩnh-Thái đần quá, nên sau này muốn chê ai đần độn thì gọi người đó là Trần Thừa-chỉ. Bởi thừa-chỉ là hàm của Vĩnh-Thái.
Tôi thấy thuyết này vô lý. Bởi bấy giờ Tống triều đang cho tuyển binh, luyện binh, đóng chiến thuyền chuẩn bị đánh ta; Vĩnh-Thái là biên cương trọng thần, thì y với bộ hạ phải có màng lưới tình báo rất bén nhậy, và đặt binh tướng trong tình trạng báo động, chứ có đâu để hoang như vậy? Hơn nữa, khi đạo quân Tôn Đản đánh sang biên giới, chính Lưu Di ra lệnh cho y chuyển quân về Tây cứu viện, thì ít ra y cũng phải cảnhgiác đề phòng chứ? Quách-thị Nam-chinh và Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký lại chép rằng: « Quân Đại-Việt vượt biển trong đêm, thình lình đổ lên đánh xưởng đóng chiến thuyền, đốt phá hạm đội, cùng trèo tường nhập thành Khâm, giữa lúc Trần Vĩnh-Thái đang làm lễ sinh nhật cô vợ thứ mười ».
Trong Tống-triều công thần bi ký phần văn bia Chuyển chí đại vương ghi rằng: « Tướng Đại-Việt là hoàng-tử Chiêu-Văn thăng cho Văn Lương, Ngô Phúc làm thiên tướng; Tưởng Cẩn, Tống Đạo làm thần tướng; Đinh Toại làm vũ-tướng. Còn Vĩnh-Thái được giữ nguyên chức Vân-ma đại tướng quân, Đông-hưng hầu; lại tập hợp tù hàng binh lập ba hiệu binh mới trao cho Từ Bá-Tường chỉ huy. Tường truyền Vĩnh-Thái cùng bộ hạ đánh Liêm-châu. Vĩnh-Thái không tuân, nên bị xử lăng trì cùng Âu-dương Dẫn. Chiêu-Văn sai Từ Bá-Tường dem quân đánh Liêm, Dung, Nghi, Bạch châu ».
Ở đây tôi thuật theo Quách-thị Nam chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký và Tống triều công thần bi ký.
Mọi người nhập tiệc.
Tiệc được một tuần, thì thân binh báo:
– Nguyên soái Đại-tư-mã xin yết kiến công chúa điện hạ.
Tuy Thường-Kiệt là vai sư điệt của công-chúa Côi-sơn, nhưng ông là chúa tướng, nên công chúa vội cùng chư tướng ra đón. Đi theo Thường-Kiệt còn có cả đô-đốc Lý Kế-Nguyên, bốn đô đốc chỉ huy bốn hạm đội, cùng Triệu Thu, Phương-Liễu.
Thường-Kiệt cung tay:
– Cháu được Thấn-ưng của sư thúc Tôn Đản, Cẩm-Thi báo tin đại giá tiểu sư thúc đánh sang Đông, cháu cứ nghĩ ít ra phải năm bẩy ngày nữa sư thúc mới đánh tới. Nào ngờ!
Có tiếng nói đâu đó vọng lại:
– Anh Kiệt! Anh không nhớ thân mẫu thường nói sao! Người cho rằng trong nhà mình, thì dùng người tài nhất là bố, dùng binh vô địch thiên hạ là cậu Tự-Mai. Mấy tháng gần đây cậu Tự-Mai ở cạnh dì Út, thì dì Út không học được hết bản lĩnh dùng binh của cậu, thì cũng học được phân nửa. Đâu có gì lạ?
Tiếng nói vừa dứt thì Tín-Nghĩa vương cùng bọn Trần Di, Dương Minh, Phương-Lý, Phương-Cúc tới.
Lễ nghi tất, mọi người nhập tiệc.
Nguyên-soái Thường-Kiệt ngồi vào chủ vị, bên trái là công-chúa Côi-sơn, bên phải là Tín-Nghĩa vương. Kế tiếp là Động-đình thất kiệt, chư tướng. Ông hỏi Tín-Nghĩa vương:
– Hiền đệ! Việc hiền đệ đánh các ảo Như-hồng, Như-tích, Để-trạo, cùng Thiên-long ra sao?
