Lời mở đầu:
Công nguyên năm 838, vị vua cuối cùng của dân tộc Thổ Phạn là Lãng Đạt Ma lên ngôi Tán Phổ, tuyên bố diệt Phật. Trong cuộc tàn sát ấy, các tăng lữ đã mang một lượng lớn kinh điển và thánh vật đi chôn giấu tại một nơi bí mật, ở đó họ dựng lên một ngôi thần miếu, đặt tên là Bạc Ba La. Thời gian dần trôi, chiến tranh không dứt, ngôi thần miếu ẩn chứa biết bao báu vật Phật gia đã hoàn toàn biến mất trong lớp bụi lịch sử…
Nhiều năm sau, Trác Mộc Cường Ba, một thương nhân đồng thời là kẻ ưa thích chó ngao Tây Tạng, loài chó dũng mãnh nhất thế giới, nhận được một phong thư lạ. Trong đó có hai bức ảnh chụp Tử Kỳ Lân, một loài linh thú từ thời viễn cổ, một con ngao hoàn mỹ nhất trên đời. Và thế là, không có gì có thể ngăn cản anh ta dấn thân vào một chuyến phiêu lưu vào sâu trong vùng đất băng giá khốc liệt Tây Tạng để truy tìm giấc mơ trọn đời. Để rồi, theo dấu Tử Kỳ Lân cũng là theo dấu Bạc Ba La thần miếu vĩ đại. Cả một nền văn hóa Tây Tạng mênh mông và huyền hoặc đã dần dần hiện ra. Cùng một giáo sư khuyển học uyên thâm mà hiếu động, một chàng đặc nhiệm lực sĩ và bồng bột, và một kỳ nữ đỏng đảnh nhưng thuần hậu, Trác Mộc Cường Ba đã có cơ hội khám phá những kinh nghiệm sống tột cùng đáng say mê…
Tập 1
Phương Tân tự thấy rằng mình đã từng trải sự đời, không còn thứ gì có thể hấp dẫn nổi ông nữa, nhưng giờ đây, thứ Trác Mộc Cường Ba mang tới, đã lại một lần nữa khiến ông động lòng, ông nôn nóng muốn xem rốt cuộc là thứ gì mà có thể khiến Trác Mộc Cường Ba xem trọng đến vậy.
Trác Mộc Cường Ba lại trêu ngươi ông, lần chần mãi không chịu mở cái tráp vàng, thấy Phương Tân cứ nhìn chằm chằm vào chiếc tráp, hai con mắt sắp rơi ra ngoài, mới đẩy nó tới trước mặt ông, tôn kính nói: “Thầy giáo, xin mở ra xem thử đi!”
Bắt đầu từ một tấm ảnh
Trác Mộc Cường Ba, cao một mét tám mươi bảy, chính xác là lưng hùm eo gấu, tóc dài, da mặt màu đồng cổ, toàn thân không chỗ nào không toát ra sức mạnh không giấu nổi. Nhưng thường ngày, gã là con người cực kỳ hoà nhã, đồ Tây thẳng thớm, đeo đôi kính gọng khoan nhỏ hình vuông, trên mặt lúc nào cũng nở nụ cười, có người gọi gã là Trác tổng, cũng có người gọi gã là giáo sư, còn bạn bè thân thiết thật sự thì đều gọi gã là Cường Ba.
Trác Mộc Cường Ba, người Tạng, bốn mươi hai tuổi, tổng giám đốc Công ty Nuôi Luyện Danh Khuyển Thiên Sư, cũng là giáo sư thỉnh giảng của khoa Sinh vật Đại học Phúc Đán, chuyên giảng về các giống chó nổi tiếng thế giới. Trác Mộc Cường Ba sinh tại một ngôi làng nhỏ có tên Đạt Nghĩa Nô Thố nằm tít sâu trong đất Tạng, kề sát khu không người, tên của gã, ý nghĩa vốn chỉ người có thể chiến thắng biển lớn. Gã không làm cha mẹ mình thất vọng, nay đã là tổng giám đốc công ty có tài sản hàng trăm triệu Nhân dân tệ, cũng là giáo sư của một trường đại học danh tiếng, có thể nói là công thành danh toại, vốn lập nghiệp của gã, không phải thứ gì khác, chính là chó.
Tiểu bang Pensylvania, nước Mỹ.
“Mấy nghìn năm nay, cả thế giới đều công nhận, giống chó hình thể lớn nhất, tính cách hung mãnh nhất, gọi là ngao. Đó là đặc sản của đất Tạng chúng tôi, đã tồn tại từ mấy nghìn vạn năm trước, cách đây khoảng hai nghìn năm thì lưu truyền sang Hy Lạp, sau sang đế quốc La Mã, rồi lại do người Slave ở Đông u du nhập vào các nước châu u, đến nay trong cơ thể các loại chó nổi tiếng thế giới vẫn còn giữ được gien di truyền của giống ngao Tây Tạng – ở Lhasa, và khắp trên đất Tạng, giống chó độc đáo nhất phải tính đến ngao…” Trác Mộc Cường Ba đứng diễn giảng hùng hồn trên sân khấu bài trí lộng lẫy, kể cho các tân khách đến tham quan lịch sử của giống chó ngao Tây Tạng.
Đây là lễ khai mạc giải đấu chó ngao đẳng cấp thế giới do công ty gã xuất tiền tổ chức, một mặt để có thể tuyên truyền về ngao Tây Tạng trên các phương tiện truyền thông, nâng cao hiểu biết của mọi người về giống chó này, mặt khác cũng để giới thiệu cơ sở nuôi luyện của gã với người nuôi chó ngao toàn thế giới, cho bọn nó mở rộng tầm mắt, biết thế nào mới gọi là chó ngao chân chính.
Trong hội trường, phóng viên các nước mấy trăm người, khách đến dự lễ khai mạc hơn tám nghìn người, trong số đó rất đông người yêu chó ngao từ trong nước đặc biệt bỏ công sang tham dự. Trác Mộc Cường Ba mỉm cười nói: “Hiện nay, chó ngao thuần chủng một con giá khoảng trên trăm nghìn Đô la Mỹ. Tuy nói người nuôi chó ngao không ít, nhưng tôi có thể cam đoạn với các vị rằng, chó ngao thuần chủng nhất thế giới chỉ có ở cơ sở của chúng tôi, chó ngao tuyết, chó ngao đỏ, thiết bao kim, ở chỗ chúng tôi đều là loại ưu tú nhất…”
Trong sảnh đầu người lố nhố, mọi người đều biết, vị tổng giám đốc Trác này, vốn xuất thân từ đất Tạng, chó ngao nuôi ở cơ sở của ông ta, trong nước tuyệt đối có thể đứng hàng thứ nhất, thứ nhì, còn bản thân ông ta cũng nghiên cứu rất sâu về chó ngao, tuyệt đối chưa bao giờ nhìn lầm. Những người có chó dự thi đấu lần này, ngoài hy vọng giành ngôi hạng cao, không ai là không mong ngao của mình lọt mắt xanh Trác tổng, có thể vào cơ sở Nuôi Luyện Danh Khuyển Thiên Sư phối giống, để có những con ngao Tây Tạng thuần chủng hơn nữa.
“Nếu Tạng ngao rời khỏi Tây Tạng, có còn gọi là ngao nữa không?”
Thông thường khi Trác tổng nói chuyện, ai nấy chỉ yên lặng lắng nghe, ngong ngóng có thể học hỏi được chút ít kiến thức liên quan đến nuôi dưỡng huấn luyện chó ngao. Vậy mà, giữa một hội nghị lớn thế này, không biết là người nào, đột nhiên phá vỡ sự yên lặng, khiến tất thảy đều giận dữ, mấy người mua ngao lên tiếng phản bác tức thì: “Sao lại không gọi là ngao nữa?”
“Chú mày cởi mẹ hết quần áo ra, có còn gọi là người nữa không?”
“Đúng là vớ vẩn!”
Người kia rõ ràng không địch nổi bao người đang nổi giận, thoắt cái đã không thấy đâu, Trác Mộc Cường Ba cười cười ngăn mọi người lại, nói: “Không sai, chó ngao ở đất Tạng mới có được hình thể to lớn hung mãnh và khí chất lấn át của chúng. Cũng có rất nhiều người hỏi tôi, tại sao chó ngao ở cơ sở của chúng tôi so với những nơi khác, nhìn uy mãnh hơn, thần thái hơn, kỳ thực chó ngao ở chỗ chúng tôi, trước giờ vẫn luôn được chọn ở đất Tạng, nuôi thả trên đất Tạng, huấn luyện thuần hoá cũng trên đất Tạng, đấy tuyệt đối là chó ngao Tây Tạng chân chính.” Đám đông giờ mới yên lặng trở lại, tiếp tục nghe Trác Mộc Cường Ba thuyết giảng.
Tuy mọi người đều không biết ai vừa lên tiếng, nhưng Trác Mộc Cường Ba từ lâu đã chú ý, kẻ đứng bên cửa, mũ rộng vành sùm sụp, đeo kính râm, mặc áo khoác gió che kín mặt, vừa rồi chính là y đã lên tiếng hỏi.
Trác Mộc Cường Ba vẫn đường đường tự tin và hãnh diện, tiếp tục diễn giảng, gã lấy hình mấy con chó ngao ưu tú nhất của cơ sở, dùng máy chiếu chiếu lên bức tường phía sau, cả đám người phát ra những tiếng ồ à kinh ngạc, làm Trác Mộc Cường Ba vô cùng thoả mãn. Sắc mặt cũng vì kích động mà hồng nhuận lên, gân xanh nổi gồ khắp trán, biểu lộ gã bắt đầu hưng phấn dưới ánh đèn flash chớp sáng.
Vừa lúc đó, một đứa nhỏ cầm thứ gì không rõ, chen qua hàng người lên phía trước, gần đến bục diễn giảng tới nơi thì bị mấy gã lừng lững chặn ngang lại. Trác Mộc Cường Ba liếc mắt, thấy trên người nó không có vũ khí gì để tấn công, trong tay chỉ cầm một vật nom giống phong thư, liền đưa mắt ra hiệu, đám vệ sĩ liền nhận lấy món đồ nó định trao Trác Mộc Cường Ba, trực tiếp đưa cho gã. Đứa nhỏ đưa thư xong, lập tức chạy đi, cơ hồ như được người ta nhờ vả.
Trác Mộc Cường Ba một tay chỉ bức ảnh lớn phía sau, miệng nói về sự xuất sắc và thuần chủng của chó ngao ở cơ sở của gã, tay kia bóc lá thư ra xem.
Khoảnh khắc phong thư được mở ra, khuôn mặt gã vụt tắt nụ cười quen thuộc, toàn thân chợt đờ đẫn ngây ngẩn trên bục diễn giảng sáng rực ánh đèn.
Mọi người đều đang chăm chú nghe Trác Mộc Cường Ba diễn giảng, gã vừa dừng lại, cả hội trường gần vạn người thành ra im phắc, chỉ còn tiếng cửa trập máy ảnh vang lên đâu đó trong các góc. Biến cố bất ngờ làm ánh mắt ai nấy dồn cả vào Trác Mộc Cường Ba, chỉ thấy gã mở mắt nhìn tấm ảnh trừng trừng, như người lạc hồn lạc vía, gương mặt mất sạch sắc hồng nhuận ban đầu, chuyển sang trắng bợt. Liền đó họ nhận ra Trác Mộc Cường Ba không còn tự chủ, từ một tay cầm thư, chuyển thành hai tay nâng nó lên, run rẩy, khoé miệng hơi mấp máy, những người ngồi hàng đầu còn phát hiện, đuôi mắt Trác Mộc Cường Ba đang giật giật, rõ ràng là vô cùng kích động, đám phóng viên nhạy cảm không để lỡ thời cơ, lập tức giương máy quay lên ghi lại biến cố này.
