Mật Mã Tây Tạng

Chương 29: Cánh cửa sinh mệnh: vùng đất bí mật cuối cùng



Cổ cách cơ quan Phật

Hai mắt Nhạc Dương sáng lên, vội rối rít hỏi: “Ôi cha, vậy sao? Tình hình lúc đó thế nào vậy?”

Lạt ma Á La và Nhạc Dương nói được hai ba câu, giáo sư Phương Tân đi qua liền hỏi: “Hai người đang nói chuyện gì mà cứ phải thì thà thì thầm vậy?”

Á La chỉ khẽ cười cười, lắc đầu quay đi. Nhạc Dương lại thấp giọng nói với giáo sư Phương Tân: “Giáo sư, ông có cảm thấy hôm nay thái độ của giáo quan cới cô Mẫn Mẫn không ổn lắm không, đặc biệt là sau khi ăn cơm ấy. Lạt Ma Á La nói, vẻ mặt họ lúc ở trong lều rất kỳ quái, tôi lo là có chuyện gì xảy ra mất”

Giáo sư Phương Tân nói: “Chắc không đâu, mà cậu lo cái gì cơ chứ?”

Nhạc Dương liền khoa tay múa chân nói: “Chính là cái vấn đề ấy ấy, mọi người đều biết cả rồi. chắc không cần tôi phải nói ra chứ” Anh chàng nghiêng nghiêng đầu về phía lều của Trác Mộc Cường Ba gật gật mấy cái.

Giáo sư Phương Tân cười cười vỗ nhẹ lên vai Nhạc Dương: “Mấy người trẻ các cậu ấy à…”

Nhạc Dương vội thầm cãi: “Không phải đâu, cả lạt ma Á la cũng tận mắt trông thấy rồi mà, ông ấy nói họ ở trong lều thế này…thế kia…”

Vừa hay lúc ấy Ba Tang ở trong lều đi ra, thấy giáo sư Phương Tân chỉ lắc lắc đầu không nói gì, bèn hỏi: “Sao thế, giáo sư? Có cần tôi giúp gì không?”

Giáo sư Phương Tân mỉm cười: “Nghe Nhạc Dương nói, giáo quan Lữ Cánh Nam và cô Đường Mẫn hình như đang bạt kiếm giương cung ở trong lều kia kìa, không biết có phải thật không nữa…”

Mấy phút sau. Trương lập xông vào lều của Trác Mộc Cường Ba kêu toáng lên: “Không xong rồi, Cường Ba thiếu gia, giáo quan và cô Mẫn Mẫn đang đánh nhau trong lều rồi! Giống mấy bà đanh đá đánh nhau ngoài chợ ấy, giật tóc xé áo đối phương, nhốn nháo hết cả lên rồi!”

Trác Mộc Cường Ba vội đứng phắt dậy, lớn tiếng nói: “Hả? Sao lại thế cơ chứ?”

Bên trong lều, Đường Mẫn đưa tay quệt mấy giọt mồ hôi li ti trên trán, hoan hỉ nói: “Được rồi, cuối cùng cũng tháo được ra”

Lữ Cánh Nam ngoảnh đầu lại nói: “Cám ơn…” Đột nhiên, Trác Mộc Cường Ba sùng sục như con bò mộng thò đầu vào trong lều: “”Các cô…

Trương Lập cà Nhạc Dương đứng đằng xa nhìn bóng Trác Mộc Cường Ba khuất sau chiếc lều. Anh chàng họ Trương thì thào hỏi: “Tin tức có đáng tin cậy không đấy, Cường Ba thiếu gia đã xông vào rồi…”

Chỉ nghe một tiếng “Á…” sắc nhọn rạch ngang bầu trời đêm đang mưa lâm thâm, rõ ràng là tiếng hét của một cô gái nhưng lại không giống tiếng của Mẫn Mẫn…

Trác Mộc Cường Ba ôm nửa gương mặt rát bỏng lủi thủi ra khỏi căn lều, đi tìm Trương Lập và Nhạc Dương, chỉ mặt hai anh chàng lắm chuyện nói: “Các cậu…ai bảo bọn họ đánh nhau hả! Là ai?”

Trương Lập vội vàng giải thích: “Tôi nghe anh Ba Tang nói thế mà”

Nhạc Dương cũng xua tay lia lịa: “Tôi không nói, tôi không có nói mà!”

Sự việc nhanh chóng được làm rõ, Lữ Cánh Nam đanh mặt tuyên bố, hôm nay Trương Lập và Nhạc Dương trực đêm. Cả hai anh chàng không hiểu sao mình lại chọc giận giáo quan đến thế, cũng không hỏi được rốt cuộc Cường Ba thiếu gia đã phát hiện ra chuyện gì. Đêm về khuya, hai người ngồi bên cạnh lều Trác Mộc Cường Ba giơ tấm bạt lên che mưa, lửa vẫn cháy nhưng gió lạnh thổi vù vù, mưa dường như lại lớn hơn một chút. Vì Ba Tang đã lạnh lùng nhắc nhở từ trước rằng: “Cẩn thận một chút, đêm nay dốc núi đối diện có thể bị sụt lở đấy!” Nên hai người đều không dám đi ngủ. Trương Lập run lên một cái, làu bàu oán trách: “Đều tại cái thằng ngốc nhà cậu, hại tôi phải trực đêm theo”

Nhạc Dương nói: “Làm sao trách tôi chứ, tôi làm sao biết được họ làm gì trong đó, tôi cũng làm sao biết được Cường Ba thiếu gia lại dễ kích động như thế, với cả tôi làm sao biết được sau khi Cường Ba thiếu gia vào trong ấy…giáo quan bỗng hét lên the thé như thế. Tôi lại chẳng tưởng mọi người sẽ cùng đi ra, không thể vì chút chuyện nhỏ này mà gây lộn với nhau được, chuyện giáo quan có ý với Cường Ba thiếu gia anh xũng biết rồi còn gì, đúng là hiếm có, bà già ấy lại nảy nở mầm tình, vốn là tôi cũng rất hi vọng vào giáo quan…chậc, nhưng tiếc nỗi Cường Ba thiếu gia lại yêu cô Mẫn Mẫn đến chết đi sống lại như thế, tôi thấy hy vọng của giáo quan không lớn rồi”

Trương Lập vội đặt tay lên môi: “Suỵt…nghe thấy tiếng gì không?”

Nhạc Dương vểnh tai lắng nghe: “Chỉ có tiếng mưa thôi mà?”

Trương Lập nói: “Không phải…” Anh nheo mắt lại, tựa hồ muốn nhìn xa hơn chút nữa, rồi đột nhiên đứng phắt dậy, chỉ về phía xa kêu lên, “những cái cây kia hình như đang chuyển động”

“A” Nhạc Dương dựa hẳn sang bên trái, cả người trượt chân đổ sập vào chiếc lều, Trác Mộc Cường Ba nằm bên trong lập tức bị giật mình tỉnh giấc, vội hỏi: “Chuyện gì thế?”

Nhạc Dương còn chưa kịp trả lời, Trác Mộc Cường Ba đã ở trong chui ra, Trương Lập chỉ tay về phía xa nói: “Anh xem đám cây kia có phải đang di động không?”

Đằng xa tối đen như mực, bóng cây khổng lồ kéo dài hình thành nên sống lưng con quái vật, không nhìn kỹ quả nhiên khó phát hiện được những cây ấy dường như đang khẽ chuyển động, không phải, tốc độ di động đang dần tăng lên! Lúc Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn, sự chuyển động của cây cối đã hết sức rõ rệt rồi,gã thấp giọng nói: “Sụt lở rồi, triền núi bị sụt”

Đất đá trôi ầm ầm đổ xuống, từng cây rồi lại từng cây cổ thụ đổ rạp. Dòng lũ vốn chảy thàn hai đường rãnh hai bên trái phải, đột nhiên lại tuôn thêm một dòng đất cát chảy vào chính giữa, nhằm thẳng hướng lều trại lao tới. Trương Lập kêu toáng lên: “Đất đá trôi tới rồi, mọi người mau ra đi!”

Trác Mộc Cường Ba thốt: “Không kịp mất rồi!” Thấy dòng đất đá trôi thẳng về phía lều trại của Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam, gã vội rút con dao săn cá sấu ở bắp vế, vung lên chém đứt sợi dây thừng cố định lều bạt, cũng không kịp tìm người, chỉ cách một lớp chăn mò thấy hai người, vội ôm chặt, lăn sang một bên. Ba Tang người vừa mới lăn đi, dòng đất đá trôi lệch hướng kia đã nuốt chửng chiếc lều bạt rồi chảy tiếp chừng gần 500m nữa mới dừng lại.

Lúc này giáo sư Phương Tân và mấy người khác mới ra khỏi lều. Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thò đầu ra khỏi đống vải chăn lùng nhùng, chỉ thấy Trương Lập và Nhạc Dương sắc mặt tái mét đứng bên cạnh, một người đưa tay lau mồ hôi thốt lên: “Nguy hiểm quá!”

Giáo sư Phương Tân nói: “Nhìn trên kia kìa, dòng đất đá thứ hai lại sắp hình thành rồi, chúng ta phải lập tức rời khỏi đây thôi”

Tám người vội vàng thu dọn hành trang, rời khỏi khoảnh đất bằng với tốc đọ nhanh nhất có thể, rồi theo ý kiến ban đầu của giáo sư Phương Tân, dịch sang phía Tây chừng hơn 300m, chuyển tới vị trí trung tâm của khu rừng. Dòng đất đá trôi hoành hành hung hãn bên ngoài, nhưng đều bị những gốc cây quái dị này chặn lại, chỉ trôi thêm được mấy mét là đã bị chia cắt thành dòng nhỏ, không còn cuồn cuộn hung dữ nữa.

Trương Lập ngạc nhiên nói: “Tại sao giáo sư Phương Tân lại biết đây là vùng an toàn?”

Giáo sư Phương Tân điềm đạm giải thích: “Đoạn này vốn là khu vực thường xuyên xảy ra đất đá trôi, nham thể và núi đều dễ xuất hiện hiện tượng đất trôi đá lở, nhưng rừng cây này chắc cũng mấy trăm tuổi rồi, có thể giữ được tình trạng không bị phá hoại cho tới tận bây giờ, chứng tỏ bộ rễ của những thực vật kỳ lạ này còn bám đất chặt hơn bộ rễ của cây bách, vì vậy nơi này có lẽ là tương đối an toàn”

Nhìn dòng đất đá xối vào khoảnh đất bằng phẳng phía trên kia, đồng thời chất chồng chất đống lên đó, nơi ấy dần dần trở nên rộng hơn, phẳng hơn, Nhạc Dương lè lưỡi nói: “Mẹ của tôi ơi, thì ra là chỗ đó là do đất đá trôi tích tụ mà thành, suýt chút nữa chúng ta tự chui đầu vào rọ rồi”

Lữ Cánh Nam nói: “Lần này tôi sơ suất, cũng may đã phát hiện kịp thời, đành để mọi người tạm nghỉ ngơi trong khu rừng này vậy”

Lạt ma Á La lắc đầu nói: “Địa điểm vốn không chọn sai, chỉ là không ngờ hai dòng đất đá trôi ấy lại va chạm tác động lẫn nhau, dẫn đến chuyển hướng xối thẳng vào giữa, đây là tự nhiên biến hóa khôn lường, chúng ta không thể dự đoán một cách hoàn toàn chính xác được đâu, sắp xếp người canh phòng ban đêm, giữ cảnh giác bất cứ lúc nào là hành động đúng đắn”

Trong khu rừng đầy những cây cối quái dị đó, trời lại mưa gió ầm ầm, muốn bình yên ngủ một giấc nào có dễ dàng gì, mọi người đều mở mắt thao láo cả đêm dài, ngày hôm sau lại tiếp tục dựa theo chú thích trên bản đồ, nhằm hướng Đông Nam thẳng tiến.

“Đinh…..đinh đinh….” giữa khu vực hoang vu không người lạnh lẽo mênh mông vang lên tiếng đục đẽo chát chúa, bên cạnh mấy chiếc lều bạt là một pho tượng Quan m cao đến mười bốn mười lăm mét đứng nghiêm trang trong hang động. Không, đây dường như không phải Quan Thế m Bồ Tát ngàn tay ngàn mắt truyền thống, trước tiên là tạo hình của phần đầu pho tượng có tới ba mắt, đông thời người thợ tay nghề hết sức uyên thâm ấy đã tạo cho bức tượng một vẻ mặt mỉm cười đầy vẻ từ bi, nhưng khóe miệng lại nhếch lên lạnh lùng ngạo nghễ; kế đó là, ngàn tay ngàn mắt, biến thành ngàn tay ngàn miệng, giữa lòng bàn tay, không phải con mắt quan sát thế sự mà là những cái miệng hình dạng khác nhau, có cái nhếch mép, cười gằn, có cái nghiến răng nghiến lợi, có cái há to như chậu máu, tượng Phật như vậy, thật khiến người ta phải kinh hãi, lạnh người.