– Cánh quân của đệ không gặp may như các cánh Cổ-vạn, Tây-bình, Thái-bình, Hoành-sơn. Khi hạm đội Thần-phù của đô-đốc Trần Hải đổ hai hiệu Vũ-thắng của Trần Di, Phương-Lý, hiệu Long-đực của Dương Minh, Phương-Cúc lên Tiên-yên, thì tế tác giặc đã biết. Đệ cho Trần Di, Phương-Lý đánh ải Thiên-long; Dương Minh, Phương-Cúc đánh Như-tích, Để-trạo; đô-đốc Trần Hải dùng thủy-binh đánh Như-hồng. Như-hồng bị hạ trong ba giờ, chúa trại đấu với đô-đốc Trần Hải được năm mươi hợp thì bị giết chết. Thiên-long có tới năm nghìn Bảo-binh rất thiện chiến. Trần Di, Phương-Lý đánh suốt một ngày, Thần-tượng bị thiệt ba thớt voi, Thần-hổ, Thần-báo chết mất mươi con. Tin này đưa đến, đệ phải thân tới đốc chiến. Đệ truyền cho đội Thần-tiễn dùng tên lửa bắn vào trong, phút chốc khắp ải biến thành biển lửa. Giữa lúc đó ta mới tràn vào được. Thành ra khi chiếm xong ải, Thiên-long chỉ còn là một đống tro tàn. May mắn là kho lương thảo để ở giữa ải, tên bắn không tới, nên còn nguyên.
… Giữa lúc đó, thì Thần-ưng đưa tin cho biết Phương-Cúc đánh trại Như-tích, tuy giết được chúa tướng là Ngũ Hoàn, nhưng cũng bị thương nặng. Trần Di đánh trại Để-trạo suốt hai ngày không vào được, Phương-Cúc phải đem quân tiếp viện. Hai người chia quân ra làm hai đạo, cứ một đạo đánh, một đạo nghỉ, vì vậy hôm sau tướng trần thủ là Trương Thủ bị trúng tên chết. Quân trong ải mệt quá, mở cửa xin hàng.
Vương kết luận:
– Lương-thực chứa ở bốn trại này không nhiều, vì Tống cất ở Khâm-châu, Liêm-châu, rồi dùng thủy quân chở sang bên ta.
Thường-Kiệt hỏi Lý Kế-Nguyên:
– Đại-đô đốc! Việc đánh xưởng đóng chiến thuyền, cùng hạm đội Khâm-châu ra sao?
Lý Kế-Nguyên cung tay:
– Trình nguyên-soái, đô-thống Triệu Thu chỉ huy đội Giao-long Tây-hồ hoàn thành nhiệm vụ trót lọt. Sau khi đô-thống làm xong, bơi thuyền ra khơi, thì hiệu Thần-điện do Triệu phu nhân là Phương-Liễu tấn công xưởng đóng chiến thuyền. Khi quân ta lọt vào trong phóng hỏa khắp nơi, thì thủy quân, cùng thợ đóng thuyền mới tỉnh giấc. Họ phóng mình vào trại với chân tay không, nên bị giết quá nửa. Còn lại chúng bỏ chạy lẫn vào với dân chúng.
Triệu Thu lắc đầu nói với Tây-hồ thất kiệt:
– Cũng may thái-hậu quyết định ra quân trước, bằng không để Tống đánh sang, thì mình đến mất nước. Thực kinh khiếp, xường đóng chiến thuyền đã hoàn thành được hai trăm chiến thuyền lớn loại chở năm trăm quân, ba trăm chiến thuyền nhỏ, loại chở hai trăm quân. Chỉ trong vòng nửa năm nữa hạm đội của họ có thể chở một lúc mười lăm vạn quân đánh mình!!! Còn lương thảo, vũ khí chất cao như núi trong hơn ba mươi dẫy nhà. Tính ra có thể nuôi mười vạn binh trong một năm.
Thường-Kiệt hỏi công-chúa Côi-sơn:
– Sư-thúc! Sư thúc đã kiểm kê lương thảo trong thành Khâm-châu chưa?
– Không cần! Kiểm làm gì?
Bà giảng giải: Ta bắt được Âu-dương Dẫn, khiền cho y một trận, thì lập tức y đem sổ sách về tình hình lương thảo, tiền bạc của Khâm-châu cùng các trại Như-hồng, Như-tích, Để-trạo, Thiên-long ra nộp.