Ước chừng nửa phút sau, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên bừng tỉnh, chộp lấy microphone, kêu lên: “Anh bạn, đợi chút!” Giọng gã lạc hẳn đi, trở nên khan khan chói tai, gã dường như không hề trông thấy các phóng viên và tất cả những người khác, chỉ nhìn chằm chằm đứa nhỏ kia, hỏi: “Ai đưa cho cậu thứ này vậy?”
Đứa nhỏ rõ ràng bị vẻ mặt của Trác Mộc Cường Ba làm sợ hãi, không đáp lại câu nào, chỉ hoảng hốt đưa mắt ra phía cửa, cuống cuồng chen khỏi đám người. Trác Mộc Cường Ba nhìn theo ánh mắt đứa nhỏ, người “áo gió kính đen” ban nãy đã biến mất từ lúc nào không hay. Gã không buồn tiếp tục diễn giảng, mà nhảy xuống khỏi bục cao, chen ra phía cửa. Cử chỉ đột ngột này khiến cả hội trường nhốn nháo, đám phóng viên chen lấn nhau len ra, nhóm vệ sĩ thì cố sức mở đường giúp Trác Mộc Cường Ba, người muốn xông tới trước, người muốn lui lại phía sau, tình hình nhất thời hoàn toàn không thể khổng chế.
Giữa lúc hỗn loạn, Trác Mộc Cường Ba biến mất! Mọi người xôn xao bàn luận, đứa nhỏ kia rốt cuộc đã đưa thứ gì cho Trác Mộc Cường Ba, sao gã có thể để mất mặt ngay trước ống kính phóng viên, bất chấp cả lễ khai mạc trọng thể mà đích thân đuổi theo. Một điều càng bất ngờ nữa là sau đó mấy ngày, trong giải thi đấu chó ngao đẳng cấp nhất thế giới này tuyệt nhiên không thấy bóng dáng Trác Mộc Cường Ba, người đề xướng và chủ trì giải đấu. Có người bảo đó là thư tống tiền, bên trong là ảnh Trác Mộc Cường Ba và tình nhân của gã thông gian, mấy người ngồi hàng đầu rõ rành nhìn thấy ảnh trong bì thư, cho nên khối người tin giả thiết này, còn đám phóng viên thì chắc mẩm không có lửa, sao có khói, càng đổ thêm dầu vào lửa, đặc tả dông dài, nhất thời, tiếng tăm Trác Mộc Cường Ba giờ đây thành ra lại lớn gấp cả hai chục lần so với hai mươi năm về trước.
Trong khi các phóng viên đang khuấy động ồn ào câu chuyện, Trác Mộc Cường Ba đã ở Thượng Hải, tại nhà giáo sư Phương Tân. Trác Mộc Cường Ba chỉ là giáo sư thỉnh giảng, còn Phương Tân là giáo sư động vật học thực thụ, chuyên nghiên cứu các giống chó, năm nay đã sáu lăm tuổi, từng là thấy hướng dẫn nghiên cứu loài chó của Trác Mộc Cường Ba, về sau trở thành đôi bạn hợp tác chuyên nghiên cứu chó ngao Tây Tạng, nhưng giáo sư Phương Tân chỉ dừng lại ở khía cạnh học thuật, kiên quyết phản đối việc dùng Tạng ngao để kinh doanh, khiến bọn họ phân ly mỗi người một ngả. Về sau sự nghiệp kinh doanh của Trác Mộc Cường Ba lên như diều gặp gió, còn giáo sư Phương Tân vẫn chỉ là một nhà nghiên cứu vô danh, nhưng để biểu thị lòng cảm tạ giáo sư Phương Tân vì sự khơi mở và hỗ trợ chuyên môn về thuộc tính sinh vật, Trác Mộc Cường Ba hết sức ủng hộ công tác học thuật của ông, nay giáo sư đã trở thành nhân vật có uy tín trong giới học thuật chuyên nghiên cứu loài chó, con chó nào muốn trở thành danh khuyển cấp quốc tế, cách tốt nhất chính là được giáo sư công nhận. Mới đây, ông bắt tay viết một luận văn về huyết thống Tạng ngao, gần như là biên soạn một bảng phả hệ cho chó ngao Tây Tạng trên toàn thế giới, sau này ai muốn truy tông tích chó ngao, đều phải dò tìm trong đó. Bản luận văn được viết để tham gia hội nghị sinh vật học Matthew Liya, nghe nói hội nghị lần này sẽ trao cho giáo sư Phương Tân giải thưởng đặc biệt, ý nghĩa không khác gì giải Nobel Động vật học, là vinh dự tối cao đối với các nhà Động vật học.
Phương Tân tóc đã bạc trắng từ lâu, nhưng tinh thần vẫn còn rất quắc thước, hai mắt sáng rực có thần, ông châm điếu thuốc Trung Hoa theo thói quen, rít một hơi, rồi nói: “Tuần sau tôi đi Đức tham dự hội nghị sinh vật học, nghe nói anh mang đến một thứ rất đặc biệt? Là thứ gì có thể khiến anh bỏ cả cơ hội thể hiện mình ở cuộc thi chó ngao bên Mỹ mà bay về Thượng Hải thế?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Thầy giáo (gã vẫn giữ cách xưng hô này), xin xem thử thứ này…” Vừa nói, gã đặt chiếc va li nhỏ trên tay xuống bàn. Đó là chiếc va li chống trộm bằng thép chuyên dùng vận chuyển tiền, bên ngoài bọc da. Phương Tân giờ mới để ý thấy Trác Mộc Cường Ba đã dùng còng tay cẩn thận khoá chiếc va li đó vào tay gã. Phương Tân giật mình kinh ngạc, phải biết rằng, Trác Mộc Cường Ba đã hai lần đoạt chức quán quân Khố Bái (còn gọi là Suất Túc(1)) của đặc khu Tây Tạng, bản thân rất giỏi võ, cảnh sát bình thường cũng không phải là đối thủ của gã, gã từng giúp người ta mang một viên kim cương giá tới hai mươi triệu Đô la, bất quá cũng chỉ tuỳ tiện tìm một cái túi vải bọc lại, cho vào túi áo, xưa nay chưa bao giờ thấy gã mang thứ gì mà cẩn thận như vậy.
Nhưng sau khi Trác Mộc Cường Ba mở va li, Phương Tân lại càng kinh ngạc hơn, trong va li đặt một cái tráp vàng hình vuông, mỗi cạnh chừng ba mươi xăng ti mét, phù điêu khắc bên trên sống động như thật, bốn góc khảm thứ ngọc mắt mèo hiếm thấy, hạt nhỏ nhất cũng phải đến mười ba carat. Phương Tân biết, đây là tráp báu vật gia truyền của Trác Mộc Cường Ba, chỉ riêng giá trị của tráp đã không thể dùng tiền mà tính rồi, chiếc tráp này, hồi trước dùng để kinh Phật, về sau truyền đến đời bố Trác Mộc Cường Ba, kinh Phật hiến tặng cho nhà nước, được coi là bộ kinh thánh Ninh Mã hoàn chỉnh duy nhất được “thỉnh” vào cung Bố Đạt La, chiếc tráp này từ đấy luôn để trống, Trác Mộc Cường Ba thường hay cười cười huênh hoang, cả đời này chỉ sợ không tìm được thứ gì có thể đặt vào trong tráp này nữa. Nhưng hôm nay, lại có thứ gì được đặt vào trong đó đây?
Phương Tân tự thấy rằng mình đã từng trải sự đời, không còn thứ gì có thể hấp dẫn nổi ông nữa, nhưng giờ đây, thứ Trác Mộc Cường Ba mang tới, đã lại một lần nữa khiến ông động lòng, ông nôn nóng muốn xem rốt cuộc là thứ gì mà có thể khiến Trác Mộc Cường Ba xem trọng đến vậy.
Trác Mộc Cường Ba lại trêu ngươi ông, lần chần mãi không chịu mở cái tráp vàng, thấy Phương Tân cứ nhìn chằm chằm vào chiếc tráp, hai con mắt sắp rơi ra ngoài, mới đẩy nó tới trước mặt ông, tôn kính nói: “Thầy giáo, xin mở ra xem thử đi!”
Phương Tân đeo găng tay bằng tơ trắng, cẩn thận mở chiếc tráp ra, trong tráp không có thứ gì khác, chỉ có một thứ duy nhất – ảnh! Nhưng nét mặt Phương Tân cũng giống như Trác Mộc Cường Ba khi vừa nhìn thấy thứ này vậy, đờ đẫn như khúc gỗ!
(1) Suất Túc: môn đấu vật của người Tạng
Bí mật trong tấm ảnh
Nói một cách chính xác, trong tráp để hai tấm ảnh. Tấm thứ nhất có bối cảnh thảo nguyên mênh mông, dăm khóm cây bụi lúp xúp mọc rải rác trên trảng cỏ, trời xanh mây trắng, chính giữa nổi lên một cơn gió lốc màu đen. Nhìn kỹ lại, thì ra không phải gió, mà là cái bóng lờ mờ của một con vật, cả tấm ảnh rất mờ, người thạo nghề nhiếp ảnh đều biết, đó là do tay người chụp run quá, nhưng vẫn có thể mang máng nhận ra bộ lông con vật. Tấm ảnh thứ hai, bối cảnh vẫn là thảo nguyên, nhìn kỹ hơn sẽ phát hiện ra vị trí chụp ảnh không hề thay đổi, cũng dãy núi đó, cũng chính những bụi cây đó, ngay cả ngọn cỏ cũng giữ nguyên vị trí, chỉ có cảnh trời xanh mây trắng bị sắc đêm thay thế, có nghĩa là người chụp ảnh đã phục nguyên tại chỗ từ sáng sớm đến tối mịt không hề nhúc nhích. Bóng đen kia đã chìm hẳn trong màn tối, nhưng tấm ảnh thứ hai rõ hơn tấm thứ nhất, bởi vì cái bóng cách điểm đặt máy ảnh gần hơn, thêm nữa còn đối diện với vị trí của người chụp.
Trên tấm thứ hai, cái mặt mờ mờ hình như là của sư tử đực châu Phi, những nếp nhăn trên cổ liền với lông bờm giống hoa hướng dương ôm lấy khuôn mặt. Nhưng xem thân thể nó thì khác hẳn sư tử; sư tử châu Phi, vì nguyên nhân địa lý, khí hậu, chỉ quanh đầu và sau gối mới có tí lông bờm, còn con vật này, toàn thân phủ kín lớp lông vừa dày vừa dài, y hệt một con bò Yak, dũng mãnh và tráng kiện.
Giáo sư Phương Tân cầm hai tấm ảnh lên, hồi lâu không nói được tiếng nào, hình thể như bò Yak Tây Tạng, đầu sư tử, đường nét như báo, con vật phủ kín lông đen trong tấm ảnh, mỗi múi thịt trên cơ thể đều phác thành những đường nét gần như hoàn mỹ, bên trong ẩn chứa sức mạnh vô song, thoạt nhìn tựa như một mũi tên có thể lao vút bất cứ lúc nào, từng động tác không khác gì của một động vật họ mèo đang thủ thế chực vọt đi. Nhưng ông biết chắc chắn, đây là một động vật họ chó, đầu vuông tai nhỏ, mõm ngắn nhưng miệng há cực rộng, lưng thẳng bụng thon, bốn chân to như cây cột, bất luận là nhìn từ góc độ nào đi nữa thì đây cũng chính là một con chó ngao Tây Tạng đúng tiêu chuẩn. Hơn nữa, không phải là Tạng ngao thông thường, Tạng ngao thông thường không lớn như vậy, không chắc nịch như vậy, không dũng mãnh và điềm tĩnh uy nghi như vậy, nó hiện lên lừng lững, tựa người khổng lồ bằng thép, lẫm liệt khí chất của bậc vương giả, dã tính trời sinh khiến ánh mắt như bao trùm trời đất, vô cùng uy phong lao đi giữa chốn thảo nguyên.