Lúc này bên ngoài pho tượng đá đã lắp xong giàn giáo, bên trên người bước qua bước lại hết sức bận rộn, họ cẩn trọng đục từng nhát lên đó, nhưng đám người này không phải đang tạc tượng mà đang….

“Rầm” Một mảng lớn trước ngực tượng Phật tróc ra rơi xuống, dưới đất bụi bay mù mịt. Merkin huýt sáo, thái độ vô cùng ung dung. Y cầm bộ đàm lên hỏi: “Đã thấy chưa?”

Soares đứng trên giàn giáo đáp lời: “Chưa thấy, chắc còn phải đục sâu thêm chút nữa, chất đá ở đây không tốt, rất dễ bong tróc, chắc chỉ lát nữa là xong thôi” Vừa dứt lời, lại một tiếng động nữa vang lên, kế đó là một mảng đá lớn hơn tróc xuống, trước ngực bức tượng đá khổng lồ liền lộ ra một mảng kim loại, Soares mừng rỡ nói: “Xong rồi, để tôi khởi động cơ quan xem”

Merkin ngẩng đầu lên nhìn vầng trán của tượng Quan m, nơi đó, phía trên đôi mắt Phật từ bi hiền hòa, có một con mắt lớn phát ra những tia sáng bàng bạc. Chỉ cần Soares cắm bốn cây quyền trượng vào bản kim loại nơi ngực tượng Phật, con mắt bạc ấy sẽ rơi xuống, mà con mắt này, tương truyền có thể mở ra một bí mật còn lớn hơn gấp bội.

Soares lấy ra bốn cây gậy dài chừng một thước (khoảng 30cm), một đầu hình thoi, bên trên hình thoi khảm một phiến tròn bằng kim loại to như đồng tiền có hình vẽ. Soares quan sát bảng kim loại, rồi cắm đầu có đồng tiền vào lỗ tương ứng, từ từ cắm sâu vào, mỗi khi một cây quyền trượng dấn vào, con mắt lớn trên trán tượng đá lại lơi ra một chút, bụi đá lả tả rải xuống như mưa.

Soares dặn dò: “Xong rồi, một đứa chúng mày lên lấy nó xuống đi”

Một tên trong đám thủ hạ liền xắn tay áo bám vào cánh tay tượng Phật trèo lên, vừa mới leo được hai ba mét, đột nhiên kêu “Á…” một tiếng lớn, trượt chân rơi khỏi giàn giáo cao mười mét. Soares liền vung roi ra, quấn chặt tên đó, kéo trở lại giàn giáo rồi hỏi: “Chuyện gì vậy?”

Tên kia đáp: ” Không biết nữa, hình như có con gì đó cắn tôi một cái”

Soares xoay xoay cổ tay tên đó, vừa trông thấy vết thương liền nói luôn: “Ồ? Bò cạp, mày chạm phải chỗ nào rồi?”

Tên kia lắc đầu: “Đâu có đâu, tôi bám vào cánh tay tượng Phật trèo lên thôi, vết thương bắt đầu tê đi rồi”

Soares chỉ vào hai tên khác nói: “Hai thằng chúng mày, đỡ nó xuống dưới, tiêm huyết thanh vào”

Vừa dứt lời, dưới chân bỗng rung lên dữ dội, cả giàn giáo phát ra những tiếng “rắc rắc lách cách”, một cánh tay pho tượng cơ hồ như muốn nhấc lên. Merkin bên dưới nhìn thấy tượng đá biến đồi, vội vàng với lên hỏi: “Sao vậy? Xảy ra chuyện gì à?”

Soares đáp: “Không sao, pho tượng này là tượng cơ quan Phật, giờ tôi đã khởi động cơ quan, chỉ sợ tượng Phật sắp sụp xuống rồi. Tôi sẽ đích thân đi lấy con mắt bạc, anh tổ chức cho người bên dưới rút đi” Kế đó y lại quay sang bảo đám người đang lao động trên giàn giáo, “Chúng mày lập tức rời khỏi đây, sắp sập tới nơi rồi”

Thân hình Soares lắc nhẹ, trèo lên với tốc độ nhanh hơn tên vừa nãy không biết bao nhiêu lần. Lúc leo tới gần chỗ cánh tay quả nhiên trong cái miệng nơi lòng bàn tay bò ra một con bọ cạp dài chừng 10cm, toàn thân trắng như tuyết, chỉ có mũi kim nơi đuôi là màu đen. Soares lấy làm hứng thú, ngạc nhiên thốt lên: “Không ngờ lại là bọ cạp trắng” Y vươn tay ra, thành thạo bắt lấy con bọ cạp, rồi ném xuống dưới eo, vậy là đã cho con vật vừa bắt được vào một chiếc lọ thủy tinh.

Đột nhiên nơi đốc nách của cánh tay đó có đá vụn rơi xuống, cả cánh tay lập tức gãy lìa, Soares suýt chút nữa cũng rơi xuống theo, may mà kịp bám vào một cánh tay khác. Lúc này, trong chỗ gãy kia, dường như có gì đó nhúc nhích, đưa mắt nhìn lại, thì thấy vô số bọ cạp trắng đang tràn ra, bò loạn lung tung khắp nơi. Soares cũng không khỏi kinh ngạc, nhủ thầm: “Nhiều vậy sao!” Song y cũng không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, lại tiếp tục nhanh nhẹn leo lên. Bên trên lại có một cánh tay gãy khác rơi xuống giữa đầu. Soares vội lách người né tránh, cánh tay y đặt chân cũng rơi, cả người y thụt xuống. Y liền bám tay vào một cánh tay khác, gắng sức áp sát thân tượng Phật, đột nhiên bỗng nghe thấy một tiếng “cạch”

Soares là người kinh nghiệm phong phú, vừa nghe tiếng động là biết ngay đây chính là âm thanh phát ra trước khi cơ quan khởi động, liền không chút ngần ngừ vung cây roi dài trong tay ra, quấn lấy một cánh tay đu từ bên trái sang bên phải tượng Phật, mấy mũi lao đen ngòm sượt qua vai. Lúc đu qua bảng kim loại chỗ ngực tượng Phật, chỉ nghe bên trong vang lên những tiếng “cách cách cách cách” không ngừng, Soares thầm than “hỏng rồi”, vội đạp chân vào bảng kim loại hòng tănng thêm tốc độ. Quả nhiên, vừa lướt qua đó, tên và mũi lao liền bắn ra vù vù, chỉ hơi chậm một chút là lão đã bị bắn lỗ chỗ như tổ ong rồi.

Soares đu sang cánh tay bên phải, không dám ngừng lại, thu roi lại rồi tiếp tục vung ra quấn vào một cánh tay khác, mượn lực đó nhảy lên cánh tay, đoạn nhanh chóng leo lến mây mét như leo thang tre, kế đó đã tới vai tượng Phật. Không ngờ chất đá chỗ vai tượng chỉ là một lớp mỏng dính, Soares vừa giấm lên đã đạp vỡ một khoảng lớn, chân thụt vào trong, Y lâm nguy mà không rối loạn, ứng biến tức thì, hau tay bám được tai tượng Phật, tức khắc rút chân lên, lộn ngược người một vòng, đã đứng lên trến tai tượng Phật. Soares vươn tay ra lấy con mắt bạc xuống, lầm bầm mắng chửi: “Tượng Phật quỷ quái này, còn ghê hơn cơ quan của người Maya nữa”. Ngoảnh đầu nhìn lại y mới nhận ra chỗ mình vừa đập vỡ lại tràn ra vô số bò cạp trắng nhỏ, còn chỗ đặt con mắt bạc không hiểu đã sắp xếp cơ quan gì mà cũng bắt đầu chảy ra rất nhiều chất dịch màu đỏ.

Lũ bọ cạp trắng đã tràn ra rất nhiều, chiếm cứ hết gần nửa vai tượng Phật và hầu hết các cánh tay, Soares trong một thoáng cũng không tìm thấy chỗ nào đặt chân, mà tai tượng Phật cũng đã bị vô số bọ cạp trắng khác tràn lên. Lúc này, y lại nghe bên dưới chân có tiếng “lạch cạch”, cúi đầu quan sát, thấy gốc tai cũng bắt đầu có vụn đá rơi lả tả, Soares nhíu chặt hai hàng lông mày, lầm bẩm chửi: “Chó chết” Y ngầng đầu lên, bám lấy tóc xoắn ốc của tượng Phật, trèo lên đỉnh đầu. Chỉ nghe một tiếng “bục”, tựa hồ như có tấm màng chắn bị phá vỡ, kế đố một lượng lớn dịch đỏ tràn ra nơi lỗ tai tượng Phật, tai Phật tựa hồ như làm bằng đất bột, vừa đổ nước vào là tan ra ngay, cái cái tai rơi luôn xuống dưới,. Vậy còn chưa hết, lại nghe “xì” một tiếng nữa, trên đỉnh đầu tượng Phật cũng bắt đầu rỉ ra thứ dịch đỏ kia, Soares không còn đường nào để đi, chỉ biết mở mắt nhìn trân trân chỗ đứng của mình bắt đầu đung đưa dao động, cuối cùng cũng không nhịn nỗi mà ngoác miệng ra chửi: “Chó chết! Khốn nạn! Bọn người Cổ Cách trời đánh!…” Lời còn chưa dứt, cả đầu tượng Phật đã rơi khỏi thân tượng, Soares cũng theo đó mà rơi xuống.

Cùng lúc ấy, Merkin ở dưới đất cũng kinh hoảng luống cuống cả tay chân. Y không tài nào ngờ được một pho tượng lớn như thế, vậy mà bảo sụp là sụp xuống ngay được. Hiện trường loạn như bầy ong vỡ tổ,căn bản không thế nào chỉ huy được, đành ai có mạng người ấy chạy thôi vậy. Merkin vừa mới tránh ra một bên, đã thấy đầu tượng Phật khổng lồ rơi uỳnh xuống đất, vỡ làm bốn năm mảnh, chất dịch màu đỏ bắn ra tung tóe, lan khắp mặt đất, quả giống như máu chảy thành sông. Merkin và đám thủ hạ đều bị dính khá nhiều chất dịch này lên người. Bọn bọ cạp trắng kia, không hiểu nhân được thông tin gì từ chất dịch, liền như bầy sói đói thấy thịt tươi, gấu chó ngửi được mùi mật, tức khắc ào đến như thác lũ. Merkin thấy tình thế không hay, ngoác miệng chửi một tiếng: “Chó chết”, rồi xoay người co giò bỏ chạy. Cả đám thủ hạ cũng luống cuống chạy theo.

Soares lơ lửng trên không, thì ra lúc từ trên trời cao rơi xuống, rốt cuộc y cũng nhờ vào tài nghệ dùng roi của mình kịp thời quấn vào giàn giáo, nhặt lại tính mạng từ tay tử thần. Nhân lúc đám bò cạp trắng chưa kịp vây kín, y lập tức rút roi rồi lại ném ra, liên tiếp bốn lần cuối cùng cũng hạ chân xuống đất, chay lao theo đám người Merkin.

Cả đám người chạy một mạch nửa tiếng đồng hồ, trèo lên một cái tháp đất tương đối cao. Merkin thở hổn hến nói: “Không đuổi. không đuổi theo nữa rồi”. Điểm lại quân số y phát hiện ra thiếu bốn người, mà cũng không phải quay lại tìm làm gì nữa, ai nấy đều rõ số phận của bốn tên đó thế nào rồi. Merkin nhìn con mắt bạc trong tay Soares, vừa thở vừa mỉm cười nói: “Chúng mày, đây chính là di tích Cổ Cách treo ngược giữa không trung đấy”

Soares nghiến răng nói: “Nhan lên, đưa tôi hai ống huyết thanh, chó má thật”

Merkin kinh ngạc thốt lên: “Sao cơ? Cả anh mà cũng…?”