Nói rồi bà đưa mắt cho Âu Huyền:
– Con đem sổ ra trình nguyên-soái!.
Thường-Kiệt tiếp cuốn sổ ghi lương thảo, vũ khí mà rùng mình. Ông lắc đầu nghĩ thầm:
– Tên Vương An-Thạch thực siêu phàm. Y mới áp dụng Tân-pháp có tám năm mà quốc-sản, kho đụn Tống đã súc tích như thế này. May mà ta ra tay trước!
Thường-Kiệt ban lệnh:
– Tất cả tù binh, cao nhất là Trần Vĩnh-Thái, thấp nhất là phu đóng chiến thuyền, nhất nhất được nuôi dưỡng đầy đủ, không được đánh, không được giết, cũng chẳng nên làm nhục người ta. Sau khi thanh lọc, kiểm kê, trao cho Động-đình thất kiệt, để tùy theo tội chúng nặng nhẹ mà xử, để làm mát lòng dân.
Trưa ngày Mậu-Dần 20 tháng 11 năm Ất-Mão (DL. 30-12-1075)
Động-đình thất kiệt cho người mang loa đi khắp nơi chiêu dụ những binh tướng ẩn trốn ra trình diện, sẽ được ân xá. Bẩy người họp suốt hai ngày với võ-lâm, với sư huynh sư đệ cũ, với gia đình họ hàng, rồi quyết định đem bọn quan lại Tống, bọn đầu trộm đuôi cướp ra xử. Nguyên tắc của Thất-kiệt là quan lại ở đâu, bọn ác bá ở đâu, thì đem về đó họp dân chúng, để ai có ơn thì ra làm chứng, hầu giảm án hoặc tha tội; kẻ làm ác thì bị hành hình.
Trước đây Trần Vĩnh-Thái, ỷ được Vương An-Thạch tín cẩn, nên y lộng hành quá đáng trong vịệc bắt dân chài, dân buôn cùng thợ thuyền xung quân, khiến gia đình họ đói khổ. Y lại ra sức truy lùng họ hàng, thân thích Thất-kiệt. Thất-kiệt quyết định đem y ra xử lăng trì (xẻo từng miếng thịt). Viên giám-thuế Âu-dương Dẫn tham ô quá độ, bị dân chúng giết cả nhà, còn chính y bị mổ bụng lấy gan ăn sống cho hả giận. Ngược lại bọn Văn Lương, Ngô Phúc, Tưởng Cẩn, Tống Đạo, Đinh Toại chỉ là những tướng chỉ huy quân, bị đầy xuống Lưỡng-Quảng, mà lại liêm khiết, nên được ân xá.
Trong khi Động-đình thất kiệt xử tội bọn tham quan, bọn ác bá thì nguyên-soái Thường-Kiệt họp chư tướng ở trong soái phủ thành Khâm-châu. Tướng-sĩ hiện diện đầy đủ. Nguyên-soái nói mấy lời ngợi khen tướng-sĩ đã lập được kỳ tích trong thời gian qua.
Ông xoa tay vào nhau:
– Ba vị đại hiệp Phụ-Quốc, Bảo-Dân, Trung-Đạo cunmg cấp tin tức cho ta thực ích lợi vô cùng tận. Ta đánh Cổ-vạn ngày 15 tháng chín, mà mãi đền ngày 11 tháng 11 (DL.21-12-1075) Tống triều mới hay Cổ-vạn thất thủ. Tiếp theo ta đánh Thái-bình, Hoành-sơn, Vĩnh-bình, Tây-bình ngày 2 tháng mười, Lưu Di có gửi lệnh cho quân Khâm-châu tiếp viện từ ngày 15 tháng 11, nhưng cho đến hôm nay là ngày 20 tháng 11, tức 45 ngày sau mà Lưu Di cũng chưa biết các ải kia thất thủ. Thì hỏi sao Tống triều biết được? Lợi dụng tình hình đó, ta tiến về Ung-châu trước khi Tống triều ra tay.