Giáo sư Phương Tân ngắm suốt nửa giờ đồng hồ, không nói năng gì, Trác Mộc Cường Ba mỉm cười nhìn ông, gã biết giáo sư đang nghĩ gì, trong đầu ông giờ đây chắc hẳn là một vùng trắng xoá, giống như gã lúc nhác trông thấy hai tấm ảnh này vậy. Bởi vì chỉ như trong ảnh mới có thể gọi là Tạng ngao chân chính, chỉ ở trên cao nguyên mới có được bầu trời xanh trong vắt như thế, mây trắng sà xuống cách mặt đất thấp như thế, chừng như vươn tay ra là có thể gỡ được một cụm, những khóm cây kia, nào tuyết tùng, ma hoàng, liễu lá cứng, đều là những loài thực vật đặc sắc của cao nguyên, ngoài ra còn dăm ba loài thực vật đặc sắc của cao nguyên, ngoài ra còn dăm ba loài gần như chỉ ở đất Tạng mới có. Riêng con ngao, Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân đều là những bậc lão làng trong giới, chẳng cần đến cái liếc mắt thứ hai đã có thể chắc chắn đây là con ngao tuyệt nhất mà họ từng thấy, hình thể hoàn mỹ nhất, khí chất hoàn mỹ nhất, càng hiếm có là, con ngao này còn sở hữu một cái gì đó không con Tạng ngao nào khác có được, tuyệt đối không thể dùng ngôn ngữ mà tả nổi là cái gì. Trác Mộc Cường Ba cố kiềm chế hơi thở, lấy tay gõ nhẹ lên đùi, mỗi lần nhìn hai tấm ảnh này, gã đều kích động đến muốn khóc, không kiểm soát nổi đôi tay, cho dù đã xem đi xem lại vô số lượt, thế mà các ngón tay lúc này cũng chỉ miễn cưỡng không run rẩy.
Phương Tân tháo cặp kính lão xuống, một lúc sau, lại đeo lên, sau đó lại tháo xuống, cứ lặp đi lặp lại như vậy đến mấy chục lần, rồi mới ấn mạnh tay chỉ vào tấm ảnh nói: “Không thể nào, đây là giả, ảnh do máy tính dựng thôi!”
Trác Mộc Cường Ba đứng bật dậy, chỉ tay vào giáo sư, sắc mặt bỗng trắng bệch, gã không thể ngờ giáo sư Phương Tân xem lâu như vậy, mà lại đưa ra kết luận như thế, nếu ông không phải là người gã tôn kính, chỉ e là gã đã lập tức ra tay đánh người rồi.
Giáo sư Phương Tân ra hiệu cho gã bình tĩnh lại, chỉ vào tấm ảnh nói: “Chúng ta xem tấm này trước, đây là ảnh chụp ban ngày, tuy bối cảnh rất mơ hồ, nhưng những loài thực vật trong ảnh vẫn có thể phân biệt rõ ràng được, anh xem, đây là vân sam Tứ Xuyên, nhìn đường kính thì chắc đã trưởng thành, chiều cao của chúng khoảng ba mươi đến bốn mươi mét, còn cả cây tuyết tùng bên cạnh con ngao này nữa cũng đã trưởng thành, chiều cao có lẽ khoảng mươi đến mười lăm mét, nếu vị trí của người chụp ảnh là cố định, chúng ta có thể lấy mắt đo để suy đoán ra khoảng cách giữa hai gốc cây này với con vật, trên cùng một đường thẳng, dựa vào tỷ lệ thu nhỏ, vậy là tính ra được chiều cao của nó. Tôi tính sơ sơ một chút, nếu nó quả có thật thì vai nó phải cao từ một mét hai đến một mét tư, vậy thì, lúc nó đứng dựng lên, chiều cao phải hơn hai mét rưỡi, đó không còn là chó nữa rồi, căn bản là một con nghé thì đúng hơn. Những con chó mà tôi từng tiếp xúc, con cao nhất vai cũng không quá một mét linh năm, mà theo tất cả các báo cáo hiện nay, con chó cao nhất đứng dựng lên cũng không quá hai mét mốt. Chiều cao của chó ngao thế nào thì anh cũng biết, vai cao khôn thể quá tám mươi xăng ti mét, chiều dài không quá một mét rưỡi, anh đã bao giờ thấy con chó to như thế này chưa?”
Trác Mộc Cường Ba kích động nói: “Nhưng, chó ngao đúng là chủng loại to nhất trong loài chó, chó bốn xích (1) là ngao, vốn chữ “ngao” trong tiếng Hán là để chỉ giống chó to lớn giỏi đánh nhau, chó chăn cừu, chó săn của Đức, chó Đan Mạch, chó Saint Bernard của Thuỵ Sĩ, những giống chó được cả thế giới công nhận là hình thể lớn nhất, cũng đều mang huyết thống của ngao. Vì vậy, có một con ngao hình thể đặc biệt to lớn cũng không phải là điều gì kỳ quái.”
“Đặc biệt to lớn?” Giáo sư Phương Tân nhếch mép cười: “Không sai, nhưng anh phải biết rằng, môi trường sinh tồn của nó là ở đâu, là cao nguyên, cao nguyên cao nhất thế giới, cao nguyên Thanh Tạng.”
Trác Mộc Cường Ba đỏ mặt, lẩm bẩm nói: “Vậy… vậy thì sao chứ?” Gã biết rõ, kiến thức chuyên môn của mình vẫn không so được với thầy giáo.
Phương Tân nói: “Cao nguyên là môi trường sống rất đặc thù, không khí loãng, hàm lượng ô xy thấp, các giống loài đều đã thích nghi với môi trường không khí thiếu ô xy, địa thế cao dần thì hình thể thấp dần, động vật ở đây đa phần đều rất lùn nhỏ, da dày lông dài, bốn chân to mà ngắn, để tiết kiệm năng lượng cần cho máu vận chuyển ô xy trong cơ thể, bảo đảm cho đầu óc được tỉnh táo. Anh đã học qua rồi, các loài vật trên cao nguyên, hình thể đều thấp nhỏ hơn đồng loại ở những khu vực có độ cao so với mực nước biển thấp hơn, còn trong tấm ảnh này, có một cây dương xỉ lùn chỉ sinh trưởng ở vùng cao, cũng có nghĩa là, con chó ngao trong bức ảnh này, sinh sống ở một nơi còn cao hơn cả nơi sinh sống của những con chó ngao đồng loại, vậy thì nó không thể có hình thể cao lớn hơn đồng loại được.” Phương Tân nói xong, mở máy tính trên bàn, chậm rãi tiếp tục, “Chúng ta dùng máy tính phân tích, anh hãy xem độ nét của tấm ảnh,, chỉ số nhoè của cỏ chỉ 2,4, có thể cho là do tay người chụp không vững gây ra, nhưng anh xem chỉ số nhoè của con cái quái này xem, lại cao đến 6.7, máy chụp ảnh thông thường, từ lúc mở cửa trập đến khi ánh sáng ùa vào, thời gian từ 0,005 đến 0,01 giây, cũng tức là, trong một phần hai trăm giây, con quái này di động hai mươi xăng ti mét hoặc nhiều hơn, chúng ta tính tương đương ra, vận tốc của nó có thể đạt tới bốn mươi mét một giây, hay một trăm bốn mươi ki lô mét một giờ, nhưng, báo đốm là động vật chạy nhanh nhất trên lục địa, tốc độ cao nhất chẳng qua cũng chỉ một trăm hai mươi ki lô mét một giờ, anh cho rằng, con ngao này, chạy nhanh hơn cả báo đốm Ghê pa hay sao?”
Trác Mộc Cường Ba bắt đầu hơi nhụt chí, lầm bầm nói: “Nhưng, thầy giáo, chỉ số nhoè rất không ổn định, dựa vào mức độ thấp nhất là một phần trăm giây để tính, tốc độ của nó chỉ khoảng tám mươi ki lô met một giờ, tốc độ bộc phát trong khoảng khắc của một con ngao, hoàn toàn có thể đạt được yêu cầu này.”
Phương Tân gật đầu: “Được rồi, vậy coi như tốc độ có thể đạt yêu cầu đi, chúng ta sẽ phân tích huyết thống của nó, chó ngao trên thế giới hiện nay hầu như đều bắt nguồn từ Thanh Tạng, tổng cộng có ba loài bảy chi sáu họ, màu lông có đen tuyền, trắng tuyền, nâu đỏ, màu xám, chân vàng lưng đen, có ngao vàng, cũng có cả ngao đỏ, ngao mắt trắng đầu sư tử, ngao song đồng báo hiếm gặp, nhưng anh nhìn con này mà xem, màu lông của nó, anh nhìn thật kỹ đi, đây không phải màu đen, cũng không phải màu nâu, nếu đúng là nó tồn tại, đây căn bản là một giống ngao chưa bao giờ xuất hiện. Lông của nó, màu tím, thứ màu tím đỏ cực sậm.” Phương Tân nói tới đây, vô thức đưa tay lên nâng kính, gương mặt trở nên nghiêm túc, sự tồn tại của một giống ngao như vậy chính là sự khiêu chiến với uy tín trong chuyên ngành của ông, thậm chí cơ hồ là một sự miệt thị.
Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm một mình, không ngừng muốn giải thích gì đó, nhưng gã lại thấy cực kỳ khó khăn, dù gì trong lĩnh vực học thuật này, gã chỉ là học trò của Phương Tân, tuy đã phát triển cơ sở nuôi chó ngao rất chỉnh tề lớp lang, nhưng nói về kiến thức học thuật, gã còn xa mới bì được với thầy của mình, làm sao có thể thuyết phục được giáo sư Phương Tân tin chứ, xét cho cùng ngay cả người đưa cho gã tấm ảnh này cũng không biết nó từ đâu mà có cơ mà.
Phương Tân lại đưa ra thêm bằng chứng: “Thứ màu sắc này, thứ tốc độ và hình thể này, rất giống hình tượng chó ngao lý tưởng mà người nào đó đã dùng máy tính dựng lên, máy tính dùng độ phân giải màu 32 bit, nay vẫn chưa bằng được độ phân quang hoá học, vì vậy khi dựng màu đen dễ bị nhạt đi thành màu tím đỏ sậm, hai màu này khác nhau không nhiều, người dựng ảnh rõ ràng cũng không phải chuyên môn nghiên cứu chó ngao, anh ta biết được một số đặc tính của ngao, nhưng lại quá khoa trương và làm hoàn mỹ ở một số chỗ, thành ra lại lộ sơ hở.”
Phương Tân nhìn Trác Mộc Cường Ba mồ hôi đầm đìa, liền chuyển sang khuyên giải, “Được rồi, tôi biết anh vẫn luôn muốn tìm một con ngao tốt nhất thế giới, vì vậy mà anh quá mẫn cảm với những con ngao ưu tú, đến nỗi nhất thời không phân biệt được thật giả, chuyện này cũng không trách anh được. Thử nghĩ xem, bao nhiêu chuyên gia lão làng cả đời nghiên cứu cổ vật mà cũng có lúc nhìn lầm, huống hồ anh không chuyên nghiên cứu giống chó ngao này.”
“Không!” Trác Mộc Cường Ba kiên quyết ngẩng đầu lên, nói: “Thầy giáo, tôi tin đây là một con ngao thật, đúng là nó sống ở đất Tạng, giờ cũng đang ở đó, tôi… tôi đã quyết tâm rồi, tôi phải đi tìm nó, lần này đến gặp thầy, vốn muốn xin thầy một gợi ý, nếu thầy đã không tin sự tồn tại của nó là sự thật, thì tôi đành một mình đi tìm nó vậy.”