Soares nói: “Ừm, lúc đạp lên vai pho tượng. Những cơ quan chết tiệt này toàn thiết kế ở những chỗ người ta không thể tưởng tượng ra nổi” Merkin trầm giọng nói: “Trung Quốc dù sao cũng có đến năm ngàn năm lịch sử, kỹ thuật cơ quan của họ phát triển cũng tương đối kinh người, chúng ta không thể có tâm lý cầu may được. Cái hang Thiên Phật này chẳng qua chỉ là một pho tượng cơ quan Phật bình thường mà đã đáng sợ nhường này, Đảo Huyền Không tự chỉ sợ còn nguy hiểm nhiều hơn nữa đấy”

Thôn Công Bố

Đường núi dốc đứng, hơn nữa lại vừa dứt cơn mua nên rất trơn, dù mọi người đã đi giày đinh chuyên leo núi cũng vẫn lên được một bước lại trượt về nửa bước. Càng đi sâu vào trong lại càng không thấy bóng dáng dấu tích gì của con người. Song nơi này sơn thanh thủy tú, sau cơn mưa cây cối đều xanh mướt mát, bầy chim chao liệng trên không lại càng tăng thêm phần sinh động, đoàn người bọn Trác Mộc Cường Ba đi đường vất vả, mà không ai cảm thấy khổ sở gì. Họ đi hết một ngày đường gian khổ, tới gần buổi xế chiều, phía trước bỗng hiện ra một làn khói mờ. Nhạc Dương mừng rỡ reo vang: “Có người, phía trước có người”

Đi tới dưới chân một ngọn núi không biết tên, quả nhiên trong sơn cốc có một thôn làng hiện lên trước mắt, sống hơn trăm hộ dân trông rất giống với phong cách dân Tạng. Một con đường nhỏ quanh co đi xuyên qua khu làng, dẫn thẳng tới sâu trong khe núi. Cả nhóm người mừng vui ra mặt, chạy thẳng tới khu làng ấy, tinh thần ai nấy đều phấn chấn hẳn lên. Người đầu tiện họ gặp được là một cô bé chăn gia súc. Cô bé dựa người vào sát cánh cổng làng, chiếc roi da trong tay vung vẩy nhè nhẹ, chiếc áo Phổ Lỗ dệ bằng lông cừu và tấm khăn đầu đỏ tực như lửa ánh lên cùng ráng chiều rực rỡ nơi trời Tây và lũ cừu trắng toát dưới làn mây khói lững lờ. Cảnh tượng hiện lên như một bức tranh sơn thủy khó tả nổi bằng lời. Đàn cừu đã ngoan ngoãn trở về thôn trang, nhưng cô bé vẫn lưu luyến nhìn về phương Đông, tựa hồ như đang đợi ai đó. Trương Lập mắt sáng lên, đang chuẩn bị bước lên chào hỏi, cô bé kia thốt nhiên trông thấy người lạ, vội kêu lên một tiếng rồi vung roi đuổi đàn cừu chạy đi, chỉ để lại trong mắt nhóm khách phương xa một bóng hình yểu điệu mỏng manh.

Đi vào giữa làng, chỉ thấy già trẻ gái trai, hầu hết đều dừng chân nhìn ngó mấy du khách lạ mặt. Trang phục của họ đậm nét đặc trưng của người Tạng, song lại có phong cách rất riêng, tựa hồ như phục sức của người Môn Ba, nhưng lại không hoàn toàn là thế.

Trác Mộc Cường Ba sải chân lên trước, dùng tiếng Tạng hỏi một ông già trông giống người Tạng: “Ông ơi, chúng tôi ở ngoài núi vào đây, muốn tá túc một đêm, ở đây có chỗ nào trú tạm không ạ?”

Giọng ông già kia vang lên gắt gỏng: “Cậu nói cái gì? Tôi không hiểu?”

Trác Mộc Cường Ba thoạt nghe, nhận ra đây là một kiểu phát âm chẳng giống tiếng Tạng bình thường cũng không giống tiếng Tạng cổ, mà dường như là giữa hai thứ tiếng ấy, nghe nửa hiểu nửa không, gã liền dứt khoát dùng tiếng Tạng cổ hỏi một lượt. Ông già kia liền lộ vẻ ngạc nhiên ra mặt, rõ ràng là cảm thấy kinh ngạc trước chuyện Trác Mộc Cường Ba biết nói tiếng Tạng cổ; thế nhưng, ông ta cũng chỉ lạnh lùng đáo một câu: “Không biết”, rồi quay người đi thẳng.

Trác Mộc Cường Ba lấy làm ngạc nhiên. Gã hiểu rõ, đồng bào của mình đều là những người nhiệt tình hiếu khách, nhưng dân tộc trong núi này sao lại lạnh lùng như nước đá thế kia? Lạt ma Á La và Trác Mộc Cường Ba lại chia nhau đi hỏi mấy người khác, tử tế một chút thì trả lời “Không biết”, còn đâu thì thấy họ lại gần là đã tránh ra xa, đi được mấy bước lại dừng, ngoảnh đầu quan sát. Thẳng thừng hơn nữa, có người thậm chí còn lớn tiếng quát đuổi: “Đi đi, đi đi, chỗ chúng tôi đây không tiếp khách vùng ngoài. Mặc xác các anh là người gì thì người! Mời các anh mau mau đi khỏi đây cho”

Đã đến giờ cơm tối, người trong làng dường như đã hẹn nhau trước, đột nhiên tản đi hết, nhà nhà cửa kín như bưng, đường làng bỗng dưng trở nên hoang vắng thê lương. Tám ngượi chán nản tụ lại giữa làng, nhìn gió thổi lá bay xào xạc, cây cỏ đung đưa, tâm tình trĩu hẳn xuống. Đường Mẫn dầu môi lên nói: “Người ở đây sao lại như thế chứ?” Trương Lập và Nhạc Dương ngơ ngác nhìn nhau không biết trả lời thế nào.

Giáo sư Phương Tân nói: “Có lẽ là mỗi nơi mỗi phong tục thôi” Ba Tang chỉ cười gằn không ra tiếng.

Lạt ma Á La nói: “Theo bản đồ, thì nơi kia cũng gần ở đây thôi, không biết người trong làng này có biết gì không nhỉ”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Không thể nào đây, chuyện từ hơn ngàn năm trước, ai nhớ nổi chứ”

Giáo sư Phương Tân lắc đầu phản đối: “Không, có rất nhiều nơi đã mất hết văn tự và hình vẽ ghi chép sự kiện, nhưng người dân địa phương vẫn dùng hình thức truyền thuyết hoặc câu chuyện thần thoại để lưu truyền cho đời sau. chẳng hạn như dân cư ở Song Nhũ Sơn, Hán Vương mộ đều biết truyền thuyết nói về mộ cổ”

Lữ Cánh Nam nói: “Người ta đã không hoan nghênh, vậy chúng ra ra ngoài thông dựng lều hạ trại đi. Đằng nào cũng không thiếu nước với thức ăn. Sáng sớm mai sẽ lên đường, không làm phiền tới họ nữa”

Vậy là cả nhóm chọn một khoảng đất trống phía Đông làng, cắm lều hạ trại, đốt lửa nấu cơm. Trác Mộc Cường Ba giúp Đường Mẫn nhen lửa, bị cô trêu chọc, hun cho muội khói dính đen sì cả mặt. Nước còn chưa sôi, bỗng nghe sau lều có tiếng cãi vã. Trác Mộc Cường Ba chạy ra xem thử, thì thấy Ba Tang đang lạnh lùng nhìn một đứa bé trai chừng tám chín tuổi, Trương Lập và Nhạc Dương đang mỗi người nói một câu gì đó. Vừa thấy Trác Mộc Cường Ba tới, cả hau vội tranh nhau nói: “Cường Ba thiếu gia, thằng nhỏ này ăn trộm đồ của chúng ta”

Mặt mũi thằng bé lấm lem bùn đất, hình như vừa chơi đùa thỏa thích ở đâu về, đôi mắt sáng cứ nhìn chằm chặp vào người ta không chịu chớp, bàn tay nhỏ nắm chặt lại, điệu bộ vẻ như oan ức lắm. Trác Mộc Cường Ba thân thiện hỏi: “Bé con, tên cháu là gì?”

Đứa bé cũng lấy làm ngạc nhiên trước người đàn ông biết nói tiếng Tạng cổ này, ngước lên nhìn thân hình cao lớn của Trác Mộc Cường Ba: “Tôi tên Thứ Cát”

Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Tốt lắm, Thứ Cát, có thể cho chú biết tại sao cháu lại trộm đồ ăn của chúng ta không?”

Sắc mặt Thứ Cát lập tức đầy vẻ phẫn nộ, bàn tay nhỏ lại càng nắm chặt hơn: “Không có! Tôi không có!” Điệu bộ thằng nhóc như thể đang nói, có đánh chết tôi cũng không thừa nhận.

Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên: “”Nó bảo không ăn trộm”

Trương Lập và Nhạc Dương cùng lúc kêu lên: “Nói bậy đấy!” Trương Lập nói: “Tôi tận mặt chứng kiến nó đang lục balo của chúng ta. Anh Ba Tang cũng trông thấy nữa, nếu không phải anh ấy bắt nó lại, thằng nhóc này đã lỉnh mất từ lâu rồi”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Trong balo có thiếu thứ gì không”

Ba Tang lạnh lùng đáp: “Phát hiện ra sớm, nên không để nó lấy mất thứ gì”

Trác Mộc Cường Ba xoa xoa đầu Thứ Cát, nghĩ ngợi một chút rồi nói: “Bỏ qua đi, trẻ con nơi rừng sâu núi thẳm, chưa thấy balo to như thế bao giờ, hiếu kỳ một chút cũng là thường thôi. Đằng nào chúng ta cũng không mất gì cả, các cậu nghĩ sao?”

Trương Lập nói: “Thằng nhóc này ở trong làng kia, lúc nãy tôi đã thấy nó rồi”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Tôi biết, tôi cũng thấy nó rồi” Lúc ở trong làng thằng bé này đứng cạnh một phụ nữ trung niên, quần áo khi ấy vẫn còn sạch sẽ. Ba Tang hơi lỏng tay ra, tay kia hất về phía thằng bé, ra hiệu nó có thể đi được rồi.

Không ngờ, Thứ Cát lại hiểu lầm, nó lớn tiếng rống lên: “Các người giết tôi, anh Đa Cát nhất định sẽ báo thù!”

Trác Mộc Cường Ba mỉm cười ngồi xổm xuống, quệt quệt muội than trên mặt, vẽ một cái vòng trên má Thứ Cát, cười cười bảo: “Ai nói chúng ta sẽ giết cháu? Cháu về nhà được rồi, lần sau muốn xem gì thì bảo với chúng ta, trong cái túi này có nhiều thứ thú vị lắm”

Thứ Cát nghi hoặc tròn mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, lùi lại mấy bước rồi mới quay người bỏ chạy. Chạy được vài bước, thằng bé quay đầu lại ngó xem bọn họ có đuổi theo không. Thấy đám Trác Mộc Cường Ba không đuổi theo, cậu nhóc mới hét lớn: “Kẻ Cướp! Ăn trộm…” rồi chạy tót vào làng.

Lạt ma Á La và Giáo sư Phương Tân cùng Lữ Cánh Nam đi quan trắc địa hình quay trở lại, báo cho những người còn lại biết, vị trí đánh dấu trên bản đồ chắc là ở phía Đông làng, lệch về phía Nam chừng ba mươi độ, cách khoảng 30km, nhưng đó là đường chim bay, còn vượt núi băng rừng thì thật khó nói là phải đi mất bao lâu nữa. Trác Mộc Cường Ba kế sơ qua chuyện về Thứ Cát cho mấy người. Lúc này, một phụ nữ trung tuổi đang ngại ngần đứng cạnh lều trại của họ, thấp giọng nói: “Này…”

Cả bọn quay lại, liền thấy người phụ nữ người Tạng chừng bốn mươi tuổi đang khom mình cúi đầu nói: “Thằng bé đó, thật là ngại quá. Thứ Cát bướng bỉnh quá, thật là làm phiền các vị, tôi dẫn nó đến xin lỗi đây” Thứ Cát lấp ló phía sau vạt áo mẹ nó, vẻ mặt xem chừng không phục.

Trác Mộc Cường Ba đứng dậy nói: “Không có gì, Thứ Cát là đứa trẻ ngoan. Nó hiểu chuyện lắm”

Người phụ nữ trung niên kia nói: “Thực sự hết sức xin lỗi chuyện vừa rồi trong làng, cả làng chúng tôi, mọi người đều thờ ơ với khách từ phương xa đến quá. Nếu mọi người không ngại, xin mời đến nhà tôi”

Lời mời này khiến mọi người đều mừng ra mặt, dù sao thì nước vẫn chưa đun sôi, sau mấy câu khách sáo, cả nhóm Trác Mộc Cường Ba liền thu dọn đồ đạc, dọn vào nhà Trác Mã. Phòng ốc rất rộng rãi, thừa đủ chỗ cho tắm người nghỉ ngơi. Chồng Trác Mã vào núi săn bắn, phải muộn hơn nữa mới về. Mọi người trò chuyện được đôi ba câu, khay trà sữa nóng hôi hổi đã được bưng lên bàn.

Trương Lập ăn uống nhồm nhoàm, rồi rối rít khen: “Bánh xốp của chị Trác Mã ngon thật đấy. Đây mới là điểm tâm kiều Tạng chính gốc chứ lại”

Trác Mã cười cười: “Ngon thì ăn nhiều một chút đi, nhà chúng tôi cũng lâu lắm rồi không có nhiều khách thế này”

Lữ Cánh Nam hỏi: “Phải rồi chị Trác Mã, vừa nãy trong làng xảy ra chuyện gì vậy? Sao mọi người đều lạnh lùng như vậy?”