Ông đứng nói với chư tướng:
– Đạo quân bộ của Tôn sư thúc giờ này đang lên đường tiến về Ung-châu theo trục Nam-Bắc. Bây giờ ta cũng tiến về Ung-châu theo đường Đông-Tây. Đạo quân Tôn sư thúc tiến lên, trong khi phía sau có vua bà Thiên-Thành trấn thủ Bắc-cương Đại-Việt; phò-mã Thân Cảnh-Long cùng các tướng Lưu Kỷ, Hoàng Kim-Mãn, Vi Thủ-An với các hiệu binh Bắc-biến trấn ở Thái-bình, Hoành-sơn, Vĩnh-bình, Tây-bình, Cổ-vạn. Nay ta tiến quân, cũng cần phải có tướng trí dũng song toàn trấn Khâm-châu, cùng cửa biển Nam-hải. Việc trấn thủ này cực kỳ quan trọng. Bởi khi được tin ta tiến về Ngũ-lĩnh, ắt Tống thừa hư trong nước không có trọng binh, họ sẽ đem thủy quân Mân-Triết, thủy quân Kinh-hồ chở đại quan đánh úp Thăng-long. Như vậy ta vừa mất đường về, và mất luôn nước.
Ông đứng dậy nói với Tín-Nghĩa vương, Lý Kế-Nguyên:
– Ta để cho hiền đệ bốn hạm đội trấn Khâm-câu, tuần thám biển Đông. Ta cũng để đại-đô đốc Lý Kế-Nguyên làm phó cho hiền đệ. Liệu hiền đệ có đảm đương nổi không?
Tín-Nghĩa vương khẳng khái:
– Đại huynh đừng lo, em với Lý đại đô đốc có thể chu toàn nhiệm vụ. Em thấy Khâm-châu đã chiếm, đại huynh tiến về Tây, mà bên hông phải còn các châu Liêm, Dung, Bạch, Nghi. Vậy em xin lĩnh nhiệm vụ đánh các châu này, bảo vệ hông phải cho đại ca, cùng cản viện quân từ Quảng-châu xuống.
– Hiền đệ thực là người tinh-minh mẫn cán, lại trí dũng có thừa. Như vậy ta mới yên tâm. Nhưng hiền đệ chỉ có thủy quân, thì lấy đâu ra quân đánh các châu kia?
– Liêm-châu nằm sát bờ biển, thì thủy quân có thể đổ lên bờ đánh được. Còn các châu kia ư? Đệ dùng bảo-binh bắt được, hoặc đầu hàng ở các ải biên giới, hợp với tù hàng binh của Khâm-châu, thiết lập thành đội binh mới. Tuy quân này ô hợp, nhưng dùng để đánh các châu Liêm, Dung, Bạch, Nghi cũng được.
– Dùng quân người đánh người có nguy hiểm lắm không?
Tín-Nghĩa vương ghé miệng vào tai Thường-Kiệt:
– Không khó. Hiện cha mẹ, vợ con, gia sản của chúng, đệ đã đem về giữ ở trong thành Khâm-châu. Bây giờ đệ ra lệnh: Kẻ nào phản trắc, hèn nhát, thì không những bản thân khó toàn, mà gia thuộc cũng bị giết. Đệ giao các hiệu binh này cho Động-đình thất kiệt, để họ chỉ huy chúng. Thế của Động-đình thất kiệt bây giờ như ngồi trên lưng cọp, không thể bước xuống được nữa. Họ chỉ có thể tới, mà không thể lui! Vậy huynh phải gửi tấu chương về triều, xin phong chức tước cho Động-đình thất kiệt, để đào thêm hố căm thù của Tống với họ, và cột chặt họ với ta.
Nguyên-soái Thường-Kiệt vội sai chim ưng mang biểu về triều. Hai hôm sau có chiếu chỉ ban ra: Phong cho tất cả Động-đình thất kiệt đều lĩnh ấn thiên-tướng, tước hầu. Từ Bá-Tường tước Vạn-sơn hầu, Lý Tân tước Thiên-long hầu, Hà Quan tước Đông-hưng hầu, Vũ An tước Như-tích hầu, Mao Cang tước Liêm-Đông hầu, Đạo Vi tước Khâm-Nam hầu, Phúc Chi tước Dung-Nghi hầu.