Phương Tân nhìn người học trò đắc ý nhất và người bạn hợp tác tốt nhất từ trước tới nay, không khỏi mềm lòng vuốt khẽ lên đầu gã, nhẹ giọng hỏi: “Cường Ba, con trai ta, là thứ gì khiến anh cố chấp và kiên định như thế? Anh hạ quyết tâm lớn như vậy, lẽ nào muốn tìm con vật sống trong máy tính này?”
Trác Mộc Cường Ba cầm mấy tấm ảnh trong tay Phương Tân, chỉ vào tấm thứ hai nói: “Thầy giáo, thầy xem, đây là mắt nó, tôi vừa nhìn đã thấy đôi mắt này, chính đôi mắt này cho tôi biết, nó đích thực tồn tại.”
Giáo sư Phương Tân lại quan sát tấm ảnh thứ hai lần nữa, bộ mặt hướng thẳng về máy ảnh của con ngao, những chỗ khác đều hơi mơ hồ, duy chỉ có đôi mắt là rất sáng trong. Ông nhìn vào đôi mắt ấy, cũng cảm thấy hơi kinh ngạc, con mắt sâu thẳm, lấp lánh trước màn đêm đang buông xuống, tựa như sao sáng trong đêm, toát lên một thứ ma lực làm người ta sợ hãi, vẻ mạnh mẽ và khí chất trong đôi mắt ấy hiển hiện sự ngông cuồng tự đại. Trác Mộc Cường Ba kiên quyết nói: “Một tấm ảnh dựng bằng máy tính, làm sao có được đôi mắt sinh động như thế, đây là đôi mắt sáng nhất, mạnh mẽ nhất mà tôi từng thấy. Thầy giáo, thầy có biết cảm giác khi tôi lần đầu tiên nhìn thấy nó không? Lúc ấy, tôi đã hoàn toàn ngây ra….”
(1) bốn xích: đơn vị đo lường cổ của Trung Quốc, tương đương khoảng 1/3 mét.
Người điên đầu tiên
Trác Mộc Cường Ba nhìn chăm chăm vào bức ảnh trong tay, tựa như bị người ta đập một gậy giữa đầu, trong lòng ngoài chấn động ra, chỉ còn chấn động, hình ảnh chân thực trong tấm ảnh, chớp mắt đã nắm giữ linh hồn gã. Gã giống một nhà nghiên cứu đã dành cả đời ra nghiên cứu hoá thạch khủng long, bỗng nhiên, lại thấy một con khủng long sống sờ sờ ở khoảng cách gần, còn là loài khủng long hiếm thấy nhất nữa, đứng sừng sững ngay trước mặt, chỉ vươn tay là có thể chạm tới, tâm trạng kích động của gã có thể tưởng tượng ra được. Một tiếng nói phát ra tự đáy lòng, phảng phất như lời kêu gọi từ thời viễn cổ, nhưng lại hết sức chân thực mà thân thiết: “Đi đi, đi tìm nó, vì linh hồn và tín ngưỡng của ngươi, vì giá trị tồn tại của ngươi. Cuộc đời này của ngươi lẽ nào không phải vì được nhìn thấy nó mà tồn tại hay sao?” Bỗng nhiên gã lại bắt đầu chế giễu chính mình, “Vẫn còn ở đây “oắc oắc” giảng bài cho người ta sao, chủ nhân của tấm ảnh kia đang cười nhạo ngươi, ngươi căn bản chưa hề thấy qua chó ngao chân chính, ngươi căn bản không biết ngao là thế nào!”
Gã ngây ngẩn ra một lúc lâu, rồi đột nhiên sực tỉnh, như lên cơn điên truy hỏi cậu bé đưa thư về lai lịch của tấm ảnh, nhưng cậu bé chẳng biết chút nào. Trác Mộc Cường Ba không còn để ý gì nữa, nhảy xuống bục diễn giảng, gã biết, chủ nhân bí mật kia vừa rồi vẫn còn đứng ở cửa, nếu để lỡ cơ hội này, cả đời gã cũng không biết được con ngao này ở nơi nào, bức ảnh này từ đâu mà ra.
Nhưng lúc đó quá ồn ào hỗn loạn, Trác Mộc Cường Ba khó khăn lắm mới chen ra được khỏi hội trường, đừng nói là chủ nhân tấm ảnh, đến cả thằng bé choai choai đưa thư kia cũng đã không thấy đâu. Trác Mộc Cường Ba như phát điên, hỏi người qua đường, hỏi tài xế lái xe, hỏi từng người mà gã gặp phải, có thấy một người cao chừng mét bảy, mặc áo gió, đeo kính đen, đội mũ lưỡi trai hay không. Nhưng không ai nhìn thấy người nào ăn mặc đặc biệt nổi bật như thế cả.
Gã như mất đi ba hồn bảy vía, thân thể cao lớn lập tức không còn sinh khí, trở nên ủ rũ, chẳng còn tâm trí nào tham gia thi đấu chó ngao nữa, tuy là người kêu gọi đồng thời cũng chủ trì giải đấu, nhưng sau đó gã không hề đáo qua nơi thi đấu lấy một lần. Trác Mộc Cường Ba hệt con bệnh thần kinh, cơm không ăn nổi, ngủ cũng không yên, cả ngày cứ ngây ngẩn ngẩn nhìn hai tấm ảnh trên tay, xem đi xem lại, tấm ảnh đó tuy mờ mờ không rõ, nhưng Trác Mộc Cường Ba gần như có thể đếm được số lông trên mình con ngao đó, gã biết ở chân sau, chỗ phía trên ngón chân thứ ba của con ngao tầm hai xăng ti mét, đếm từ trước ra sau, sợi lông thứ ba mươi sáu bị chẻ nhánh; gã còn biết, ngón đầu tiên ở chân trước bên trái của con ngao, móng chân có một vết ngần. Tất cả những chi tiết trong ảnh gã đều biết hết, điều duy nhất mà gã không biết chính là, hai tấm ảnh này do ai chụp, và chụp ở nơi nào.
Nếu không có cú điện thoại đó, Trác Mộc Cường Ba có lẽ cả đời này cứ vẫn tiếp tục chìm đắm, bởi vì hai tấm ảnh đã đoạt mất của gã khả năng suy tư. Điện thoại reo một lúc lâu, Trác Mộc Cường Ba vẫn không đứng dậy, bởi vì sẽ có người nghe điện thoại, bên cạnh gã có thư ký, có giám đốc nghiệp vụ, có vệ sĩ, điện thoại công việc xưa nay gã chưa bao giờ tự nghe cả, còn những người biết được số điện thoại cá nhân của gã, chỉ giới hạn trong mấy bạn bè thân thiết nhất mà thôi.
Cô Hoắc nhẹ đẩy cửa, thấp giọng nói: “Tổng giám đốc Trác, là điện thoại tìm ông.”
Trác Mộc Cường Ba mặt ủ mày chau, nhạt giọng nói: “Nói tôi không ở đây, mấy ngày này, điện thoại gì cũng không bảo tôi không ở đây hết.”
Cô Hoắc cúi đầu khó xử: “Nhưng, người gọi điện nói, chỉ cần nói với ông về tấm ảnh, nhất định ông sẽ nhận điện thoại.” Đến khi ngẩng đầu lên, cô kinh ngạc nhận ra, Trác tổng đã không còn ở phòng nghỉ nữa.
Trác Mộc Cường Ba nắm chặt ống nghe, gượng gạo nói bằng tiếng Anh: “Anh bạn, có phải anh là người đưa cho tôi hai tấm ảnh đó? Xin anh đừng gác máy, bất luận anh có yêu cầu gì, đều có thể thương lượng được.”
Bên kia đầu dây im lặng giây lát, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy tim đập dồn cơ hồ nghẹt thở, tựa như trong khoảnh khắc chờ bị tuyên án tử hình vậy, cuối cùng, người bên kia đầu dây nói: “Tấm ảnh đó, là… là chó đúng không?” Một giọng thanh niên, lại là tiếng phổ thông chính cống.
Trác Mộc Cường Ba lập tức nói: “Phải, phải, là giống chó tốt nhất. Anh đang ở đâu, chúng ta gặp mặt nói chuyện nhé?”
Người bên kia ngần ngừ nói: “Thực ra, tôi gửi anh hai tấm ảnh đó, chỉ là muốn xác nhận một chút, tôi nghĩ không cần gặp mặt nói chuyện đâu?”
Trác Mộc Cường Ba như người chết đuối khó khăn lắm mới vớ được khúc cây cứu mạng, nào chịu buông tay, lập tức nói: “Cần chứ, cần chứ, anh muốn xác nhận gì? Tôi có thể thoả mãn bất cứ yêu cầu nào của anh, tôi cần phải gặp anh nói chuyện, nếu anh rảnh, giờ tôi sẽ lái xe đến luôn.”
Người kia lẩm bẩm: “Không cần làm lớn vậy chứ, hì!” Hình như có chút bất ngờ, người ấy phát ra một tiếng cười lạ lùng.
Năm phút sau, Trác Mộc Cường Ba đến bệnh viện Andrea, trước cửa bệnh viện, gã nhìn thấy người gửi cho mình hai tấm ảnh, một anh chàng Trung Quốc, chừng mười bảy mười tám tuổi, dáng dong dỏng, có vẻ kiêu kỳ, anh ta tự giới thiệu tên là Đường Minh.
Vừa xuống xe Trác Mộc Cường Ba đã hỏi: “Cậu muốn xác nhận điều gì? Lẽ nào cậu cũng không biết tấm ảnh đó từ đâu mà có?”
Đường Minh nhếch nhếch mép, nói: “Đương nhiên tôi biết tấm ảnh này từ đâu ra, tôi chỉ muốn xác nhận lại một chút, đây có đúng là con ngao không, ngao chính cống ấy.”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Đương nhiên là đúng, trên thế giới này, không có Tạng ngao nào cao quý hơn nó nữa, nó mới thực sự là ngao của loài ngao.”
Đường Minh ngại ngùng gãi đầu, nghi hoặc nói: “Ý của tôi không phải vậy, ý của tôi là, nó có tồn tại thật không? Hay chỉ là một kiểu ảo giác?”
“Ảo giác?” Trác Mộc Cường Ba nói, “Làm sao mà là ảo giác được? Lẽ nào cậu chưa hỏi người chụp ảnh sao? Tấm ảnh này rốt cuộc từ đâu mà có?”
Đường Minh lẩm bẩm nói: “Nhưng, tôi hỏi rất nhiều người rồi, bọn họ cũng là chuyên gia nuôi chó, bọn họ đều nói đây là giả, còn có người nói đó là ảnh dựng bằng máy tính nữa.”
Trác Mộc Cường Ba nắm chặt vai Đường Minh, nôn nóng hỏi: “Người chụp ảnh đâu? Tìm người đó ra đây, chúng ta cùng hỏi anh ta, không phải vậy là rõ hết cả sao?”
Đường Minh bị gã nắm đau quá, vội lùi lại một bước, không ngờ sức lực của vị giáo sư dáng vẻ phong nhã này lại mạnh đến kinh người, anh ta xoa xoa vai nói: “Người chụp ảnh là anh trai tôi, giờ không thể hỏi anh ấy được gì nữa rồi.”
Trác Mộc Cường Ba kích động, lại chụp lấy Đường Minh, nhưng bị anh ta tránh ra trước một bước, gã vội nói: “Anh trai cậu ở đâu? Mau dẫn tôi đi gặp anh ta!”
Đường Minh nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt kỳ quái, xem ra chưa gặp người nào điên cuồng như vậy, nghĩ ngợi giây lát, rồi nghiêng đầu nói: “Đi theo tôi!” Không ngờ lại quay đầu đi vào bệnh viện Andrea.
Bệnh viện Andrea, bệnh viện tâm thần nổi tiếng nhất nước Mỹ.
Trong phòng bệnh, Trác Mộc Cường Ba gặp anh trai Đường Minh, cũng nhìn thấy thêm nhiều bức hình nữa.