Trác Mã ngượng ngùng đáp: “Chuyện này…đã là tập tục từ rất nhiều năm trước rồi, tất cả đều là quy củ tổ tiên truyền lại. Chúng tôi sống trong chốn rừng sâu núi thẳm này, cũng ít khi gặp được người nơi khác đến, nên không biết đạo đãi khách, có chỗ nào không phải, mong các vị bỏ quá cho”

Lạt ma Á La hỏi: “Vậy người ở đây thuộc bộ tộc nào thế?”

Trac Mã nói: “Chúng tôi à, chúng tôi là người Công Bố Ba”

Lạt ma Á La chau mày: “Công Bố Ba? Trước nay hình như chưa nghe nói có một dân tộc nào như vậy cả”

Trác Mã đứng lên nói: “Chúng tôi sinh sống mãi sâu trong núi, người biết đến không nhiều lắm đâu. Xin lỗi, tôi phải ra ngoài một chút, các vị cứ tự nhiên”

Sau khi Trác Mã đi khỏi, tám người vừa thưởng thức đồ ăn thức uống, rồi sôi nổi bàn luận, cho rằng mình vẫn số đã chuyển. Lạt ma Á La đột nhiên cảm thấy vùng bụng có gì đó không ổn, đầu óc nặng nề như đã uống rất nhiều rượu, ông nhổm đứng lên: “Không ổn, những thứ này không ổn” Vừa mới đứng lên, lập tức cảm thấy trời xoay đất chuyển, ngã huỵch xuống đất. Mọi người thảy đều kinh hãi, nhưng quá muộn, người nào người nấy đều đổ nghiêng đổ ngã, chẳng mấy đã ngủ thiếp đi.

Trác Mộc Cường Ba tỉnh lại, phát hiện mình đang nằm trên một chiếc giường lớn, đầu giường đặt một chiếc hộp Bát Bảo, bên trên khắc đại bàng và mây lành, màn trướng buông rũ, nệm giường vừa mềm mại vừa dễ chịu, toàn bộ đều làm bằng tơ lụa thượng hạng, vách tường bên trái có am thờ Phật, đèn lửa sáng rõ, khói xanh vấn vít tỏa bay. Trác Mộc Cường Ba lắc lắc cái đầu nặng như đá, thầm nhủ: “Mình đang ở đâu đây? Trong mơ chăng?”

Trác Mộc Cường Ba nhổm người xuống giường, quần áo vẫn còn nguyện vẹn, ba lô đặt trên bàn, đồ đạc không thiếu thứ nào, chỉ là không biết những người khác đã đi đâu mất. Đầu óc gã lúc này mê man, không cẩn thận chạm tay vào làm đổ chiếc ghế, bên ngoài liền có người bước vào, cung kính nói: “Ngài tỉnh rồi ạ. Thánh sứ đại nhân”

Trác Mộc Cường Ba luống ca luống cuống, hoang mang hỏi: “Cái gì…cái gì sứ?”

Người kia quỳ một chân xuống, nói: “Thánh sứ đại nhân, ngài là Thánh sứ đại nhân của bộ tộc Công Bố chúng tôi”

Thị lực Trác Mộc Cường Ba đã dần dần khôi phục, thấy trước mắt mình có một thanh niên cao lớn khỏe mạnh đang quỳ một chân, sắc da hơi ngăm đen, trán rộng mũi cao, đôi mắt sáng rỡ. Gã lẩm bẩm nói: “Các người, các người có nhầm lẫn gì không?” Gã sống bằng này tuổi đầu, đây là lần đầu tiên nghe thấy tộc Tạng có một nhánh gọi là Công Bố, làm sao gã có thể trở thành cái gì sứ của bộ tộc này cho được?

Thanh niên kia nói: “Không thể lầm được, ba vị trưởng lão xưa nay chưa bao giờ nói sai. Ngài chính là Thánh sứ đại nhân của chúng tôi, đây là sự thật đã được Thần khâm định từ mấy ngàn năm trước rồi”

Trác Mộc Cường Ba lại hỏi: “Cậu tên gì?”

Thanh niên cúi đầu đáp: “Tiểu nhân là Na Thâm”

Trác Mộc Cường Ba liền dịu giọng nói tiếp: “Na Thâm, Na Thâm, những người bạn của tôi đâu rồi?”

Na Thâm cung kính đáp: “Bạn của Thánh sứ đại nhân đều đang ngủ ở một căn phòng khác”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tại sao Trác Mã lại đánh thuốc mê chúng tôi?”

Na Thâm đáp: “Là để xác đinh thân phận của Thánh sứ đại nhân”

Trác Mộc Cường Ba hoang mang đáp: “Trưởng lão xác định thân phận của tôi bằng cách nào? Bọn họ dựa vào cái gì mà nói tôi là Thánh sứ? Cậu dẫn tôi đi gặp trưởng lão xem?”

Na Thâm sợ hãi nói: “Chỉ có người trưởng lão muốn gặp mới có thể gặp mặt trưởng lão, bây giờ thánh sứ đại nhân ngài không thể đi gặp trưởng lão được”

Trác Mộc Cường Ba lắc lắc đầu, cầm ly nước lạnh trên bàn uống ừng ực cho bản thân tỉnh táo thêm chút nữa rồi hỏi tiếp: “Vậy Thánh sứ đại nhân này có thể làm những gì?”

Na Thâm đáp: “Ba bị trưởng lão nói, Thánh sứ đại nhân xũng phải tới Cánh cửa sinh mệnh, chúng tôi sẽ dốc hết sức giúp Thánh sứ đại nhân và các bạn của ngài đến Nạp Bạc Thác”

Trác Mộc Cường Ba ngẩn người: “Cánh cửa sinh mệnh?” Gã dường như hiểu ra gì đó, lại như mù mờ không hiểu, hoàn toàn bỏ sót mất chữ “cũng”kia.

Trong bóng tối mù mịt, những ngọn đuốc như ánh đom đóm lập lòe, ghép thành một đường dài ngoằn ngoèo khúc khuỷu. Mỗi người đều ở trong trạng thái cảnh giác cao độ. Trong ánh sáng của ngọn đuốc trên tay, bên phải là vách đá, bên trái trống không mờ mịt, thi thoảng lại có đá vụn rơi xuống, song lại không có bất cứ tiếng vọng nào. Thì ra, con đượng bọn họ đi không ngờ lại giống hệt như con đường nhỏ tiến vào Mặc Thoát bên sông Nhã Lỗ Tạng Bố, trên dưới là bầu không thăm thẳm, con đường ở giữa nhô ra rộng chưa đến một mét, mà lúc này còn tối om như mực, trên không thấy trời, dưới không thấy đất. Soares ngoảnh đầu nói: “Đáng lẽ phải mang thằng oắt kia đến, có khi bây giờ đã qua chỗ này rồi ấy chứ”

Merkin nói: “Mang hắn đi cũng vô dụng, thằng oắt ấy cả đời cũng chưa ra khỏi Mặc Thoát, hắn chỉ nghe theo những gì tổ tiên hắn truyền lại mà thôi, còn chúng ta mới có bản đồ. Thật không ngờ địa hình ở đây lại phức tạp thế này, cái chỗ quỷ này làm sao mà hình thành được nhỉ?”

Soares nói: “Chắc là cao nguyên đá vôi, nhưng chất đá ở đây và nham thạch trên mặt đất hoàn toàn không giống nhau. Để tôi nghĩ lại xem no, tàừ đầu đến giờ vẫn đi xuống dốc. Từ trên mặt đất xuống đây chắc khoảng một ngàn mét, đã đi qua tầng nham thạch trầm tích rồi. Vách đá ở chỗ này dường nhự đều do nham thạch cứng cấu thành, hơi giống đá rhyolite, có lẽ là một khe ngầm hoàn toàn bít kín hình thành từ những vân động tạo sơn ban đầu của địa cầu”

Merkin nói: “Bây giờ bốn phía đều tối đen như mực, chẳng nhìn thấy gì cả, làm sao mà tìm kiếm đây?”

Soares đáp: “Cứ men theo con đường này tiếp tục đi đi. Tôi nghĩ thằng oắt ấy nói cái gì mà như dây thừng nhà trời sẽ nối tới cánh tay của Thủ la, chắc là phải có cầu mới đúng”

Merkin lẩm bẩm: “Bao nhiêu năm như vậy, có trời mới biết còn hay không”

Hai người vừa nói vừa tiếp tục tiến lên, đột nhiên Soares dừng bước, Merkin cũng dừng lại theo, đám người phía sau cũng đều đứng lại, người thứ năm không kịp dừng bước, bất cẩn đụng vào người đứng trước. Người thứ tư đi trên con đường nguy hiềm này suốt một quãng thời gian dài, vốn đã mỏi gối chùn chân, bị chạm vào một cái, liền “loạt soạt” nghiêng đầu sang bên không có vách đá. Merkin vươn tay ra, không cần quay đầu lai đã kéo người thứ tư về, đồng thời nói: “Rơi xuống là chết chắc đấy, tự chú ý đi”

Soares nói: “Xem ra đã tới rồi”

Merkin ngoảnh đầu: “Lần này thì đúng là thê thảm”

Chỉ thấy phía trước cái khe khổng lồ tăm tối, hai cây trụ sắt cắm sâu vào vách đá, nhưng xích sắt bên trên đứt từ đời nào, không biết đã rơi đi đâu mất. Soares sờ soạng cây trụ sắt nói: “Những đồ sắt này chắc là đã phết lên một lớp vật liệu chồng gỉ nhân tạo, một ngàn năm ròi mà vẫn không thay đổi gì cả, ừm, vết cắt phẳng lắm, xem ra sợi dây xích duy nhất nối liền đại hiệp cốc này đã bị người ta phá hoại rồi. Nhìn dấu vết chỗ đứt đoạn, có lẽ là cổ nhân từ ngàn năm trước gây ra, khi ấy rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?” Merkin nói với người đứng sau lưng: “Max, bắn một quả pháo tín hiệu đi, xem tình thế xung quanh thế nào”

Pháo sáng lập lòe bay lên, chiếu rọi đại hiệp cốc tối tăm rõ như ban ngày, nhưng phạm vi chiếu sáng cũng rất có hạn, nên đại hiệp cốc không rõ sâu rộng thế nào này vẫn ẩn dung mạo của mình trong bức màn đen tối. Merkin không nén nổi kinh ngạc thốt lên: “Khe nứt rộng quá, không ngờ lại chẳng nhìn được bờ đối diện nữa”

Soares đề nghị: “Bắn thêm mấy phát nữa xem, hình như tôi vừa thấy cái gì đó”

Lại có mấy quả pháo sáng nữa được bắn ra, Merkin lắc đầu: “Vẫn chẳng thấy gì cả mà”

Soares cố giữ bình tĩnh, nói: “Tôi thấy rồi”

Merkin vội hỏi: “Anh trông thấy gì?” Y hiểu rõ, Soares có đôi mắt cảu loài cú vọ, thị lực trong bóng tối tốt hơn người bình thường rất nhiều. Giọng Soares như thể chính y cũng không tin vào những điều mình nói: “Đối diện, phía chính diện có nhà”

“Nhà!” Merkin kinh ngạc thốt lên thành tiếng, trên vách đá cao ngất, dốc đứng này không ngờ lại có một ngôi nhà, cứ nghe như truyện cổ tích ngàn lẻ một đêm vậy. Soares khẳng định chắc chắn: “Đúng, nói một cách chính xác, phải nói là chùa hay miếu mới đúng. Tôi thấy rồi, có chùa chiền miếu mạo, không chỉ một ngôi đâu, chúng bám dính trên vách đá đối diện, Đảo Huyền Không, không sai, chính là ở đây, Đảo Huyền Không tự!”

Merkin kích động kêu lên: “Nhanh, dùng tia laze đo khoảng cách xem bao xa”

Max lấy máy đo ra, loay hoay một lúc rồi nói: “Ông… ông chủ, hai,hai trăm linh bảy mét”

Soares nói: “Xa vậy làm sao qua được?” Giờ đây cầu dây sắt đã đứt, cho dù có một sợi dây thừng dài đến thế, cũng không thể nào ném qua bờ đối diện được.

Merkin trầm ngâm giây lát rồi nói ngay: “Đo thử bên dưới…”

Soares nói: “Anh muốn trèo xuống vách đá, sau đó lại bò từ dưới lên à?” Merkin khẽ gật đầu.

Max giở máy đo ra, rồi còn kinh ngạc gấp bội: “Ông… ông chủ, không…không đo được”

“Hả?” Merkin giật lấy cái máy đo, đích thân thao tác lại một lượt, quả nhiên không có con số nào hiển thị lên màn hình, liền bực tức chửi một tiếng: “Làm thế chó nào vậy?”