Nguyên-soái Thường-Kiệt truyền quân sĩ nghỉ ngơi mấy ngày cho lại sức. Trong khi Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn, đại-đô đốc Lý Kế-Nguyên cho kiểm kê lọc những bảo-binh, Quảng-binh, binh triều ẩn náu trong dân. Tổng số hàng binh, tù binh lên tới ba vạn người. Vương lập thành ba hiệu binh, mang tên Đông-Việt, Nam-Việt và Tây-Việt. Thăng giám áp Văn Lương, Ngô Phu lên làm thiên-tướng chỉ huy hiệu Đông-Việt; thăng chỉ-huy-sứ Tống Đạo, Đinh Toại lên làm thần-tướng chỉ huy hiệu Nam-Việt; thăng tuần kiểm Tưởng Cẩn lên làm vũ-tướng chỉ huy hiệu Tây-Việt. Ba hiệu binh này mang tên Lĩnh-Nam binh, được trao cho Động-đình thất kiệt chỉ huy. Lại cử Từ Bá-Tường cùng với Đinh Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh đi các nơi an dân, cắt đặt quan tước cai trị.
Ngay ngày hôm sau, vương truyền ba hiệu binh Đông-Việt, Nam-Việt, Tây-Việt tiến đánh các cửa Bắc, Nam, Tây thành Liêm-châu. Đô-đốc Trần Lâm với thủy quân hạm đội Động-đình đánh cửa Đông. Đại đô đốc Lý Kế-Nguyên tổng chỉ huy công thành.
Vì thành Khâm-châu bị chiếm, nên thành Liêm-châu tổ chức phòng vệ cực kỳ chu đáo. Trong thành Liêm có đạo quân triều thứ 35 giám-áp Chu Tông-Thích chỉ-huy, lữ kị thứ 45 do chỉ-huy-sứ Ngô Tông-Lập em ruột Tông-Thích chỉ huy. Ngoài ra còn hai vạn bảo-binh do tri huyện Hợp-phố Lương Sở chỉ huy. Tướng trấn thủ là chiêu-thảo-sứ Lỗ Khánh-Tôn, tuổi già, trí dũng tuyệt vời. Vì vậy ba hiệu binh Đông, Nam, Tây-Việt được Thần-nỏ, Thần-hổ, Thần-báo cùng hạm đội Động-đình trợ chiến, mà đánh suốt hai ngày, hai đêm vẫn không hạ được thành. Hai thiên-tướng Ngô Phu, Văn Lương bị trúng tên chết. Trong khi tướng trấn thủ cửa Tây là Chu Tông-Thích, cửa Nam là Ngô Tông-Lập cũng bị đán bắ chết. Trận chiến diễn ra cực kỳ khốc liệt.
Tin đưa về Khâm-châu, Tín-Nghĩa vương phải thân tới đốc chiến. Vương thân cầm dùi đánh trống thúc quân. Thủy-quân thuộc hạm đội Động-đình dùng máy bắn đá, phá cửa Đông thành, tướng trấn thủ là Lương Sở bị đá trúng sọ chết. Quân trấn thủ rối loạn, nhờ vậy quân Đại-Việt xua Thần-hổ, Thần-báo xung vào trước, thủy quân vào sau. Bấy giờ trong thành hỗn loạn, quân vây các cửa kia mới vào được. Quân Việt làm chủ hoàn toàn thành Liêm vào giờ Dậu ngày Tân-Tỵ 23 tháng 11 năm Ất-Mão (DL. 2-1-1076). Chiêu-thảo sứ Lỗ Khánh-Tôn cùng hơn trăm đệ tử phá vỡ vòng vây phía Bắc chạy thoát. Khi y rời khỏi thành hơn mười dặm, thì gặp Vạn-sơn hầu Từ Bá-Tường cùng đô-thống Đinh Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh đi an dân về tới. Cho rằng Bá-Tường phục binh đánh mình, Tôn không nói không rằng xung vào đánh liền. Y đấu với Bá-Tường được hơn trăm hiệp thì mất mạng.