Anh trai Đường Minh nằm trên giường, vẻ mặt từa tựa Trác Mộc Cường Ba lúc nhác thấy tấm ảnh, cứ ngây ngây dại dại nhìn lên bức tường dán chi chít ảnh. Đột nhiên thấy người lạ đi vào, anh ta lập tức run lên như cầy sấy, Đường Minh không thể không bước tới khe khẽ vỗ về, dịu dàng nói mấy câu an ủi để anh trai bình tâm lại. Đường Minh giới thiệu, anh trai anh ta tên Đường Thọ, lớn hơn năm tuổi.
Đường Thọ cao ngang Đường Minh, nhưng thân hình vạm vỡ hơn hẳn, da đen như sắt, thoạt nhìn vô cùng khỏe khoắn, tóc húi cua một phân, sợi nào sợi nấy dựng đứng như kim sắt. Gương mặt Đường Thọ rất tuấn tú, Trác Mộc Cường Ba cảm giác như đã gặp ở đâu rồi, nhưng gã không chú ý nhiều đến anh ta, mà bị thu hút bởi những tấm ảnh trên tường, toàn là phong cảnh danh lam nổi tiếng thế giới, có những tấm tinh tế đến mức Trác Mộc Cường Ba phải thầm khen ngợi. Gã biết những tấm ảnh này ắt phải do một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp chụp, bất luận gửi đến tạp chí ảnh nào, cũng sẽ được đăng lên trang bìa, hơn nữa giá cả cũng không phải tầm thường. Gã hỏi: “Đều của anh trai cậu chụp à?”
Đương Minh kiêu ngạo đáp: “Đương nhiên.”
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn quanh bốn bức tường, độ sắc nét, vị trí chụp, bối cảnh trong các tấm ảnh này đều tối ưu, nhưng Đường Thọ hình như không buồn nhìn lấy một lần, chỉ chòng chọc dán mắt vào bức tường đối diện.
Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba quay về bức tường đối diện Đường Thọ, điều bất ngờ là những tấm ảnh dán trên đó hoàn toàn khác hẳn, vỏn vẹn hơn chục tấm, vô cùng mơ hồ, toàn là chụp con chó ngao thần bí kia. Trác Mộc Cường Ba phát hiện ra hai tấm ảnh gã cầm là rõ nhất, số còn lại, tấm mờ nhất nom chỉ như vệt mây đen nổi lên giữa một nền mây xanh mà thôi. Đến lúc này gã mới lên tiếng hỏi: “Anh trai cậu… sao vậy?”
Đường Minh thở dài nói: “Không biết, lần này trở về anh ấy thành ra như thế, bác sĩ nói là do bị kinh hãi quá độ, chúng tôi từ trong nước sang đây, định xem bác sĩ ở Mỹ có giỏi hơn không, thời gian này anh tôi đang chữa bằng liệu pháp thôi miên. Mấy hôm trước tôi xem tin tức, nói giáo sư Trác đang ở đây tổ chức thi đấu chó ngao, vì vậy mới thử mang ảnh cho ông xem.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Cậu ấy giờ có vẻ rất yên bình.”
Đường Minh nói: “Là hội chứng sợ tối.” Nói đoạn, anh ta chỉ lên ngọn đèn trên đầu, Trác Mộc Cường Ba giờ mới nhận ra ban ngày ban mặt mà đèn trong phòng đều bật sáng, lòng không khỏi thầm đặt câu hỏi, rốt cuộc nhiếp ảnh gia này đã nhìn thấy gì hôm ấy?
Đường Minh lại nói: “Tôi cũng tin đây là thật, anh trai tôi xưa nay chưa bao giờ chụp ảnh giả, có điều không biết lần này anh ấy chụp ở đâu, cả thảy mười mấy tấm không có tấm nào rõ ràng cả.”
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên hỏi: “Anh trai cậu bị chấn động tâm thần như thế, làm sao mà trở về được?”
Đường Minh đáp: “Tháng Sáu năm ngoái, đội tuần tra núi Khả Khả Tây Lý phát hiện ra anh ấy, nghe nói lúc đó, anh ấy đang chạy thục mạng, thần trí đã thất thường rồi, nếu không phải bị người trong đội bảo vệ ấn xuống đất, chắc anh ấy còn chạy tiếp nữa, đến khi hết hơi mà chết mất.
Nghe những người đó nói, anh trai tôi vừa ngã xuống liền hư thoát mà ngất xỉu, lúc tỉnh lại thì thần trí mơ hồ, cứ nói đi nói lại hai câu “Tên điên ở Mông Hà nói thật, cửa địa ngục. Đến rồi, bọn chúng đến rồi! Chạy mau!” chính là hai câu này, không biết là ý gì, về sau đội bảo vệ phát hiện ra chiếc xe jeep việt dã của anh tôi bị bỏ lại cách nơi tìm thấy anh ấy ba trăm ki lô mét, xăng trong xe cạn sạch.”
Trác Mộc Cường Ba lại ngẩn ra, nếu Đường Thọ bỏ xe lúc hết xăng mà chạy, tức là đã chạy bộ ba trăm cây số, vậy mà vẫn không chịu dừng lại, rốt cuộc anh ta đã nhìn thấy thứ gì mà biến thành như vậy? Nhưng trong lòng gã lại chủ yếu là mừng rỡ kích động, bởi vì hai câu nói người khác nghe không hiểu kia, gã lại hiểu được. Đột nhiên, gã nhớ đến một cái tên, vội vàng hỏi: “Độc hành hiệp? Anh trai cậu chính là Độc hành hiệp Đường Thọ?”
Đường Minh vẻ như muốn nói: “Cuối cùng thì ông cũng nhớ ra,” gật đầu công nhận. Đúng là Trác Mộc Cường Ba cuối cùng cũng nhớ ra, chẳng trách người này nom quen như vậy, thì ra là Độc hành hiệp Đường Thọ, một trong số ít người nổi tiếng hàng đầu trong nước. Cha anh ta là Đường Minh Huy, một trong ba ông trùm ngành sữa Trung Quốc, nhưng đã qua đời từ năm bốn mươi tuổi, để lại cho hai người con gia sản trên trăm triệu, con trai lớn Đường Thọ, không biết từ lúc nào đã thích du lịch mạo hiểm, khởi đầu là một mình vượt qua Đường Cổ Lạp Sơn, rồi một mình xuyên sa mạc Taklimakan, một mình lên đỉnh Chomolungma, một mình đi thuyền dọc Hoàng Hà, dọc Trường Giang, dọc sông Nhã Lỗ Tạng Bố, một mình bơi qua eo biển Bột Hải. Sau đó, anh ta bắt đầu phóng tầm mắt ra thế giới, những ngọn núi hiểm trở nhất, những dòng thác chảy siết nhất, những thung lũng đáng sợ nhất thế giới, anh ta đều đặt chân tới, phàm là nơi không người nào tới, anh ta đều muốn đi xem thử, mà còn đi một mình. Lần nào khi ai nấy đều cho rằng Đường Thọ đã cầm chắc cái chết, tuyệt đối không có hy vọng quay về, anh ta lại sừng sững trở lại với thế giới văn minh này.
Từng có người đặt câu hỏi, tại sao phải vậy? Anh ta nói, làm như vậy, chẳng vì cái gì khác, ngoài để chứng minh sự tồn tại của bản thân. Sở thích nhiếp ảnh của anh ta cũng nảy sinh từ những chuyến đi đơn độc đó, nhưng ảnh của anh ta đều không bán, rất nhiều tạp chí đã trả giá cao để xin đăng dù chỉ một tấm ảnh phong cảnh mà không được.
Trác Mộc Cường Ba mắt đỏ lừ, cuối cùng biện luận: “Thầy giáo, thầy nghĩ xem,ảnh từ tay một người như vậy, làm sao có thể là giả được?”
Phương Tân nói: “Xem ra quyết tâm của anh rất lớn đấy con trai. Anh đi đi, chúc anh thành công.” Nhưng nét mặt của ông rõ ràng đang nói, đây gần như là chuyện hoang đường.
Trác Mộc Cường Ba rất chán nản, gã không thể thuyết phục được thầy giáo của mình, không khác gì đã mất đi một trợ thủ quan trọng. Gã hậm hực thu hai tấm ảnh lại, nặng nề đi ra cửa đúng lúc dợm bước ra ngoài, chợt xoay ngoắt người lại, hỏi: “Thầy giáo, thầy còn nhớ, lần đầu tiên thầy giảng bài cho tôi không?”
Bài giảng của Phương Tân
Giáo sư Phương Tân vuốt vuốt mái tóc bạc, mường tượng chuyện xưa, bừng tỉnh ngộ, phải rồi, tình hình hôm ấy, ông đã nhớ lại.
Trong hội trường sức chứa ba nghìn người, ngày đầu tiên lên lớp, chỉ có chưa đến năm mươi người, ngồi lác đác trong giảng đường, cả hội trường rộng lớn lộ rõ vẻ trống trái mà quá lặng lẽ.
Phương Tân không hề chú ý, sinh viên chọn học chuyên ngành này vốn rất ít, bọn họ căn bản không biết được giá trị và ý nghĩa của môn khoa học này, ông sửa sang lại tài liệu, mở đầu bằng giọng điệu hài hước đặc biệt của mình: “Hôm nay, những bạn cần đến đều đã đến rồi,” ông chỉ vào cậu học viên đang ngủ phía đối diện nói: “Những bạn không cần đến cũng đến rồi, đúng là đã vượt quá mức mong đợi của tôi. Tôi biết, tôi không được tuấn tú hào hoa lắm, nghe nói hôm qua Mis Lãng dạy sinh vật, quý cô có vòng ba hơi khoa trương lên lớp, các bạn đã ngồi chật hết cả hội trường này.”
Không khí trong hội trường nhẹ đi phần nào, Phương Tân chuyển đề tài mới, nói: “Tôi biết, rất nhiều người cho rằng vấn đề tôi nghiên cứu quá đơn điệu, cũng quá đơn giản, nghiên cứu cái gì, chó ấy mà, chó có gì hay ho mà nghiên cứu? Khắp phố đều thấy, có lớn, có nhỏ, có sủa “oắc oắc”, có cắn người. Có bạn nào cảm thấy mình chẳng hiểu biết gì về chó, vẫn cần học thêm không?”
Bên dưới rì rầm nói chuyện, nhưng không người nào tự nhận mình không hiểu biết gì về loài chó, Phương Tân mỉm cười, nói: “Vậy thì tốt, tôi sẽ kiểm tra, trước tiên là một câu đơn giản đã, ở đây có một số hình ảnh, xin mời cho tôi biết, tên tục của những con chó này.”
Một loạt mười mấy tấm ảnh được chiếu lên, không ngờ không ai nói được tên của những con chó đó, tất cả nhìn chó thì là chó, ai biết được chó gì là chó gì. Phương Tân nghĩ ngợi giây lát, rồi nói: “Vấn đề này có lẽ hơi chuyên ngành quá, chúng ta hỏi một câu đơn giản hơn vậy, theo các bạn, trên thế giới này giống chó nào là hung ác nhất?”
Không khí trong giảng đường lập tức ồn ào hẳn lên, người nói là chó béc giê, người nói là chó săn, chó đầu bò, chó Siberia, chó Eskimo, thứ gì cũng có. Phương Tân chú ý thấy, khi mọi người đang ồn ào bàn luận, ở giữa giảng đường có một người cao lớn, không nói tiếng nào, trên mặt nở một nụ cười khinh miệt, đó là lần đầu tiên Phương Tân chú ý đến Trác Mộc Cường Ba.