Soares lắc đầu: “Không có gì là lạ, bên dưới chỗ này quá nửa là có hệ thống nước ngầm, giống như sông Nhã Lỗ Tạng Bố ấy, cũng chỉ có một dòng sông như thế ngày đem xối xả, mới có thể mài được một khe ngầm sâu thế này thôi”

Merkin phản đối: “Cho dù có hệ thống nước ngầm thì tia laze vẫn xuyên qua được chứ”

Soares gật đầu: “Đúng vậy, nhưng có nước thì sẽ có bụi nước, chỉ cần tầng bụi nước đủ dày thì sẽ có thể hấp thu và chiết xạ tia laze giống như tầng khí quyển, tín hiệu truyền về quá yếu, không thể làm vật liệu mẫn cảm với ánh sáng trong thiết bị này phản ứng. Tốt nhất cứ dùng mắt trực tiếp quan sát còn hơn, bắn pháo sáng đi”

Lại một quả pháo sáng nữa bắn thẳng xuống dưới, chỉ thấy luồng sáng chói lòa biến thành một điểm sáng nhỏ trong màn đêm, sau đó chìm dần chìm dần….cuối cùng thì biến mất không còn tăm tích. Soares hít một hơi khí lạnh thốt lên: “Khá lắm, ít nhất cũng phải trên một ngàn mét, hơn nữa dù có xuống được bên dưới, chúng ta cũng không qua được con sông đó đâu, xem ra cách này của anh không thực hiện được rồi”

Merkin vẫn không cam tâm nói: “Đo bên trên cho tao xem nào”

Soares lắc đầu: “Vô dụng thôi, vừa nãy không phải đã nói rồi sai, ở đây cách lối vào khe nứt ít nhất cũng hơn một ngàn mét, bên trên quá nửa không phải là đỉnh vòm như quy tắc thông thường, cấu tạo như vậy căn bản là không trèo lên được đâu”

Max đo kết quả rồi nói: “Một ngàn hai trăm ba lăm mét, ông chủ, chúng ta không lên nổi đâu”

Soares nói: “Bây giờ chỉ có thể nghĩ cách trực tiếp nối liền hai bờ vực lại thôi, có khả năng này không nhỉ?”

Rõ ràng biết đích đến đã ở ngay trước mắt, vậy mà lại bị vực sâu hiểm yếu ngăn cách, quả thực khiến người ta phải nôn nóng bựa bội. Merkin cũng không giữ nổi trầm tĩnh, cứ gãi đầu liên tục, cuối cùng bật ra một tiếng: “Có cách rồi, có thể dùng ống phóng hỏa tiễn bắn dây thừng móc câu hoặc dây thép sang bờ đối diện”

Soares tức khắc phản đối: “Không được. Chúng ta đi xuống ở chỗ cách di chỉ Cổ Cách chừng 20km, sau đó là đi thẳng một mạch theo hướng Đông bắc, bầy giờ e là đang ở độ sâu 1000m bên dưới di chỉ Cổ Cách rồi, gây tiếng động quá lớn, chỉ sợ kinh động người ở bên trên”

Merkin nói: “Vậy thì có thể sử dụng thiết bị phát xạ lực từ”

Soares nói: “Nhưng theo tôi được biết, những thiết bị ấy đều rất lớn, làm sao mang xuống tận dưới này được”

Merkin đáp: “Tôi có thể kiếm được thiết bị bắn dây thừng xách tay, ở Mỹ, những người làm địa chất thường xuyên sử dụng thứ này, giờ Trung Quốc cũng đã có sản phẩm cùng loại. Lập tức trở ra đi, tôi gọi điện liên hệ với đám người ấy, muộn nhất là ngày mai là có thể cho máy bay ném đồ xuống khu vực gần đây rồi”

Soares bổ sung thêm: “Còn dây thừng dài nữa” Y thoáng nghĩ ngợi giây lát rồi lại nói: “Còn mấy món đồ thí nghiệm kia nữa”

Merkin hơi nhếch mép cười: “Có thể dùng được rồi sao? Vậy thì…”

Thánh hồ Nạp Bạc Thác

Ngày hôm sau, mọi người lại tụ tập ở phía Đông thôn làng, lần này có khác biệt là, ba lô hành lý đều do người trong bộ tộc Công Bố gánh thay. Mỗi người trong nhóm có một con ngựa để cưỡi, song cho đến giờ, ai nấy vẫn lờ mờ không hiểu nỏi tối qua rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, chăng hiểu sao mới ngủ qua một đêm, Trác Mộc Cường Ba đã thành Thánh sứ đại nhân của người Công Bố rồi. Có điều có một chuyện đã làm rõ được, nơi họ muốn đến lần này, cũng chính là Cánh cửa sinh mệnh dược ghi chú trên bản đồ, là nơi người bộ tộc Công Bố hết sức quen thuộc, bởi vì cánh cửa ấy là thánh địa mà bọn họ đời đời canh giữ bảo vệ. Tương truyền, Cánh cửa sinh mệnh ấy nằm ở trung tâm một cái hồ, họi là Hồ Nạp Bạc Thác, ngoài Thánh sứ đại nhân ra, những người khác đều không thể tiến vào. Người bộ tộc Công Bố bào đời nay đều nghiêm cẩn tuân thủ quy tắc đó, đợi chờ Thánh sứ đại nhân xuất hiện.

Sự phân biệt đẳng cấp nghiêm ngặt ở đây khiến tấc cả đều cảm thấy không quen mắt. Bọn họ không thể cưỡi trên ngựa, rồi hò hét với đám người Công Bố đang giúp mình vác balo như quát nô lệ được. Cuối cùng đành thõa hiệp, để ba lô đồ đạc trên lưng ngựa, chỉ c ân một mình Na Thâm dẫn đường, cả đoàn bắt đầu tiến vể phía Cánh cửa sinh mệnh. Trên đường, mọi người đều rôm rả hỏi han Trác Mộc Cường Ba rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Thế này thì đúng là đã làm khó cho gã, đừng nói là bản thân gã không hiểu gì, đến cả Na Thâm cũng không hiểu rõ ngọn ngành, chỉ biết là ba vị trưởng lão đã tuyên bố với cả làng rằng, Trác Mộc Cường Ba chính là Thánh sứ đại nhân mà bộ tộc Công Bố bọn họ đợi chờ đã mấy ngàn năm nay, vậy là Trác Mộc Cường Ba liền trở thành Thánh sứ đại nhân. Mọi người không hỏi được nguyên nhân đều lấy làm thất vọng, song chỉ thoáng sau đó lại nhao nhao hỏi những vấn đề khác, Trương Lập láu táu hỏi: “Nạp Bạc thác sao lại ở chỗ này nhỉ? Tôi còn nhớ….”

Câu trả lời của Na Thâm là: “Nạp Bạc Thác xưa nay vẫn ở chỗ này, mấy vạn năm trước, nữ thần Nila xinh đẹp từ trên thiên giới…”

Trương Lập vội xua tay nói: “Được rồi, được rồi, tôi không phải muốn hỏi chuyện này”

Lạt ma Á La lên tiếng: “Tôi biết cậu muốn hỏi gì rồi, có phải muốn hỏi một cái hồ khác cũng có tên này phải không. Thực ra Nạp Bạc Thác vốn có nghĩa là cái hồ ở phía sau khu rừng, phàm là hồ hay biển ở sau rừng rậm, bất kể lớn nhỏ ra sao, chúng ta đều có thể gọi là Nạp Bạc Thác. Những hồ cùng tên như vậy, ở khu vực A lý cũng có, Thanh hải cũng có, Vân Nam cũng có”

Lữ Cánh Nam hỏi: “Phải rồi, người trong làng bị sao vậy? Lúc nào họ cũng lạnh lùng với người nơi khác đến như vậy à?” Tối hôm trước, Trác Mã chỉ đáp cho qua chuyện, Lữ Cánh Nam vẫn thấy đáp án đó không được thõa mãn cho lắm.

Na Thâm nói: “Đó là quy củ trong thôn, đối với người nơi khac đến nhất định phải hững hờ lạnh lùng, không được tùy tiện ngênh đón những kẻ ngoại lai”

Đường Mẫn tò mò hỏi: “Vậy ư? Tại sao vậy?”

Na Thâm đáp: “Thực ra chuyện này đã phai nhạt đi trong ký ức nhiều người rồi, vì vậy mọi người cũng không biết tai sao như vậy đâu. Tôi từng được nghe các bị trưởng lão kể về nguyên nhân của sự việc này. Tương truyền, hơn trăm năm về trước, thôn làng của chúng tôi cũng giống những nơi khác, người trong làng đều hết sức nhiệt tình hiếu khách. Cũng tại làng ở nơi xa xôi cách trở, hiếm hoi lắm mới có một vị khách từ nơi khác đến, khi ấy có lẽ chúng tôi còn nhiệt tình hơn những làng khác nữa cũng nên. Rồi đến một ngày, có một quái nhân tóc vàng mắt xanh xuất hiện. Điều khiến người ta kinh ngạc là hắn nói tiếng Tạng rất lưu loát, hoàn toàn có thể trao đổi voeis người trong thôn. Mọi người đều chiêu đãi hắn rất nhiệt tình, coi hắn như anh em ruột thịt của mình vậy, còn quái nhân ấy cũng kể cho dân làng nge rất nhiều chuyện ở thế giới bên ngoài. Về sau, hắn lân la dò hỏi về Cánh cửa sinh mệnh…”

Sợi cương ngựa Trác Mộc Cường Ba đang kéo bỗng rung lên, con ngựa tức khắc dừng lại, tìm gã dường như cũng giật đánh thót một cái. Chỉ nghe Na Thâm chậm rãi kể tiếp: “Chúng tôi cũng không biết hắn ta nghe ở đâu tin tức này, nhưng thời đó dân phong thuần phác, mọi người đều sẵn lòng chia sẻ bị mật sâu thẳm nhất trong lòng mình với hắn, nên đã nói cho hắn biết…”

Na Thâm ngưng lại một chút để lấy hơi. Nhạc Dương và Trác Mộc Cường Ba đều không nén được buột miệng thốt lên: “Về sau đó thì như thế nào?”

Sắc mặc Na Thâm đượm vẻ bi thương, buồn bã nói: “Về sau, sau khi kẻ ấy từ biệt dân làng, không ngờ đã tự tìm đến Nạp Bạc Thác, lại còn thuê rất nhiều công nhân gánh đồ, đến khi người làng phát hiện được thì bọn cũng đã vào trong Cánh cửa sinh mệnh rồi”

Trác Mộc Cường Ba lạnh toát cả người, thầm nhủ: “Vậy là những chỗ có thể đi được, đều đã bị người khác đi mất rồi. Hơn 100 năm trước, Stanley! Nhất định là ông ta!” Gã nhớ lại cảnh tượng ở đại cung ** Puch, chỉ có tượng đá, cơ quan, các bức bích họa khổng lồ, còn đâu mọi thứ đáng tiền đã bị cướp phá sạch, lẽ nào lần này đi Cánh cửa sinh mệnh cũng lại gặp phải kết cục như thế sao? Trong đầu Trác Mộc Cường Ba vang lên những lời Lữ Cánh Nam từng nói: “Châu báu của cải nhiều như lông trâu, được ào ạt vận chuyển về nước Anh” trong lòng lại không khỏi ngấm ngầm run rẩy.

Lạt ma Á La điềm đạm hỏi: “Vậy người làng không ngăn ông ta lại à?”

Na Thâm cúi đầu ói: “Cánh cửa sinh mệnh là cánh cửa cấm của người Công Bố chúng tôi, toàn bộ dân làng đều không được phép bước vào”

Lạt ma Á La giận dữ gắt lên: “Ngu xuẩn, vậy các người cứ mở mắt trân trân ra nhìn đám trộm cướp đó đi vào thánh địa tổ tiên để lại, giao cho các người nhiệm vụ đời đời canh giữ ấy hay sao?, ” So với Trác Mộc Cường Ba, trong lòng ông lúc này còn lo âu gấp bội.

Na Thâm cúi đầu không đáp. Giáo sư Phương Tân khẽ thở dài nói: “Xem ra nơi chúng ta tới quá nửa lại là một cái hang không rồi”

Lữ Cánh Nam nói: “Để xem rồi hãy nói”

Đột nhiên ngựa không chịu đi tiếp nữa, cứ thấp giọng hí lên khe khẽ. Rừng phong dường như đã hết, xa xa vọng lại tiếng gầm rú của loài động vật nào đó. Na Thâm giải thích: “Phía trước có mãnh thú, lũ ngựa đã cảm giác thấy nguy hiểm”

Lữ Cánh Nam liền phân chia: “Trương Lập, đại sư, giáo sư và Mẫn Mẫn, mấy người ở lại trông ngựa, chúng tôi đi lên trước xem thế nào”

Năm người tiến về phía trước được chừng trăm mét, thấy ở bìa khu rừng có một hang động đi vào lòng núi. Trên bãi cỏ phẳng rộng chừng năm chục mét vuông ngoài cửa hang, có một người đàn ông dân tộc Tạng, tay cầm chiếc xiên hai lưỡi, đang quần nhau với một con báo lớn. Na Thâm vừa thấy vội nói: “Na Nhật đấy, tôi qua giúp chú ấy mộ tay đã” Dứt lời liền vẫy tay chào Na Nhật, cứ thế tay không lao thẳng vào trận chiến.