Tín-Nghĩa vương vào thành Liêm-châu, yết bảng yên dân, truy thăng phủ tuất cho gia đình tử sĩ. Vương truyền tha thuế cho dân, tha tất cả thuế thiếu những năm trước. Năm nay không phải nộp bất cứ thứ thuế gì. Lại tha hết tù, bất kể nặng nhẹ, thành án hay chưa. Vương cho hủy bỏ tất cả Tân-pháp của Vương An-Thạch như Thanh-miêu, Trợ-dịch, Bảo-giáp, Thủy-lợi v.v. lấy của trong khi phát cho dân nghèo. Dân chúng sung sướng vô cùng. Họ gọi quân Lý là quân của cha mẹ dân (Dân chi phụ mẫu). Vương tự tay soạn một bài hịch gọi là « Điếu dân, khử bạo hịch », rồi sai khắc mộc bản, in ra gửi đi niêm yết khắp nơi:
« Đạo trị dân tự cổ đến nay, trải Tam-hoàng, Ngũ-đế, đều lấy an dân làm gốc. Á-thánh Mạnh-tử nói rằng: Dân vi quý, xã tắc thứ chi. Phép giữ Xã-tắc lấy toàn cương thổ để nêu chính thống. Điều này, không những sĩ thiên hạ biết, mà cho đến ngu dân cũng thuộc nằm lòng.
Nay Hy-Ninh đế lòng dạ u mê, hôn ám, trọng dụng tên khuyển nho Vương An-Thạch, phá bỏ tất cảđạo trị dân của thánh nhân, coi khinh cương kỷ của các tiên đế Tống triều; rồi đặt ra những gì là Thanh-miêu, Trợ-dịch, Bảo-giáp, Bảo-mã làm cho dân sống không nổi, mà chết cũng không xong. Trời sầu đất thảm, núi khóc, sông rên, khắp các triều đại Hoa-hạ, chưa bao giờ có một hôn quân như vậy, chưa bao giờ có một tên quan ngông cuồng, ác độc như vậy.
Thời đức Thái-tông, Chân-tông, Nhân-tông, trong dụng các bậc đại nho, ngoài dùng chính sách vỗ về, mà bốn phương được phẳng lặng, dân chúng được ấm no. Từ ngày Hy-Ninh lên làm vua, trọng dụng yêu pháp của Vương An-Thạch, rồi gây chiến với Tây-hạ, đến nỗi hao binh tổn tướng, trong khi đó cúi đầu khuất phục đem vàng lụa cống Liêu; nay cắt dất, mai cắt đất dâng cho chúng… để được yên thân. Hỡi ôi, từ Tam-hoàng, Ngũ-đế đến nay, có bao giờ Trung-nguyên nhục nhã như vậy đâu?
Mấy năm qua, Hy-Ninh nghe lời Vương An-Thạch, bắt dân vùng Kinh-Nam, vùng Nam Ngũ-lĩnh luyện tập binh bị, khiến cho việc nông tang bị bỏ phế, học phong bị suy đồi; lại tích trữ lương thảo dọc Nam-thùy, chuẩn bị sang đánh Đại-Việt ta. Dù ta có nínnhịn đến đâu cũng không chịu được. Nay ta ra quân, không có ý chiếm đất Trung-nguyên, cũng chẳng có lòng muốn diệt bỏ Tống triều, mà trước là phá hết những chuẩn bị đánh sang Đại-Việt ta, sau là điếu dân khử bạo.
Ta đã nghiêm cấm quân, không được phạm đến dân chúng, kẻ nào không tuân thì bị giết ngay. Ta đã ban chỉ cho tướng sĩ rằng: Trước thả hết tù, dù thànhán hay chưa thành án; tha thuế trong một năm, tha cả thuế đã thiếu những năm trước; kho lẫm của Hy-Ninh, Vương An-Thạcvh vơ vét của dân bấy lâu, được phát cho dân nghèo; hủy bỏ hoàn toàn Tân-pháp, mà trở lại với đạo lý thánh hiền đời vua Thái-tông, Chân-tông, Nhân-tông. Dân chúng bị bắt xung quân, bị bắt làm bảo-binh, được cho về nhà.
Vậy ta ban bố tờ hịch này đến nhân-sĩ, dân chúng để yên lòng ».
Thái-Ninh vạn vạn niên, nay là năm thứ tư mùa Đông, tháng chạp.
Quân nghỉ được một tuần (ghi chú: tuần của Lịch-việt là 10 ngày), nguyên-soái Thường-Kiệt truyền quân kéo cờ tiến về Đông, hợp với đạo binh Tôn Đản, Cẩm-Thi công phá Ung-châu, sau đó kéo lên đất thiêng của tộc Việt là vùng núi Ngũ-lĩnh.