Giáo sư Phương Tân đợi mọi người nói ngớt, mới đưa tấm ảnh Tạng ngao lên, một con thiết bao kim đầu sư tử thuần chủng, bên dưới lập tức có người reo lên: “Đây là sư tử!” Lúc đó, chó ngao còn chưa mấy được biết đến, người biết Tạng ngao lại càng ít đến tội nghiệp. Ông nói: “Đây, mới là giống chó hung mãnh nhất được thế giới công nhận, nó được gọi là ngao.” Ông quay người lại viết lên bảng đen một chữ ngao to tướng, kế đó nói: “Giống chó này sống ở vùng Thanh Tạng nước ta. Ở khúc quanh đầu tiên của Hoàng Hà có một địa danh là Hà Khúc, ngao ở Hà Khúc có hình thể ưu trội nhất, con ngao này, chính là một con ngao Hà Khúc hình thể tiêu chuẩn. Còn loại ngao hung mãnh nhất, trung thành bảo vệ chủ nhân nhất, sản sinh ở vùng phụ cận huyện Đạt Mã ở Tây Tạng, một điểm cao của cao nguyên, hoàn cảnh địa lý vô cùng khắc nghiệt. Có nhiều cách nói về ngao, có rất nhiều loại, theo giải thích trong Khang Hy đại từ điển, ngao: chó bốn thước là ngao, tính hung, hộ chủ, có thể đấu mãnh thú. Thông thường, loài chó hình thể cao lớn, hung hãn hiếu chiến, lại còn trung thành với chủ nhân, thì gọi là ngao. Đất Tạng người thưa mà mãnh thú nhiều, dân Tạng nuôi ngao để bảo vệ bầy dê, chống sói cao nguyên hung ác và giảo hoạt, vùng đó có câu, một ngao đấu ba sói, một con ngao tốt có thể một mình chống lại ba con sói ác.”
Giáo sư Phương Tân mở máy, bắt đầu thao thao bất tuyệt kể những chuyện liên quan đến chó ngao, đám sinh viên say sưa lắng nghe, không ngờ trên đời có lắm loài chó kỳ dị đến vậy, và nhiều huyền thoại về ngao đến vậy. Giữa lúc giáo sư đang hưng phấn, thì người cao lớn ngồi giữa lên tiếng: “Giáo sư là chuyên gia nghiên cứu chó, vậy tôi muốn hỏi, trong giống ngao, lợi hại nhất là loài nào giáo sư biết không?”
Đám sinh viên sững lại, không ngờ chó ngao mà cũng phân đẳng cấp cao thấp, lợi hại hay không lợi hại. Phương Tân nhìn cậu sinh viên với ánh mắt khác, thật bất ngờ còn có sinh viên muốn kiểm tra thầy giáo nữa, đương nhiên ông không thể tỏ ra kém thế, lập tức trả lời: “Anh bạn hỏi rất hay, ngao cũng có phân giống loài, cũng có khác biệt về huyết thống, dựa trên những nghiên cứu đang có, ngao phân bố từ đất Tạng đến Đông u, Bắc u, theo thống kê sơ bộ hiện nay, có ba chủng năm loài mười một hệ lớn, trong đó, chó ngao có hình thể tương đối hoàn mỹ tôi vừa nói khi nãy rồi, là ngao Hà Khúc, còn loài ngao hiếu chiến nhất, mạnh mẽ nhất, có lẽ là ngao Đằng Hạng, nhưng nói chung huyết thống rất gần nhau, nên tốc độ, sức mạnh, bản năng chiến đấu, không khác nhau mấy. Nhưng ở đất Tạng, chỉ có ở đất Tạng, mới có chó ngao lợi hại hơn những nơi khác, đó không phải do trời sinh, mà do con người huấn luyện. Dân Tạng nói chín chó một ngao, chính là ý này đây.”
Nghe tới đây, đám sinh viên càng thêm hào hứng, nóng lòng muốn biết “chín chó một ngao” rốt cuộc là thế nào. Giáo sư Phương Tân nói: “Đó là một kiểu tuyển lựa cạnh tranh tàn khốc, để có được con ngao xuất sắc nhất, họ thường thả mười con ngao con sinh cùng năm xuống cái hố sâu, không có thức ăn, hoặc có rất ít, chỉ đủ cho một con ăn thôi, mười con ngao này buộc phải trải qua một cuộc cạnh tranh tàn khốc, cuối cùng chỉ sống sót được một con, hoặc là nhờ giành được chút ít thức ăn đó, hoặc là nhờ ăn thịt đồng loại. Chúng ta đều biết, chó được thuần dưỡng từ sói, trong cơ thể còn lưu giữ không ít đặc tính của loài sói, mà trong họ nhà sói, có một quy tắc thế này, trong cùng một bầy, con sói sống là đồng loại, một khi chết đi, liền trở thành thức ăn, đặc biệt là ở những vùng giá lạnh, điều này lại càng thể hiện rõ, đàn sói Siberia sở dĩ hung hãn, mạnh mẽ, không gì không dám làm, chính vì bọn chúng có quan niệm sinh tồn đáng sợ như thế nên mới có thể sinh tồn tiến hoá trong môi trường tự nhiên tàn khốc.”
Con ngao duy nhất còn sót lại đó, chính là ngao của loài ngao mà người ta vẫn nói, vì nó có ý chí sinh tồn kiên cường nhất, sức sống ngoan cường nhất.
Giáo sư Phương Tân tự nhận thấy mình nói đã có sức thuyết phục, thái độ say sưa lắng nghe đến ngơ ngẩn của đám sinh viên là minh chứng, nhưng ngẩng đầu lên nhìn, người cao lớn ngồi chính giữa vẫn nở một nụ cười khinh khỉnh, kiểu cười ấy, làm Phương Tân cảm thấy rất mất tự nhiên. Ông nghĩ ngợi giây lát, ồ, đúng rồi, còn một cách giải thích khác, là cách giải thích bí truyền của một vùng nào đó trên đất Tạng, cách nói này, thậm chí rất nhiều người bản địa Tây Tạng cũng chưa từng nghe đến, ông lại nói tiếp: “Về “chín chó một ngao”, còn một cách giải thích khác đó là thần ngao thiên bẩm, cách giải thích này, lại càng thần bí, càng tàn khốc, càng xa xôi, cũng… càng cổ xưa. Tạng ngao cũng là chó, bọn chúng cũng giống như đa số các động vật có vú khác, mỗi lần mang thai có thể đẻ bốn đến sáu con, hiếm lắm mới được bảy, còn như một lứa tám con, thì phải nói là lông phượng vẩy lân rồi. Nhưng nếu ngao mẹ một lần sinh chín con, thì ắt trong đó sẽ có một con ngao thần. Ngao mẹ nhiều nhất chỉ có tám đầu vú, có nghĩa là nhất định có một con không được bú sữa mẹ, rốt cuộc, giống như hoàn cảnh chín chó một ngao do con người tạo ra, lần này là thiên định, sẽ có một ngao ăn thịt cả tám anh em nó, rồi sau cũng ăn thịt cả con mẹ mà thành ngao của loài ngao. Truyền thuyết nói thứ ngao này khí chất cực kỳ mạnh mẽ, khi thành niên có thể săn cả gấu xám. Nó thế chỗ sói cao nguyên và hổ địa cực trên khắp vùng cao nguyên rộng lớn, trở thành mắt xích cuối cùng của chuỗi thức ăn. Nhưng truyền thuyết này, phạm vi lưu truyền không rộng, hơn nữa về cơ bản không có ai chứng thực, nên từ trước tới nay người ta chỉ xem như truyền thuyết. Nếu so sánh, thì cá nhân tôi tin vào cách giải thích chọn ngao từ chín chó trong hoàn cảnh nhân tạo hơn.”
Kể xong truyền thuyết này, giáo sư Phương Tân tưởng như đã được nhìn thấy nét mặt tán thưởng của sinh viên kia trước những hiểu biết của mình, nhưng tiếp theo, anh ta lại hỏi: “Vậy thưa giáo sư, lợi hại hơn cả chín chó một ngao là gì?”
“Ồ…” Giảng đường lập tức xôn xao, có người nói sinh viên này cứ rúc đầu vào ngõ cụt, truy hỏi đến tận cùng sao được, cũng có người nói gã này đầu óc đần ngốc không mở mang nổi, chỉ được cái to khoẻ, nhưng hầu hết lấy làm kinh ngạc vì chỉ độc chuyện chó ngao mà có lắm truyền thuyết và bí mật đến vậy. Ai nấy đều ngong ngóng xem giáo sư Phương Tân đối đáp thế nào.
Giáo sư Phương Tân lau mồ hôi trán, không ngờ sinh viên này lại hiểu biết về Tạng ngao sâu đến thế. Ông nhận ra anh chàng cao lớn ngồi ở giữa có khuôn mặt hồng đặc trưng của vùng cao nguyên, làn da thô ráp, đưòng nét góc cạnh, hoàn toàn đều lộ rõ gốc gác là người đất Tạng cho dù không phải dân tộc Tạng thì cũng là một chàng trai cao nguyên chính cống sống trên cao nguyên đã lâu. Trước mặt dân Tạng kể chuyện Tạng ngao, gần như là múa búa trước cửa nhà Lỗ Ban, nhưng Phương Tân, dù sao cũng là giáo sư, không thể nào để mất mặt với học trò được, hơn nữa đây lại còn là sinh viên mới lần đầu tiên vào lớp ông.
Giáo sư Phương Tân chỉnh lại cặp kính, mỗi lần chuẩn bị nghiêm túc sắp xếp một việc gì đó hay chìm vào suy tư, ông đều thích chỉnh lại kính mắt. Trong khoảnh khắc, đám sinh viên nín thở im phăng phắc, hồ như đang chuẩn bị xem hai đối thủ quyết đấu, không dám lên tiếng hay hỏi han gì sợ gây xáo trộn. Giáo sư Phương Tân mặt không đổi sắc, trước tiên ngước mắt nhìn lên trần nhà, rồi sau đó nhìn thẳng vào sinh viên to con kia, vẻ như không muốn tiết lộ, mãi sau cùng mới chầm chậm nói: “Không sai, lợi hại hơn cả chín chó một ngao, có địa vị cao quý nhất ở đất Tạng, gọi là… chiến ngao!”