Nhạc Dương kêu lên: “Chà, có phải báo hoa không nhỉ?”

Na Thâm xông vào con báo hoa. Con báo đã quần nhau với Na Nhật hồi lâu, giằng co dền dứ không phân cao thấp, đột nhiên lại thấy kẻ lạ mặt xuất hiện, liền gầm lên một tiếng với Na Thâm, rồi lao bổ tới. Na Thâm không buồn tránh né, đấm thẳng vào giữa trán con báo hoa đang nhào tới một cú mạnh như búa bổ, khôn ngờ hất ngược cả con vật về phía sau. Con báo lăn tròn dưới đất mấy vòng, biết kẻ mới đến này rất lợi hại, liền xoay người định chạy vào hang động, song lại thấy Na Nhật cầm xiên sắt chặn trước cửa hang như một pho tượng Kim Cương giữ cửa. Na Nhật nói: “Con báo này giảo quyệt lắm, lần trước suýt chút nữa thì bắt được nó rồi, kết quả vẫn để nó chạt mất. Tối qua chú ở đây canh trước cửa hang tròn một đêm mới đợi được nó ra ngoài kiếm mồi đấy”

Na Thâm cười nới: “Chú Na Nhật”, thân thủ hình như hơi chậm thì phải, đối phó với một con báo này cần gì tốn thời gian thế.

Na Nhật tỏ vẻ không phục: “Nếu không phải sợ làm hỏng mất bộ da thì chú giết nó từ lâu rồi, cần gì phải lâu la mất thời giờ”

Na Thâm nói: “Nhìn cháu đây này, đảm bảo không làm rụng cả một sợi lông” Dứt lời liền lao bổ tới chỗ con báo hoa. Bạn đang đọc truyện tại Truyện YY – http://thegioitruyen.com

Nhạc Dương hỏi: “Động vật được nhà nước xếp hạng bảo vệ cấp hai đấy, chúng ta có nên ngăn họ lại không nhỉ?”

….

Na Thâm đáp: “À, phải rồi, nói ra mới nhớ, bốn hôm trước Đa Cát dẫn một vị Thánh sứ khác đến Cánh cửa sinh mệnh rồi, từ hôm đấy đã về đâu”

“Hả?” Trác Mộc Cường Ba giật bắn mình kinh ngạc, vội hỏi: “Cậu nói cái gì? Một vị…thánh sứ đại nhân khác?”

Na Thâm gật đầu: “Vâng, tôi không thích cái vị thánh sứ đại nhân đó, vì ông ta giống hệt cái kẻ mà các vị trưởng lão vẫn kể, tóc vàng, mắt xanh, mũi lõ”

Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ hoảng sợ ngước nhìn ra phía sau, mọi người đều có cảm xúc tương tự. Ben, đối thủ lớn nhất của họ đã đến Cánh cửa sinh mệnh trước đó những bốn ngà, nhóm của họ lại một lần nữa bị bỏ lại phía sau. Na Thâm thấy thần sắc mấy người có vẻ không ổn vội vàng giải thích: “Tôi không có ý nghĩ gì bất kính với thánh sứ đại nhân cả, chỉ là….chỉ là…”

Trác Mộc Cường Ba vội hỏi: “Bọn họ có bao nhiêu người? Đã đi được bốn hom trước hả?”

Na Thâm đáp: “Người và trang bị của bọn họ nhiều hơn các ngài nhiều, chắc khoảng hai ba chục người gì đấy, xuất phát từ giờ Chuột bốn hôm trước. Sao vậy hả, thánh sứ đại nhân cũng không biết có một vị thánh sứ khác cũng đến ư?”

Trác Mộc Cường Ba thấy da đầu ngưa ran, nếu nói một trăm năm trước người kia chưa phát hiện, cũng chưa lấy được thứ gì, nhưng nhóm của Ben cũng đã tới đó rồi, hai ba chục người và các trang thiết bị hiện đại nhất, vậy thì còn lại thứ gì nữa đây? Giờ đây điều mà gã kỳ vọng nhất, ngược lại chính là bọn người của Ben cũng như gã, không phát hiện được điều gì trong Cánh cửa sinh mệnh kia.

“Còn…con đu nữa không? Chúng ta có cần đi tới đó nữa không? Giáo quan?” Nhạc Dương cất tiếng hỏi. Tất cả những người còn lại đều tập trung vào Lữ Cánh Nam với ánh mắt dò hỏi. Cô liền hỏi Na Thâm xem đường còn bao xa. Na Thâm chỉ về phía xa đáp: “Qua ngọn núi này là tới rồi”

Lữ Cánh Nam nghiến răng đáp: “Đi, dù thế nào cũng phải qua xem sao. Hi vọng có thể tìm đươc chút đầu mối gì đó. Bọn chúng không dám mang theo vũ khí, công nhiên ngồi các phương tiện giao thông trên không, không thể đi nhanh quá được, chúng ta vẫn có thể đuổi được”

Cứ nghĩ đến lần này lại đến một nơi bị càn quét hai lần, không còn thứ gì, mọi người lại bắt đầu mồm năm miệng mười bàn luận xôn xao.

Mọi người đang trò chuyện, Na Thâm đã dừng bước nói: “Đến nơi rồi”

Nhóm Trác Mộc Cường Ba ngước nhìn khắp núi xanh ngắt màu cây lá, không hiều Na Thâm nói đến đâu rồi, chỉ thấy anh ta sải bước chân lên đỉnh dốc, đoạn nói: “Nạp Bạc Thác, Cánh cửa sinh mệnh, chính là ở chỗ này đây”

Trác Mộc Cường Ba liền theo Na Thâm trèo lên đỉnh dốc, vạch tán cây và bụi cỏ ra, phía trước liền hiện lên một quầng xanh biếc, làn nước trong vắt lăn tăn gợn sóng, cơn gió hồ thổi tới mát rượi. Hai mạt núi hai bên tựa như một chiếc thuyền đong đầy nước sạch, Nạp Bạc Thác, hồ nước nhỏ ẩn sau rừng cây này hình dáng tựa như một con mắt, hoặc có thể coi là hình thoi cũng được, nước hồ xanh ngắt như ngọc phỉ thúy. Giữa hồ có hai hòn đảo một lớn, một nhỏ, cây cối chằng chịt, tựa như hai tròng mắt vậy, bên trên lũ chim ríu rít chao liệng, lại càng khiến vẻ đẹp của hồ nước xanh ngăn ngắt thêm mấy phần.

“A, đẹp quá!” Đường Mẫn ngạc nhiên thốt lên.

Khi gió dừng sóng lặng, toàn bộ mặt hồ tựa như một chiếc gương làm từ ngọc bích, sắc xanh mơn mởn, khiến người ta không sao nén nổi tiếng thở dài cảm thán trước vẻ đẹp của sắc màu ấy. Chẳng rõ nước hồ sâu bao nhiêu, nhưng thoạt nhìn đã thấy tận đáy, đếm được cả lũ cá đang lững lờ bơi, lúc đúng lúc tĩnh, lúc giương vây lên hoan vũ, giôgns một thiếu nữ đang hất vạt áo xanh biếc lên nhảy múa, bước chân nhẹ nhàng lướt trên mặt sóng, khói mù tỏa lan, vấn vít quanh hồ nước và núi non, làm khung cảnh trở nên như ảo mộng. Nhóm người của Trác Mộc Cường Ba đa phần đều đã đi Cửu Trại Câu, cũng biết nước ở đó như th ếnào, cũng biết đến thứ màu sắc lung linh đến độ khó thể hình dung ở nơi ấy, màu ngọc bích của cái hồ này cũng giống như nước ở Cửu Trại câu vậy, nhưng hồ ở Cửu Trại câu không lớn bằng, không có hồn bằng, không có cái vẻ linh động và thánh khiết như nơi đây. Bước lại gần hồ, mọi người gần như nín thở, phảng phất như thể thông qua mặt hồ mà nhìn thấy tiền thế kim sinh, Cánh cửa sinh mệnh, có thể cho con người ta một cuộc sống mới.

Lạt ma Á La tuyên niệm Phật hiệu, ngồi xuống nhập định. Mọi người khác đều chìm đắm trong khung cảnh tuyệt mỹ, quên hết mọi vinh nhục ở đời. Bầu không xanh màu ngọc bích ở trên, hồ nước như phỉ thúy bên dưới, thi thoảng lại có bầy chim bay vụt qua, hình bóng phản chiếu xuống mặt nước, hoàn với làn mây tím trên trời cao, tất cả đều thật tự nhiên, trong lòng mỗi người đều không khỏi dâng trào lên dòng cảm xúc “đúng là phải như thế” Mây nước mênh mang biến hoá phức tạp, nhìn ngắm sao cũng không thấy đủ, chẳng những đôi mắt, mà cả thân thể mỗi người cũng đều được hân thưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, linh hồn như tắm trong sự yên bình tĩnh lặng.

Nhạc Dương khẽ hỏi Na Thâm: “Cánh cửa sinh mệnh ở đâu thế?”

Na Thâm chỉ vào hòn đải lớn hơn ở giữa hồ: “Ở đó chính là cánh cửa sinh mệnh”

Trương Lập nói: “Hòn đảo ấy nhìn không lớn lắm thì phải, đúng không? Tại sao lại gọi là Cánh cửa sinh mệnh “

Na Thâm đáp: “Chuyện này…nghe các vị trưởng lão nói, chỗ chúng tôi ở là hoác thân của Thắng Phật Mẫu, dòng Bố Tạng Bố chính là một chân của Thắng Phật Mẫu, chúng ta men theo đùi đi dọc lên, vì thế, ở đây chính là Cánh cửa sinh mệnh “

Giáo sư Phương Tân nói: “Thắng Phật Mẫu? Lạ thật, cái tên này nghe quen quá, cậu có biết không?”

Trác Mộc Cường Ba lắc lắc đầu, nhưng những chuyện trong Phật điển gã biết rất ít. Lạt ma Á La mở mắt ra, chậm rãi nói: “Thắng Phật Mẫu, chính là Minh phi của Thắng Lạc Phật, còn gọi là Đa Cát Cát Bạc Mẫu cũng chính là Kim Cương Hạch Mẫu. Kim Cương Hạch Mẫu, đầu đội mũ Ngũ Khô Lâu, có ba mắt, biểu thị người có thể quan sát được tam thế, quá khứ, hiện tại và tương lai. Ngoài chính diện, bên cạnh còn có thêm một đầu hình đầu lợn nữa, đại biểu trí tuệ song thành. Trên cổ Phật mẫu đeo chuỗi niệm châu làm từ năm mươi cái đầu lâu người, đại biều cho toàn bộ kinh điển của Phật giáo. Tu luyện Hạch Mẫu pháp có thể tương ứng với Thượng Sư, đoạn tuyệt phiền não, sở tri, khởi phát trí tuệ, tu đến đẳng cấp Chuyết Hỏa, sẽ luyện được thân bất tử, giáng yêu phục ma, uy chấn Thập Pháp giới, hiều được Pháp môn độc nhất vô nhị, thắng sinh thoát tử”

Giáo sư Phương Tân vỗ tay lên trán nói: “Tôi nhớ ra rồi, có một chuyện thế này. Trong truyền thuyết, toàn cảnh Mặc thoát thời cổ đại, nếu dựa theo thế núi thì vừa hay tạo thành một bức ngọa đồ (tranh nằm) của nữ thần Đa Cát Cát Bạc Mẫu. Nói như vậy, vị trí của chúng ta lúc này chính là ở giữa đùi của nữ thần. Cánh cửa sinh mệnh, chà, đây quả nhiên là Cánh cửa sinh mệnh còn gì! “

Giữa hai đùi nữ thần? Đến giờ Trác Mộc Cường Ba mới hiểu, nhìn lại hồ Nạp Bạc Thác, quả nhiên, bề ngoài hình thoi và hai hòn đảo một lớn, một nhỏ giữa hồ, vừa hay hình thành nên một cái ngoại sinh thực khí khổng lồ của phụ nữ, Cánh cửa sinh mệnh, thì ra là nơi sinh mệnh được sinh ra.

Lữ Cánh Nam thoáng đỏ mặt, thấp giọng lẩm bẩm: “Không ngờ lại liên tưởng đến chuyện ấy, những người này thật là….”