Phụ lục: Chiêu-thiền tự
Kể từ hồi này, hành trạng của hai vị Thánh-tăng Minh-Không, Đạo-Hạnh trong công cuộc cứu nước rất quan trọng. Vì vậy thuật giả xin chép vào phụ lục một số di tích về hai ngài, nay vẫn còn.
Chiêu-thiền tự còn có tên là chùa Láng. Chùa tọa lạc tại làng Yên-lãng, huyện Từ-liêm, nay thuộc Đống-đa, Hà-nội. Chùa dựng dưới thời vua Lý Thần-tông để ghi lại Bồ-tát Từ Đạo-Hạnh tu đắc đạo. Hồi thơ ấu (1950-1954) thuật giả thường cùng các bạn hẹn nhau tới chùa này chơi vào cuối tuần. Chùa hiện còn cây muỗm trồng từ thời nhà Trần (xem hình).
Ngài Từ Đạo-Hạnh húy Lộ, quê quán tại làng Yên-lãng. Cha là Từ Vinh làm Tăng-quan đô-án. Từ Vinh có hiềm với Diên-thành hầu. Hầu nhờ Pháp-sư Đại-Điên (Đinh Kiếm Thương) dùng Pháp thuật đành chết, vứt thây xuống sông Tô-lịch. Xác ông trôi đến cầu Quyết, trước nhà Diên-thành hầu thì dựng đứng dậy chỉ tay vào nhà Hầu. Hầu lại đi mời Đại-Điên tới. Đại-Điên phải làm phép, xác mới đổ xuống, trôi đi. Từ Đạo-Hạnh muốn trả thù cha, nhưng không đủ phép. Ngài tiếp tục học. Sau khi đủ phép,ngài tìm giết Đại-Điên rồi tu ở chùa Phật-tích trên núi Sài-sơn. Nay là Thiên-phúc tự thường gọi là chùa Thầy. Xin xem
Bấy giờ vua Lý Nhân-tông không có con trai, muốn tìm con của tông thất nối ngôi. Em vua là Sùng-Hiền hầu không con, muốn có con, nhờ ngài Đạo-Hạnh, Minh-Không giúp. Hai ngài hứa giúp. Minh-Không dùng thuốc trị bệnh cho Hầu. Còn Đạo-Hạnh dặn hầu rằng khi phu nhân lâm bồn thì báo cho ngài biết. Đến ngày phu nhân trở dạ, Hầu sai người cáo với ngài. Ngài tắm rửa, thay áo, rồi vào hang núi xuất hồn nhập vào xác thai nhi. Phu nhân sinh một trai đặt tên là Lý Dương-Hoán. Dương-Hoán được vua Lý Nhân-tông nhận làm con nuôi, sau được nối ngôi, tức vua Lý Thần-tông (1128-1138) (Xác này khi Trương Phụ sang đô hộ Đại-Việt đã đem đốt đi).
Khi lên ngôi, vua Thần-tông cho xây chùa để tưởng niệm kiếp trước của mình. Trong chùa thờ ngài Từ Đạo-Hạnh mặc áo vàng, thờ luôn cả vua Lý Thần-tông ngồi trên ngài. Hằng năm vào ngày 7-3 Âm-lịch là ngày kỷ niệm Ngài hóa. Trước hết là nghi lễ tắm tượng, sau đó rước bài vị Ngài sang xã Yên-quyết, Dịch-vọng, rồi diễn lại tích Ngài đánh nhau với Đại-Điên.
Độc giả có thể đọc các sách chữ Hán dưới đây để tìm hiểu thêm về ngôi chùa này:
– Thiền-uyển tập anh.
– Hoàn-long huyện chí.
– An-lang Chiêu-thiền tự.
– Hà-nội địa dư.
– Ngoại truyền kỳ lục.
– Bắc-thành địa dư chí lục.
– Thăng-long cổ tích khảo.
– ĐNNTC.
– Hoàng-Việt địa dư chí.
– La-thành cổ tích vịnh.
– Bắc-kỳ giang sơn cổ tích.
Chùa Láng hay Chiêu-thiền tự
Cổng Tam Quan
Tượng vua Lý Thần Tông tại Chiêu Thiền Tự
Nhà Bát giác trong sân chùa