Phương Tân vừa dứt lời, lập tức có sinh viên không nén được kêu lên khe khẽ. Ông lại tiếp tục: “Gọi là chiến ngao, nghe tên là biết nghĩa, là chó ngao dùng để chiến đấu. Địa vị của chiến ngao ở đất Tạng, tương tự như toạ kỵ của Bồ Tát trong thần thoại cổ Trung Quốc, thân phận tương đương với thánh tượng ở Thái Lan, con vật này, chỉ người địa vị tối cao ở đất Tạng mới được nuôi dưỡng, dân thường không thể có, cũng không dám có. Chiến ngao, thực tế chính là chín chó một ngao, tinh phẩm trải qua sự tuyển lựa khắt khe của ông trời hoặc con người, thêm vào kinh nghiệm của các cao thủ nuôi chó ngao nhiều đời, được huấn luyện thành thứ chó ngao có trí tuệ nhất, trung thành nhất, có khả năng tấn công và sức chiến đấu nhất. Tôi lấy ví dụ, chó béc giê, các bạn ít nhiều đều đã thấy qua, chó nghiệp vụ, mọi người cũng đều biết, hầu hết chó nghiệp vụ đều là chó béc giê, nhưng một con béc giê bình thường nhà nuôi mà đánh nhau với một con chó nghiệp vụ, cho dù hình thể, chiều cao không hơn kém nhiều, nhưng xác suất chó nghiệp vụ chiến thắng lại cao hơn rất nhiều. Bởi vì bọn chúng đã trải qua huấn luyện nghiêm khắc, biết cách tấn công thế nào mới là hiệu quả nhất. Kỳ thực, nói trắng ra, cũng giống như con người chúng ta thôi, đều là con người, nhưng lại có vận động viên là người bình thường, chẳng hạn bảo anh đi thi cử tạ với quán quân cử tạ, ba người như anh cũng không thể nâng được trọng lượng mà quán quân cử tạ nâng được. Nghe nói, sau khi trải qua tuyển lựa chín chó một ngao, dã tính của con vật cực kỳ ngoan cố, là một trong ba loài động vật khó thuần phục nhất trên thế giới, vì nó cuồng ngạo, muốn khiến nó khuất phục, tuyệt đối là một chuyện không dễ. Nhưng, một khi huấn luyện chiến ngao thành công, sự thần phục của nó với chủ nhân so với chó ngao thông thường còn kiên trung gấp bội, thậm chí còn cảm động hơn cả chuyện tình của chúng ta nữa. Khi tôi khảo sát ở đất Tạng, từng có một chuyện thế này, thợ săn A Vượng Phổ Tài, từng là người chuyên huấn luyện chiến ngao cho thổ ty, sau giải phóng trở thành đội trưởng đội săn bắn Tây Tạng, ông ta có một con chiến ngao, gọi là Đa Cát. Năm tôi vào Tây Tạng khảo sát, lão A Vượng theo đội đi săn, dọc đường không ngờ đã bất hạnh gặp nạn, khi mọi người trong đội đưa thi thể lão về nhà, con Đa Cát vốn đang bị sợi xích sắt to bằng ngón tay khoá vào trụ đá, đột nhiên như lên cơn điên giật tung xích sắt, lúc ấy có sáu bảy thợ săn ưu tú, đều hoàn toàn bị khí thế ấy của nó làm cho sững sờ, ba người bị hất ngã ngay tại chỗ, những người khác không ai dám tiến lên. Nó hít hà mũi lão A Vượng, liếm trán lão, dường như nó cũng cảm nhận được từ thi thể băng lạnh ấy cái gì gọi là chết chóc. Đa Cát cứ như vậy, không cho bất kỳ ai lại gần A Vượng, nó đứng đó, như một bức tượng đá, nếu có ai định lại gần, nó sẽ lập tức xù lông bờm quanh cổ lên cảnh cáo. A Vượng được Đa Cát kéo tới cửa, rồi nó bắt đầu từ chối ăn bất cứ thứ gì, miệng cứ không ngừng phát ra tiếng rên ư ử đau thương, nó không biết cái chết là gì, nhưng nó vẫn không ngừng cố gắng, thử tìm cách đánh thức lão A Vượng dậy. Năm ngày năm đêm, thì người thợ săn dũng cảm nhất lại gần Đa Cát lần nữa, thì phát hiện ra nó đã chết từ lúc nào, vẫn ngồi chồm hỗm bên cạnh lão A Vượng, đầu ngẩng cao nhìn trời. Tư thế đó của nó, nhiều năm nay, tôi vẫn không thể nào quên.” Nói tới đây, giáo sư Phương Tân có chút nghẹn ngào, bên dưới cũng có không ít sinh viên ngân ngấn nước mắt.
Lúc này, chuông đã vang lên, giáo sư Phương Tân vung tay, thở ra một tiếng nặng nề, nói: “Vốn còn rất nhiều truyền thuyết về Tạng ngao, nhưng hôm nay thời gian đã hết, đành để lại cho mọi người một kết cục bi thương vậy, được rồi, nếu các bạn còn hứng thú, ngày mai lại đến đi.” Mọi người đều oán trách thời gian sao trôi đi quá nhanh, nhưng cũng đành ra về, tiết sau thầy giáo và các bạn học khác cần sử dụng đến giảng đường này.
Lúc các sinh viên đứng dậy, Phương Tân gọi anh chàng cao lớn đã đặt câu hỏi kia lại, hỏi: “Bạn học kia, đợi một lát, cậu tên là gì?”
Anh chàng to con đó ngẩng đầu, kiêu ngạo đáp: “Tôi tên Trác Mộc Cường Ba.”
Phương Tân gật đầu nói: “Ồ, là người Tạng, cậu ở vùng nào của Tây Tạng vậy?”
Trác Mộc Cường Ba mỉm cười nói: “Người Cổ Duy, làng Đạt Ngõa Nô Thố.”
Sắc mặt Phương Tân thoáng biến đổi, nói: “Chẳng trách, cậu lại hiểu rõ chó ngao đến vậy, thì ra là đến từ quê hương của ngao.” Cổ Duy nằm xa xôi hẻo lánh nhất trong đất Tạng, nhờ đó mới bảo tồn được những con chó ngao thuần chủng hiếm hoi, nên gọi là quê hương của chó ngao, nhưng làng Đạt Ngoã Nô Thố thì ngay cả ông cũng chưa từng nghe nói đến. Phải biết rằng, Tây Tạng rộng 1,202 triệu cây số vuông, nhưng dân số lại chỉ không đến ba triệu người, diện tích mỗi làng có khi còn lớn hơn một thành phố cấp địa phương. Trác Mộc Cường Ba thở ra, nói: “Nghiên cứu của giáo sư về chó ngao quả thực khiến tôi rất khâm phục, nhưng tôi vốn muốn hỏi xem, giáo sư Phương từng nghe đến truyền thuyết về Tử Kỳ Lân bao giờ chưa. Nhưng hình như giáo sư không biết thì phải.”
Phương Tân nhíu sâu mày, cố gắng lục tìm trong ký ức, nhưng một chút ấn tượng cũng không có, ông rất tự tin về trí nhớ của mình, chỉ cần đã nghe qua, nhất định là có ấn tượng, nhưng ông không có, một chút ấn tượng cũng không có.
Truyền thuyết về Tử Kỳ Lân
Cuối cùng Phương Tân cúi đầu, đây là lần đầu tiên ông phải cúi đầu trước mặt sinh viên, nhưng trên cương vị là một học giả, ông rất vui lòng cúi đầu trước học thuật, đặc biệt là những vấn đề học thuật ông chưa từng tiếp xúc nhưng lại thuộc phạm vi nghiên cứu của ông. Ông điềm đạm nói: “Ồ, xem ra đúng là tôi không biết gì về chuyện này, có thời gian ăn cơm không? Cậu kể cho tôi chuyện Tử Kỳ Lân nhé? Nó là loại chó gì vậy? Cũng là một giống Tạng ngao hả? Theo tôi được biết, Tạng ngao không có màu tím đâu.”
Trác Mộc Cường Ba nhe răng cười: “Cám ơn giáo sư đã mời, chúng ta đi thôi.”
Vậy là, lúc ăn cơm, Trác Mộc Cường Ba kể cho giáo sư Phương Tân câu chuyện về Tử Kỳ Lân. Gã chậm rãi bắt đầu từ giáo lý: “Dân Tạng ban đầu vốn chưa được khai hoá, quen tính hoang dã, hiếu chiến, nhiều lần chiến tranh không ngừng chia cắt, đến khi Quán Thế m Bồ Tát hiện thân giáng thế, dùng giáo lý điểm hoá dân chúng, năm 629 sau Công nguyên, Tán Phổ đời thứ ba mươi ba kế vị, nhanh chóng tập trung quyền lực về trung ương, quét sạch bát hợp, thờ phụng giáo lý, thờ Phật kính Phật, thiện hoá chúng dân…”
Giáo sư Phương Tân ngắt lời: “Đợi chút đã, những gì anh nói tôi đều hiểu cả, Tán Phổ đời thứ ba mươi ba chính là Tạng Pháp vương Tùng Tán Can Bố, xây dựng vương triều Thổ Phồn, thống nhất và cát cứ đất Tạng, dùng Phật giáo dạy dân Tạng hướng thiện, nhưng, điều này có liên quan gì đến Tử Kỳ Lân mà anh nhắc tới chứ?”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Không không, tôi không muốn nói đến lịch sử Tây Tạng, tôi đang nói về một bộ kinh, vừa rồi chỉ là tôi dịch bộ kinh đó sang tiếng Hán hiện đại mà thôi, còn câu chuyện về Tử Kỳ Lân, cũng được ghi chép trong bộ kinh đó.”
Phương Tân gật đầu, ngầm đồng ý.
Trác Mộc Cường Ba giờ mới nói tiếp: “Năm 641 sau Công nguyên, đất Tạng xảy ra một chuyện kinh thiên động địa, tháng Giêng, công chúa Nepal là Xích Tôn sang đất Tạng, mang theo tượng vàng của Thích Ca Mâu Ni lúc tám tuổi, tháng Ba, công chúa Đại Đường là Văn Thành sang đất Tạng, mang theo tượng vàng của Thích Ca Mâu Ni lúc mười hai tuổi. Tạng Vương Tùng Tán Can Bố bắt đầu tôn thờ Phật pháp, từ đó Phật giáo Tạng bắt đầu có sự phát triển…” Trác Mộc Cường Ba dường như không giỏi phiên dịch lắm, mỗi lần nói được một đoạn đều phải dừng lại nghĩ ngợi.
Giáo sư Phương Tân hơi nôn nóng, lại ngắt lời lần nữa: “Anh không cần dịch, cứ đọc nguyên văn bộ kinh ra cũng được, tôi hiểu tiếng Tạng cổ và tiếng Tạng Phục địa. Các giáo hệ của Phật giáo Tạng như Hồng giáo, Hoa giáo, Bạch giáo, Hoàng giáo, Phục địa giáo, tôi đều có nghiên cứu qua rồi.”
Trác Mộc Cường Ba lộ vẻ mừng rỡ, nói: “Thì ra giáo sư từng nghiên cứu Tạng giáo, vậy tôi nói thẳng luôn. “Gã bắt đầu nói bằng thứ tiếng Tạng rất lưu loát: “Nhất thời, như thị khai khải Đế Thích cung môn như thị Cao Lâu quảng môn, tùng trung cử xuất tuỳ dục năng sinh viên mãn tứ bộ diệu quả, tức pháp, tài, dục, giải thoát…”
Giáo sư Phương Tân hiểu cả, đại ý của bộ kinh này là, Tùng Tán Can Bố thống nhất đất Tạng, sau khi kết thúc chiến tranh, bắt đầu hiệu triệu toàn dân thờ phụng Phật pháp, cũng chính vì nguyên nhân này, mới cưới công chúa của miền đất khởi nguồn Phật pháp, và công chúa của đế quốc tôn thờ Phật pháp đương thời. Về sau, Tùng Tán Can Bổ thờ phụng tứ diệu pháp, bản thân ông trở thành Đại Pháp vương đầu tiên của đất Tạng, phái ra bốn người bảo vệ, lần lượt canh giữ bốn vùng xa nhất ở biên giới Tạng, đồng thời tuyên giảng Phật học với tứ phương. Bốn người bảo vệ này gọi là Pháp năng, thủ hộ ở miền biên tái gian khổ, có địa vị rất cao trong đất Tạng, và luôn giữ mối liên hệ trực tiếp với Tạng Vương tối cao, vài năm một lần, các Tạng Vương lại truyền cho bốn Pháp năng các kinh sách, Tạng sử mà họ ghi chép được, lý do là các Pháp năng ở tận cùng miền biên viễn xa xôi, nếu có chiến tranh hay thay triều đổi đại, thì Đại thừa Phật pháp và lịch sử Tạng vẫn được gìn giữ. Tổ tiên của Trác Mộc Cường Ba, chính là một trong bốn vị Pháp năng đó, trấn giữ Cổ Duy nằm ở phía Nam, bộ kinh này chính là một bộ Tạng kinh hoàn chỉnh mà gia tộc còn bảo tồn được.