Lạt ma Á La bình tĩnh thong dong nói: “Từ khi ý thức của nhân loại manh nha xuất hiện đã có sự sùng bái rất mạnh đối với sinh thực rồi, sinh mệnh từ khi thai nghén, tới lúc sinh ra không nghi ngờ gì nữa, đây là sự việc thần bí nhất và cũng thần thánh nhất. Sinh sôi nảy nở, có nghĩa là chủng tộc có thể tiếp diễn kéo dài, trong mắt cổ nhân, không còn gì quan trọng hơn việc này cả. Hơn nữa, hợp thể giao hoan, nam nữ giao cấu, chẳng những mang đến niềm sung sướng về mặt cảm quan, mà đồng thời còn thăng hoa tinh túy, khiến con người hướng đến thần Phật, tâm trí linh đài giữ được thư thái. Đây chẳng phải chuyện cấm kỵ gì mà không thể bàn luận tới, mà nơi sinh mệnh được sinh ra, cũng chẳng phải chỗ ô uế gì hết, từ cổ tới kim vẫn có vô số tao nhân mặc khách viết thơ, vẽ tranh tán tụng, gọi nó là Cánh cửa sinh mệnh… “

Hoang phếNa Thâm nói: “Được rồi, tôi chỉ có thể đưa các vị tới đây, con đường tiếp sau đây, phải dựa vào Thánh sứ đại nhân tự tìm kiếm rồi”

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba chặt cây đóng bè, ngồi thuyền đi tới Cánh cửa sinh mệnh. Chèo bè trên sóng biếc lăn tăn, tự nhiên là cảm giác rất đặc biệt.

Na Thâm từ chối lời mời nhiệt tình của bọn Trác Mộc Cường Ba, kiên quyết không đặt một bước vào Cánh cửa sinh mệnh. Anh ta nói với Trác Mộc Cường Ba: “Từ rất lâu trước đây Đa Cát đã lên đảo xem một lần. Lần này quá nửa là anh ta đã đi theo vị thánh sứ đại nhân kia lên đảo rồi. Nếu các vị gặp anh ta, xin hãy bảo anh ta về làng nhanh lên, hãy nói là Ca Ca rất nhớ anh ta”

Trên bè, nhìn bóng Na Thâm xa dần, xa dần, Trương Lập nói: “Tên của Công Bố tộc này sao tôi cứ cảm thấy quen nhỉ”

Lạt ma Á La nói: “Công Bố là một trong những nơi phát nguyên của Bản giáo, không hiểu bên trong có quan hệ gì không”

“Đến nơi rồi” Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đưa đầy chiếc mái chèo đơn giản, cho thuyền đi một vòng quanh hòn đảo có Cánh cửa sinh mệnh, song cũng không phát hiện ra nơi nào có thể cập bờ, cách duy nhất là bám vào vách đá mà trèo lên. Mọi người thả neo bè lại, rồi lần lượt trèo vách đá, giờ đây những vách đá dốc đứng chín mươi độ này đối với họ mà nói chẳng khác gì mặt đất bằng phẳng cả, chỉ thoáng cái cả nhóm người đã lên trên đỉnh vách đá của hòn đảo nhỏ.

Trèo lên vách đá, phóng mắt nhìn quanh bốn phía, chỉ thẩy cổ thụ chọc trời, chim hót líu lo, hương hoa thơm ngát, vừa nãy là đứng ngoài xem tranh, giờ đây đã ở trong tranh nhìn ra phía ngoài, lại là một phong cảnh khác khiến người ta phải chìm đắm say mê. Sóng hồ lăn tăn, chim bay cá lội tự nhiên là không cần nhắc đến, khi ở trên đỉnh vách đá, phóng tầm mắt nhìn ra xa, chỉ thấy bốn phía núi non trùng trùng điệp điệp trải dài, xanh biếc âm u, kéo ra vô tận. Càng khiến người ta phải xúc động hơn nữa là, đỉnh núi phủ tuyết phía xa xa nhô lên nhọn hoắt, non cao đâm thẳng lên bầu trời, làm ai nấy đều sinh lòng kính phục. Thật đúng là: núi xa xanh ngắt liền một dải, đỉnh tuyết trắng xóa ánh dương hồng. Trương Lập kích động thốt lên: “Đó… đó có phải là núi Nam Ca Ba Ngõa không? Chúng ta có thể trông thấy núi Nam Ca Ba Ngõa không nhỉ?”

Lạt ma Á La nheo nheo mắt nhìn: “Ừm, không chắc lắm, cũng có thể là núi tuyết Lạp Gia Bạch Lũy, có điều nhìn từ phía này, hình như giống đỉnh Nam Ca Ba Ngõa hơn”

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên chỉ tay về phía đỉnh núi tuyết xa tít tắp kêu lên: “Mây cờ! Mây cờ kìa!”

Lạt ma Á La lập tức chắp tay tụng niệm, lầm bẩm cầu phúc trước cảnh tượng thiên nhiêm hiếm thấy này. Chỉ thấy một đóa mây trắng mềm mại như nhúm bông bay qua đỉnh núi tuyết, bị đỉnh núi chặn lại, nhưng vẫn kiên cường tiếp tục hành trình của mình, đã bị núi tuyết kéo thành một lá cờ trắng muốt khổng lồ, lại tựa hồ như một vị nữ thần thánh khiết đang giơ cao tấm vải sa màu trắng phấp phới trong gió, cảnh tượng hình tráng phi thường. Ở đất Tạng có một truyền thuyết thế này, thấy cờ mây cũng như thấy hào quang của Phật, hai Hải thị thần lâu, đều là điềm đại cát, đại phúc, trong đó nổi tiếng nhất là cờ mây trên đỉnh Chomolungma, khí thế vời vợi, quả là tác phẩm tuyệt thế của đấng tạo hóa vậy.

Nhạc Dương nói: “Hay lắm, xem ra ông trời cũng chúc chúng ta kỳ khai đắc thắng đó”

Lữ Cánh Nam cũng nhoẻn miệng cười, phát lệnh: “Lên đường thôi”

Đeo trên lưng những chiếc balo to tướng, đoàn người đi một vòng quanh đảo. Đảo này không lớn lắm, đứng trên vách đá là có thể quan sát được toàn cảnh, khắp nơi đâu đau cũng thấy cổ thụ um tùm, song cũng chưa phát hiện được điểm gì đặc biệt, cũng không có công trình kiến trúc nhân tạo nào lớn cả. Giáo sư Phương Tân và Lạt ma Á La đều cho rắng có lẽ có các kiến trúc kiều như hang động ngầm, ẩn khuất dưới tán cây, cực khó phát hiện. Lữ Cánh Nam lệnh cho mọi người tản ra tìm kiếm, chỉ một lát sau, Nhạc Dương và Trương Lập đã phát hiện lối vào hang động.

Lúc Trác Mộc Cường Ba chạy tới, chỉ thấy dưới gốc cây có một vật thể bằng đá được mài nhẵn, dài ba mét rộng hai mét, mặc dù bị phá hoại, song vẫn lờ mờ nhận ra được đường rãnh hình vòm có mái cong. Trác Mộc Cường Ba hít sâu một hơi không khí, nói: “Huyết trì”

Lạt ma Á La gật đầu nói: “Ừm, chỉ là đã không dùng được nữa rồi”

Ở ngay bên cạnh huyết trì, mặt đất như tấm vải bị chuột gặm, toác ra một hố lớn, bên trong tối đen như mực không thấy gì hết. Giáo sư Phương Tân quan sát cửa hang, nói: “Miệng hố này bung ra ngoài, chắc do thuốc nổ gây ra”

Lữ Cánh Nam mở ba lo lấy ra các thứ dụng cụ, đồng thời nói: “Chúng ta xuống dưới đó xem sao”

Mũ phát sáng đã bật, máy bộ đàm của mọi người đều mở, vũ khí giắt ở thắt lưng, dụng cụ cầm trên tay. Sau khi Trác Mộc Cường Ba nhảy xuống hố, đại khái cũng nhìn rõ được cấu tạo của hang động này. Đây là một đường hầm dốc xuống dưới, vách tường đều ốp những phiến đá dài chừng một mét, dốc chừng ba mươi độ, sâu không thấy đáy. Đi được chừng trăm bước, phía trước liền ngoặt chín mươi độ, xem ra cả đường hầm này có lẽ chạy xuống lòng đất theo hình xoáy ốc. Cứ vậy càng đi càng xuống sâu hơn, sau khoảng bảy tám lần rẽ ngoặt, cuối cùng cũng đi hết đường hầm, thế nhưng cảnh tượng trước mắt, lại khiến tất cả đều sôi trào phẫn nộ.

Đường hầm đã trở nên bằng phẳng, hơn nữa còn đột ngột rộng lớn hơn nhiều, có lẽ là do khoét lòng núi tạp thành, cao chừng bốn năm mét, rộng bốn mét, nhìn đường hầm dốc dài như vậy và hang ngầm lớn bên trong lòng núi này, là có thể tưởng tượng được công trình khi ấy quy mô đến nhường nào, sau khi hoàn thành, căn hầm ngầm này ắt hẳn phải mỹ lệ đường hoàng, hùng vĩ rực rỡ. Thế nhưng, giờ đây, những gì đập vào mắt bọn Trác Mộc Cường Ba, lại là vô số những vết đục khoét chằng chịt, lôi thôi nhếch nhác, dưới đất toàn là những mảnh sứ vỡ vụn, cả bốn bức tường đều bong tróc như da người dán thuốc cao bị mưng mủ, đâu đâu cũng thấy vết khói đen kịt do lửa hun.

Mấy người Trác Mộc Cường Ba rờ tay lên bốn bức vách, trên tường còn để lại những vết cắt thẳng thớm gọn gàng, lớp đá vôi gần những vết cắt này dày chừng ba xentimet, có thể tưởng tượng được, trước đây bốn bức tường này đều được quét vôi trát vữa, rồi vẽ lên những bức bích họa tuyệt mỹ. Sau khi bọn trộm phát hiện ra, liền vạch lên những đường phân cách trên bích họa, sau đó dùng dao cắt thành từng mảng một, rồi áp giấy da trâu lên, dán keo siêu dính, bóc cả mảng tường có bích họa xuống mang đi.

Mấy người Trác Mộc Cường Ba giẫm chân lên nền sàn như đá cuội của căn hầm, nhặt những mảnh sứ vụn, phủi đi bụi đất và muội than bám lên trên, mảnh sứ liền lộ ra những hoa văn rực rỡ, từ độ cong của mãnh vỡ có thể suy đoán, lúc còn hoàn chỉnh, những đồ sứ này chắc là rất lớn. Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn quanh khắp chốn, giờ đây, chỗ này chẳng khác gì một căn nhà cũ sau cơn hỏa hoạn, gã bỗng nhớ đến trường hợp của vườn Viên Minh, thứ gì mang đi được thì bị mang đi, không mang đi được thì đập phá xong lại cho thêm mồi lửa, ngoài muội than ra, không còn gì để lại cho những người đời đời canh giữ những thứ đó nữa cả. Từ vết tích của những mảnh vỡ còn sót lại để suy đoán, nơi này ít nhất cũng đã bị phá hủy gần một trăm năm rồi, giờ chỉ còn lại vài mảnh vun và bốn bức tường trống không, đang âm thầm kể lại câu chuyện của chúng mà thôi.

“Châu báu nhiều như lông trâu ùn ùn vận chuyển về Anh quốc…” Ngón tay Trác Mộc Cường Ba run lên bần bật, chỉ muốn tìm thứ gì đó đấm cho xả cơn tức trong lòng. Nhà thám hiềm lớn, xem ra nhà thám hiểm lơn cũng chẳng hề đáng cho người ta tôn kính chút nào.

“Bốp bốp” chỉ nghe Lữ Cánh Nam vỗ tay hai tiếng, thu hút sự chú ý của mọi người về phía mình, đoạn nói: “Đi thôi, tiếp tục tiến về phía trước, chúng ta không có thời gian ở đây tưởng nhớ quá khứ đâu, phải xem xem có nơi nào người khác chưa phát hiện hay không”

Nhạc Dương thấp giọng lẩm bẩm: “Thành ra thế này rồi, thì còn lại gì được nữa chứ”

Đại điện đã không còn nữa, khắp nơi đổ nát tan hoang, bước đi giữa đống hoang phế này, tâm trạng mọi người càng thêm trĩu xuống. Rất nhiều nơi có xương người rải rác, những người chết này đều là lao công người Trung Quốc, vì bị cưỡng ép xông vào cơ quan mà mất mạng, đồng thời bên cạnh quá nửa là có một đống đá vụn, mấy lưỡi dao hình trăng khuyết hoặc đinh sắt. Chắc là sau khi những lao công Trung Quốc đi trước dò đường bị cơ quan giết chết, bọn trộm đã dùng thuốc nổ phá cơ quan nên mới gây ra những tổn hại như vậy, một số cánh cửa lớn bằng đá cũng bị nổ thành đống đá vụn, càng đi vào trong lại c àng có nhiều xương người chết.

Nhạc Dương nói: “Tôi nghĩ, chỗ này đã bị hủy hoại tan hoang thế này rồi, mà đám người của tên Ben kia cũng đã đi qua, chắc là không còn cơ quan gì nữa đâu nhỉ?”

Trương Lập than van: “Đúng là không sao chịu nổi, lần nào cũng bị người ta bỏ lại sau lưng”

Nhạc Dương thở dài: “Đám người Công Bố đó cũng thật là, chẳng hiểu có phải họ gặp ai ở nơi khác đến cũng cho là thánh sứ cái gì không nữa”

Trương Lập nói: “Không phải đâu, nếu thế tại sao cậu không được làm thánh sứ hả?”