Trác Mộc Cường Ba kể lịch sử hết sức dài dòng của bộ kinh, nhưng nét mặt tuyệt nhiên không hề tỏ ra ngạo mạn, trước sau vẫn điềm tĩnh, ôn tồn, giáo sư Phương Tân hiểu gã kể ra như vậy không ngoài mục đích để ông tin vào tính chân thực của bộ kinh. Cuối cùng, Trác Mộc Cường Ba chậm rãi nói: “Đại Tạng Vương Lăng Đạt Mẫu, ham mê săn bắn, thích đuổi sói trên thảo nguyên hoang dã, kế vị, tuyên bố phế Phật, ép tăng phải cởi áo tu hành đi săn bắn, diệt Phật thủ, thiên đạo bất dung. Năm Cống Hồng thứ năm, săn ở bãi phía Nam, mang hơn mười con chiến ngao, kỵ binh năm trăm người, cùng ba trăm tay cung nỏ. Đi về phía Đông trăm dặm, gặp mưa lớn, phó tướng Ba Tông nói phía Đông có mây không lành, không nên đi, Vương không nghe, tiếp tục đi. Đuổi một con dê, ngựa chạy quá nửa ngày, đi qua núi đồi đất bằng, rừng sâu trảng cỏ, chiến mã chợt dừng lại, cúi đầu hí lên, cỏ cây rung động, không biết là vật gì. Vương kinh hãi, ra lệnh thả ngao, nào ngờ, mười mấy chiến ngao đều phục xuống đất, mắt lộ vẻ sùng kính, dùng roi đánh đập cũng không tiến lên, chợt nghe một tiếng gầm khẽ, vang động núi rừng, chiến ngao vụt đứng dậy rồi hợp lại. Chiến mã tung vó hí vang, Vương rơi xuống đất, ra lệnh cung thủ bắn tên, cung thủ sợ, không dám kéo dây.”
Giáo sư Phương Tân nghe tới đây, trong lòng đã có không ít nghi hoặc, Tạng Vương Lăng Đạt Mẫu là vị Tạng Vương cuối cùng của Thổ Phồn, còn gọi là Lăng Đạt Mã. Vì Xích Tổ Đức Tán quá sùng bái Phật giáo, khiến rất nhiều đại thần bất mãn. Bọn họ ngấm ngầm bí mật sách động, lật đổ đương triều và thủ tiêu Phật giáo. Trước tiên họ mưu sát đại thần phụ trách tôn giáo Bát Xiền Bố Bối Cát Vĩnh Đan, sau lại hãm hại Tang Mã, người anh trai sùng tín Phật giáo của Xích Tổ Đức Tân, cuối cùng mưu sát cả Tân Phổ Xích Tổ Đức Tán, đề cử người anh trai không thích Phật pháp của Xích Tổ Đức Tán là Lăng Đạt Mã kế vị Tân Phổ Thổ Phồn. Truyền thuyết về Tạng Vương Lãng Đạt Mẫu, xưa nay rất nhiều, nhưng đại để đều nói Vương bị hoà thượng Phật giáo Mật tông La Long Bối Cát Đa Kiệt hành thích, sau đó đất Tạng chìm vào một cuộc hỗn chiến dài cả trăm năm. Nghe nói Tạng Vương này ghét nhất là Phật pháp, sao lại ghi chép lại câu chuyện của mình vào kinh Phật chứ? Mà các truyền thuyết sau khi Đại Tạng Vương qua đời đều mang một ít sắc thái thần thoại, từ điểm này mà xét, ý nghĩa chân thực của bộ kinh kia có lẽ không hề chân thực như Trác Mộc Cường Ba đã nói.
Giáo sư Phương Tân còn đang suy tư, Trác Mộc Cường Ba đã nói tiếp: “Vương cả giận, đích thân cầm cung, vận lực bắn vào rừng. Lúc này, tiếng gầm như sấm, trời đất biến sắc, một vật xồ ra, thân to như ngựa, khắp mình một mầu tử kim, đầu như cái đấu, mắt như chuông đồng, bốn chân như bốn cột. Trong khoảnh khắc, người nghiêng ngựa ngã, chiến ngao rạp xuống rên rỉ, thần thái cung kính. Phó tướng Ba Tông kêu lên: “Tử kim báo nhãn thú!” Con thú này toàn thân màu tía, mắt ẩn kim quang, chân đạp mây lành, duy chỉ có cái đuôi là giống chó, đối mặt với Vương, Vương không dám nhìn, kêu lớn “chó thần”, vứt bỏ cung, tất cả binh sĩ đều quỳ rạp xuống bái, không người nào không xưng thần. Ba khấu đầu, chín bái lạy, thú đã biến mất. Bỏ săn về, Vương bệnh không dậy nổi, nói con thú ban ngày vừa thấy chính là Tử Kỳ Lân, bạo bệnh mấy chục ngày, lòng lo sợ vô cùng. Vương truyền thủ hạ đến nói: “Tử Kỳ Lân, thần thú dưới Phật toạ, lần này giáng lâm, là để trách cứ những gì ta làm, phải hướng thiện hướng tâm Phật, mới có thể giải ưu.” Mấy ngày sau, Vương trở lại Đại Chiêu tự, bị hành thích trước bia.”
Giáo sư Phương Tần vẫn còn nhớ, lúc ấy mình đã đưa ra mấy điểm nghi vấn, đồng thời sau này cũng nhiều lần tranh luận về tính chân thực của truyền thuyết, nhưng lần nào Trác Mộc Cường Ba cũng không có ý kiến, đối với gã, tranh luận về tính chân thực của Tử Kỳ Lân chẳng khác gì tranh luận xem có phải khủng long đã tồn tại hay không vậy, là một chuyện hoàn toàn không có ý nghĩa. Phương Tân đương nhiên phải truy vấn xem cách nói này của gã từ đâu ra, lý do của Trác Mộc Cường Ba cũng rất đơn giản, trong làng của gã, có người đã thấy Tử Kỳ Lân, hơn nữa, cứ cách mấy trăm năm, thế nào cũng có một hai vị trí giả sẽ thấy được Tử Kỳ Lân hiển linh, bọn họ từ nhỏ đã nghe chuyện Tử Kỳ Lân mà lớn lên, đó là toạ kỵ của Quán Thế m Bồ Tát, cùng hạ phàm với Quán Thế m, hơn nữa còn luôn ở vùng không người sinh sống trên đất Tây Tạng, mỗi khi con người mắc nạn, có khó khăn cần đến sự giúp đỡ, những người thành tâm và nhất tâm hướng thiện, sẽ nhận được sự giúp đỡ của Tử Kỳ Lân.
Sau đó, Trác Mộc Cường Ba có hỏi giáo sư Phương Tân liệu đây có phải là một dị chủng hiếm gặp trong Tạng ngao hay không, nhưng bị giáo sư phủ nhận, vì hình thể lớn như vậy, đặc trưng cơ thể điển hình như vậy, nếu có tồn tại thật sự, với sức mạnh của khoa học kỹ thuật hiện nay, đáng lẽ phải được phát hiện ra từ lâu rồi mới đúng, hơn nữa, còn phải được ghi chép lại trong hồ sơ từ lâu. Nhưng sự thực là, truyền thuyết về Tử Kỳ Lân, ngoại trừ người dân trong làng Trác Mộc Cường Ba đời đời truyền miệng cho nhau ra, không tìm thấy bất cứ ghi chép nào liên quan đến Tử Kỳ Lân nữa, cũng không có ai phát hiện ra tông tích của Tử Kỳ Lân cả. Nghiên cứu sâu hơn, Trác Mộc Cường Ba lại nói với Phương Tân, không rõ Tử Kỳ Lân và lý thuyết mới nhất “Di truyền cách đời” của ông có liên quan không.
Di truyền cách đời là chỉ một số đặc tính nào đó trong cơ thể động vật, không biểu hiện ở thế hệ tiếp sau đó, mà cách mấy đời, hoặc đến mấy chục đời mới biểu hiện ra ngoài, điều này có di truyền học làm căn cứ, gien lặn kết hợp với gien trội, ban đầu biểu hiện dưới dạng lặn, cũng có nghĩa là nhìn bên ngoài không thấy bất cứ vấn đề gì, cho đến khi gặp phải một gien lặn khác, kết hợp với nhau, cuối cùng mới biến thành gien trội mà biểu hiện ra đặc tính của gien, có mặt tốt, cũng có mặt xấu. Lý thuyết về di truyền cách đời của giáo sư Phương Tân chính là giả thiết có một loài vật nào đó, nếu gien trong cơ thể nó có được tổ hợp ưu tú nhất thì nó sẽ tiến hoá như thế nào, mà trên thực tế, tuy rằng tỷ lệ của kiểu tổ hợp này nhỏ đến gần như bằng không, nhưng khẳng định là có tồn tại. Bọn họ nghiên cứu động vật họ chó, nên lý thuyết di truyền cách đời ấy đương nhiên cũng áp dụng với loài chó.
Trác Mộc Cường Ba phân tích thế này: “Ngao sinh sôi ở vùng cao nguyên, vì vậy chỉ ở cao nguyên mới có thể sản sinh ra thứ chó ngao thuần chủng nhất; nó cần thích ứng với cao nguyên để sinh tồn, vì vậy khả năng hấp thu và sử dụng ô xy của cơ thể cần phải cao hơn các loài chó thông thường. Kết luận này cơ bản ý nói tốc độ lưu chuyển của máu tăng cao, tốc độ vận chuyển ô xy nhanh lên, nhưng vì môi trường cao nguyên luôn có mức dưỡng khí thấp, nên nhìn bề ngoài của nó đã thấy rõ huyết quản thiếu dưỡng khí, mà ai cũng biết, thiếu dưỡng khí sẽ biểu hiện ra ngoài, chính là sinh màu tím sẫm, cho nên mới có một màu tía đặc biệt. Để thích ứng với hoàn cảnh địa lý đặc thù trên cao nguyên, chân cần phải to mà có lực, những nếp nhăn trên cổ, là để khi kẻ thù cắn cổ nó, nó có thể quay ngược lại cắn kẻ thù, mắt trợn to, có thể mở rộng khả năng tiếp nhận ánh sáng, ở vùng cao nguyên mờ mịt hơi mù này, tiếp nhận nhiều ánh sáng tức là nhìn xa hơn, mũi ngắn hơn các loài chó khác, lỗ mũi to hơn, làm các tế bào khứu giác phân bố đều hơn, để phân biệt mùi vị tinh tế hơn, những đường cong trên cơ thể là để đạt tới tốc độ cao trong thời gian ngắn nhất mà tốn ít năng lượng nhất.”
Về mặt lý thuyết, Trác Mộc Cường Ba nêu lên một phỏng đoán táo bạo, nhưng không được giáo sư Phương Tân chấp nhận: nếu không tận mắt nhìn thấy, giáo sư không đời nào tin. Đây cũng là điểm khác biệt giữa ông và Trác Mộc Cường Ba khi lần đầu nhìn thấy hai tấm ảnh, ông nhận định đó là giả, còn gã, lại kích động vô cùng.
Giáo sư Phương Tân cúi đầu suy tư, ông không ngờ Trác Mộc Cường Ba lại kết hợp hai tấm ảnh này với truyền thuyết Tử Kỳ Lân ở quê gã. Nhưng, nếu như… nếu như hai tấm ảnh này là thật, cái bóng đó rốt cuộc có phải Tử Kỳ Lân không? Lần thứ hai Phương Tân cảm thấy tim mình đập dồn, tựa như lúc mới nhận được lời mời của chủ tịch hội nghị Matthew Liya vậy, không, lần này còn mạnh mẽ hơn nữa. Lần đầu tiên trong đời, giáo sư Phương Tân cảm thấy hoài nghi với kiến thức chuyên ngành của mình.
Trác Mộc Cường Ba thấy giáo sư Phương Tân có vẻ dao động, bèn lập tức chớp lấy cơ hội, cao giọng nói: “Thầy giáo, cùng đi đi. Thầy cả đời nghiên cứu động vật họ chó là vì cái gì chứ? Chúng tôi không tiếp sức lực tuyên truyền về chó ngao với mọi người là vì cái gì chứ? Từ trước đến nay, tôi luôn tin rằng, duyên mệnh của mình gắn chặt với chó ngao, bọn chúng kiên nghị, ngoan cường, trung thành, chúng là tín ngưỡng của tôi. Tìm kiếm con ngao hoàn mỹ nhất, mạnh mẽ nhất, chính là sứ mệnh của cuộc đời tôi. Thầy giáo, tôi cần thầy giúp đỡ.”