Lạt ma Á La nói: “Chắc là có nguyên nhân gì đó, nhưng bọn họ dựa vào điều kiện gì để đoán đinh thánh sứ thì chúng ta cũng không thể nào biết được”

Giáo sư Phương Tân lắc đầu: “Giờ không phải lúc thảo luận vấn đề này. Chỗ này đã biến thành một đống đổ nát, nhưng các sảnh các điện đã gần như tan hoang này vẫn có quy mô, nhánh rẽ lại nhiều, e là một chốc một nhát cũng khó mà đi hết được, chúng ta có cần kiểm tra tiếp không nhỉ?”

Lữ Cánh Nam khẽ nghiến răng, nói: “Nếu đã thế, vậy thì hai người một tổ, chia nhau kiểm tra đống tan hoang dưới lòng đất này đi, bật máy bộ đàm lên, chỉnh tần số 16.135, lúc n ào cũng phải giữ liên lạc”

Trương Lập và Nhạc Dương lập tức thốt lên: “Chúng tôi là một tổ”

Lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân nhìn nhau mỉm cười, nói: “Vậy thì hai chúng tôi một tổ”

Trác Mộc Cường Ba giành nói trước: “Tôi…tôi muốn chung tổ với Mẫn Mẫn”

Lữ Cánh Nam gật đầu: “Được rồi, tôi và Ba Tang một tổ, mọi người chia nhau hành động đi”

Trên đường đi, Trác Mộc Cường Ba càng nhìn lại càng thấy phẫn nộ. Đây mà là nhà thám hiểm lớn cái nỗi gì chứ? Còn chẳng bằng cả hành vi của lũ trộm cướp, còn những gì ở trước mắt gã đây, gần như dã là bi thảm nhất trần gian này rồi. Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt lại, tựa hồ như đã thấy vương triều phong kiến đang lung lay muốn sụp đổ giữa cơn mưa bão kia, các cường quốc thi nhau tranh bá, dân chúng khổ sở lầm than, đã bao người vì một bát cơm ăn, mà phải bán vợ bán con, sinh ra giữa thời loạn thế, mạng người không bằng cỏ rác, kẻ đến đây đào bới báu vật năm ấy, chỉ e cũng chẳng bỏ bao nhiêu tiền để thuê cả đám người này đâu. Phải trả giá bằng chính mạng sống của mình, mang những thứ tổ tiên để lại tặng cho kẻ khác bị sai khiến như nô lệ, chỉ vì một chút tiền nhỏ nhoi mà khom lưng cúi đầu, đây là nỗi xót xa ở tận sâu thẳm linh hồn. Trác Mộc Cường Ba nắm chặt hai bàn tay lại, thầm thề với bản thân mình: “Bất kể là thế nào, không thể đê chuyện tương tự thế này xảy ra nữa! Ben! Cho dù các ngươi muốn gì, chỉ cần là thứ mà tổ tiên người Trung Quốc để lại trên lãnh thổ Trung Quốc, cho dù một cây kim, ta cũng không cho phép các ngươi mang đi”

Hai người đi chừng ba tiếng đồng hồ trong đống đổ nát dưới lòng đất. Vẫn không ngừng đi sâu xuống dưới, vẻ huy hoàng năm xưa của kiến trúc ngầm càng lúc càng khiến người ta ngưỡng mộ say mê, còn những gì trước mắt, cũng càng lúc càng khiến người ta thấy xót xa tiếc nuối. Dọc đường có một chỗ vương vãi đầy những lá thép vụn quăn queo, xung quanh có gần ma mươi bộ xương người. Có thể thấy khi đi qua đao trận ở đây, nhà thám hiểm kia đã dùng máu thịt của đám lao công mở ra một con đường tiến tới. Còn có một chỗ dốc, dưới nền rải rác xương vỡ, đều là xương của kẻ bị xấu số bị đá đè, không ngờ đã ohur lên thành một tấng dày trên con dốc.

Trác Mộc Cường Ba không ngừng lắc đầu, tâm trạng hết sức kích động,phẫn nộ. Đến cả Đường Mẫn cũng không sao nén nổi, cất tiếng mắng chửi: “Thật đúng là, quá đáng quá, đúng là vô nhân tính”

Cuối cùng hai người dừng lại trong một gian đại sảnh, thoạt nhìn như có thể sập xuống bất cứ lúc nào. Xét về số lượng xương cốt, thì ở đây là nhiều nhất, tám chín mươi bộ xương cốt chất ngồn ngộn một đống lên nhau, tư thế mỗi bộ một khác, có những bộ xương tay còn mắc vào nhau, tư thế mỗi bộ một khác,

, tựa như là ẩu đả đến chết vậy. Ở góc Đông bắc gian đại sảnh, chồng chất một đống vại sành vại sứ vỡ nát. Hiếm có nhất là, trong đống đổ nát ấy vẫn còn một hai chiếc vại giữ được hoàn chỉnh, miệng vại như vừa mới mở chưa lâu, có một chiếc lăn sang bên cạnh, dịch thể không mai không mùi bên trong chảy ra lan thành một mảng dưới sàn. Bức tường phía trước đống xương cốt và đại sảnh khác biệt rõ rệt, hình như vẫn chưa bị động tới. Đường Mẫn nói: “Có lẽ chỗ này có cơ quan gì đó ghê gớm lắm, kiểm tra kỹ một chút rồi hãy đi tiếp”

Dựa vào trực giác, Trác Mộc Cường Ba đi thẳng tới đống vại. Đường Mẫn cũng muốn đi theo gã xem thử thế nào, song lại thấy hơi sờ sợ, bèn dứt khoát dừng lại tìm kiếm ở khu vực giữa đại sảnh.

Trác Mộc Cường Ba đi tới góc chất đầy vại sành vại sứ phía đông bắc gian đại sảnh, chỉ thấy đám vại gốm sứ vỡ nát ít nhất cũng phải tới vài trăm chiếc, hầu hết đã bị đập cho vỡ tan tành, chỉ còn lại một hai cái nguyên vẹn. Dịch thể trong chiếc vại gốm cổ dưới đất kia vẫn chưa chảy hết, rõ ràng là vừa mới bị mở ra không lâu. Trác Mộc Cường Ba đoán chắc là do nhóm người của Ben mở. Bên cạnh chiếc vại có một vật như cục thịt màu trắng, đã bắt đầu bốc mùi tanh tanh, Trác Mộc Cường Ba bước lại gần nhìn kỹ hơn, cục thịt trắng toát ấy chẳng ra hình thù gì cả, nhưng có lẽ còn nguyên vẹn, hơi giống con chó sơ sinh, to bằng nắm tay. Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát rồi ôm một vại sứ còn nguyên vẹn lắc thử bên trong vang lên tiếng ục ục, gã nhìn chỗ niêm phong trên miệng vại, người xưa đã dùng nắp gốm úp ngược lên trên miệng vại, sau đó lại bịt kín bằng một thứ tương tự như vôi, chẳng trách đã bao nhiêu năm như thế mà vẫn giữ được dịch thể bên trong. Trác Mộc Cường Ba lấy một dụng cụ hơi giống cái vòng số tám kê vào, dùng sức nạy khẽ, “cách” một tiếng, cái nắp đã nứt ra một đường, sau đó nhấc ra, không ngờ bên trong lạic òn có một nắp đá bịt kín miệng. Trác Mộc Cường Ba lại làm theo cách cũ, bật cái nắp đá đó ra, chỉ thấy bên trong cnò hơn nửa vại chất lỏng, tỏa ra một thứ mùi kỳ quái. Bảo là thơm, thì vị cay cay, chua chua lại hơi gắt, bảo là khó ngửi thì lúc xộc vào mũi lại để lại vị ngọt ngào khó tả.

Lúc này Đường Mẫn gần đó kêu lên: “Anh lại đây mà xem”

Trác Mộc Cường Ba lập tức đặt cái vại xuống, đi về phía Đường Mẫn

Cô chỉ tay vào một cọc gỗ dưới đất nói: “Anh thấy chưa, đây là dấu hiệu của các nhà thám hiểm thời kỳ đâu của thế kỷ trước rất thích sử dụng. Khi họ phát hiện ra điều gì đó hoặc đi tới chỗ nào không thể đi tiếp về phía trước được nữa, đều để lại một dấu hiệu như thế này”

Trác Mộc Cường Ba bước tới: “Nói như vậy nghĩa là kẻ vào đây hơn một trăm năm về trước đã không thể qua được cơ quan ở đâ, và đành phải bỏ cuộc để lần sau đến tiếp”

Đường Mẫn chỉ tay vào đầu kia của thông đạo: “Nhưng bọn người Ben chắc chắn đã đi qua rồi. Bên kia có ánh lửa, chúng ta cũng tới xem đi”

“Đừng, đừng vội” Trác Mộc Cường Ba nói “không biết sau khi chúng đi qua có khôi phục lại cơ quan không nữa” Lần trước ở địa cung ** Puch, bọn gã đã phát hiện rất nhiều cơ quan mà trong cuốn sổ tay ghi là đã bị phá hoại, lại được người nào đó khôi phục công năng ban đầu, đã mấy lần suýt mất mạng.

Đường Mẫn nói: “Đường đi rất hẹp, chỉ cho một người qua thôi, bất kể là có cơ quan ở phía trước hay hai bên cũng đều khó để tránh né. Mà chốt lẫy để cơ quan phát động, thông thường đều lợi dụng trọng lực để bật lên, cũng chính là mặt sàn mà chúng ta đặt chân lên ấy”

Trác Mộc Cường Ba nhìn sàn nhà dưới chân, ước chừng một mét vuông ghép lại. Kết cấu sàn nhà thế này khá phổ biến trong địa cung ** Puch, là loại kết cấu dễ đặt cơ quan bẫy rập nhất. Có điều Trác Mộc Cường Ba bây giờ đã không còn là gã Trác Mộc Cường Ba ở địa cung ** Puch nữa rồi. Gã mỉm cười, tràn đầy tự tin nói: “Đã đến lúc kiểm tra hiệu quả huấn luyện của chúng ta rồi. Anh lên thử trước xem sao, em đừng đi theo đấy nhé”

Đường Mẫn gật đầu: “Anh cẩn thận đấy”

Trác Mộc Cường Ba giẫm lên phiến đá đầu tiên, cảm thấy hơi lún xuống, gã liền nhanh chóng giật ngược lại, chỉ nghe “đinh” một tiếng, một vật thể đã bắn trúng bức tường đối diện lối đi. Trác Mộc Cường Ba lại gần nhìn kỹ, hóa ra là một cây đinh ba màu xanh lam. Đường Mẫn tái mặt thốt lên: “Tầm thuốc độc rồi, đinh độc đấy”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm, có điều chắc là không bắn ra liên tiếp được, anh thử lần nữa xem nào” Gã lại giẫm chân lên phiến đá, quả nhiên không thấy điều dị thường nữa. Trác Mộc Cường Ba giờ mới cẩn thận giẫm lên phiến đá thứ hai, đột nhiên cả người thụt xuống. Gã liền lộn ngược một vòng, lăn tròn sang bên, lại trở về bên cạnh Đường Mẫn. Chỉ nghe tiếng sột soạt vang liên liên tiếp, không có thứ gì bắn ra. Nhìn lại phía lỗi đi, mới thấy hai bên vách tường lóe lên những tia sáng lành lạnh rồi biến mất, thoắt sau lại lóe lên. Trac lẩm bẩm nói: “Đao trận, đây là lần đầu tiên anh tận mắt thấy đao trận do cổ nhân thiết kế đấy” Đặc điểm của loại cơ quan truyền thống này chính là giấu lưỡi đao sắc bén bên trong vách tường, lợi dụng khe hở trên tường che giấu, một khi phát động, sẽ như xoay chuyển như cưa máy, vị trí trên dưới khác nhau, người bình thường khó mà tránh nổi.

Trác Mộc Cường Ba lại bước tới trước lối đi đó, quan sát vị trí cụ thể của đao trận. Chỉ thấy ở hai phiến đá thứ năm, thứ sáu đao trần đều sắp đặt ở khoảng dưới đầu gối sau đó độ cao bắt đầu lên đến đùi non, rồi đỉnh đầu đan xen lẫn nhau, người bình thường tuyệt đối khó có thể vượt qua nổi. Trác Mộc Cường Ba ngấm ngầm tính toán, chỉ cần nắm chắc thời gian, nhảy qua chỗ đao thấp, sau đó trượt người sát mặt đất, vậy là có thể tránh được toàn bộ đao trận. Gã suy tính xong xuôi, liền bắt đầu chạy đà, song lại quên mất tác dụng của hai phiến đá thứ ba và thứ tư. Vừa giẫm lên phiến đá thứ tư, Trác Mộc Cường Ba liền lập tức cảm thấy không ổn.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.