Phải chăng là hồ yêu hoạ quốc
Tiêu Thận người này, Tái Hữu đế tin tưởng không nghi ngờ. Khi Tiên đế băng thệ có bốn vị phụ thần, thân mang trọng trách, sau này khi Tái Hữu đế chấp chính triều cương đã cáo lão hồi hương, còn lại hai vị là Tiêu Thận và Nhan Hoài Tín. Nhan Hoài Tín trợ lực Tái Hữu đế bình định Bát Vương chi loạn, công lao vô kể, không thể xóa mờ, nữ nhi dưới gối đang chấp chưởng Phượng Ấn, bản thân đứng hàng Hữu Tướng dưới một người trên vạn người. Thoái ẩn quan trường, trưởng tử Nhan Tốn dù tuổi còn trẻ nhưng mọi chuyện trên triều đình đều thu xếp thuận lợi, thanh danh càng tăng.
Thái tử Hoằng mất sớm, ngôi Trữ quân bỏ ngỏ, các thế lực trong triều như mạch nước ngầm, rục rịch không yên.
Tái Hữu đế sinh thời yếu ớt, hai năm trước Hoàng hậu tạ thế, tinh thần càng lúc càng sa sút, không thiết ăn uống, bệnh cũ tái phát. Y chính[1] của Thái Y viện bắt mạch chẩn bệnh, uống thuốc rồi lại thấy chẳng mấy hiệu quả, chỉ có thể căn dặn Hoàng đế đừng vất vả lo lắng, nên tĩnh dưỡng nghỉ ngơi. Nếu không phải hiện đang có hạn hán mất mùa, việc Hoàng đế mười ngày nửa tháng không thượng triều cũng là chuyện thường. Đạo trị quốc, trên làm gương, dưới noi theo, quan lại cũng thành ra lười biếng.
[1]: Quan lại của Thái Y viện. Thời Thanh có Thái y, thời Minh có Y chính.
Hôm nay, Thái Hòa điện đông đúc, quan lại đứng theo lễ chế Văn Đông Võ Tây, phẩm cấp phân theo sắc quan bào, bên ngoài khoác tang phục trắng, trên tay cầm hốt, kính cẩn túc mục.
Một tiếng trống triều vang lên, quần thần ngũ bái tam khấu[2], hô vạn tuế.
[2]: Quy định về việc quỳ lạy trong lễ chế – nhà Minh có ngũ bái tam khấu (năm vái ba dập đầu), nhà Thanh có tam quỵ cửu khấu (ba quỳ chín dập đầu).
Ngự tiền Tổng quản Từ Đức Hải tiến lên từng bước, mở ra chiếu chỉ vải vàng còn đang nồng mùi mực, cao giọng đọc lớn.
Thái tử Hoằng, tuổi nhỏ yếu ớt, tính tình nội liễm ôn nhuận, vừa khéo giống với Nhan hậu, được Hoàng đế yêu thương, không bận chính sự thường hay tới thăm nom. Tuy rằng đã mất đi ái tử chính mình tuyển chọn, sức khỏe của Hoàng đế ngày càng sa sút, thế nhưng cũng hiểu bản thân không thể bi thương quá độ mà chìm trong đau buồn, cũng biết ngôi Trữ quân không thể để trống lâu dài. Quan lại cúi đầu nghe thánh chỉ, lại len lén đưa mắt nhìn nhau, cơ hồ nghẹn lời trân trối.
Văn võ cả đại điện, chỉ có Tả tướng Tiêu Thận và Hữu tướng Nhan Tốn mặt không biến sắc, vẫn một bộ trấn tĩnh trầm ổn – lòng dạ tâm cơ, thứ bản lĩnh tôi luyện được ở chốn quan trường.
Tiêu Thận cầm hốt, buông ánh mắt. Dạo gần đây Hoàng đế uống thuốc liên miên, nhưng rồi chuyện chọn Thái Tử là tự hắn chọn, thánh chỉ cũng vẫn là tự hắn viết, chẳng có điều gì đáng ngạc nhiên. Về phần Nhan Tốn – Tiêu Thận đưa khóe mắt nhìn về phía Nhan Tốn, thấy người kia khí định thần nhàn, sắc mặt ung dung, liền biết cung nhân Ngự tiền lại không giữ được miệng lưỡi rồi.
Hạ triều, vương công triều thần nhấc chân bước ra khỏi ngưỡng cửa Thái Hòa điện, lời qua tiếng lại xôn xao, không ngừng bàn luận.
“Thất tử của Thọ Vương xưa nay nổi tiếng chính trực, ta cũng đã nghe.”
“Yến hồi cuối năm ta từng có hạnh ngộ gặp được trưởng tử của Tuyên Thành Quận vương, thực là một bộ dáng hiền tài sáng láng, hẳn là tới lúc trưởng thành cũng sẽ không tồi.”
Trong đám người ấy không biết có ai đó vỗ tay thở dài, vô cùng tiếc nuối: “Tiểu Quận vương và Vương trưởng tử đương nhiên rất thích hợp, mà các ngài nói xem, nữ nhi của Đoan phế vương, dù sao cũng là dòng dõi tôn thất, có ai để ý đến hay không?”
Mặc dù có tiền lệ nữ đế là Nguyên Sóc đế, thế nhưng tựu chung, trong lòng văn võ bá quan đều nhận định chỉ có Tôn thất tử mới thích hợp kế thừa đại thống. Thế cục trong triều xoay vần chỉ trong chớp mắt, trước tiền triều có Nhan Tốn, lòng ôm tham vọng rõ như ban ngày, sau hậu cung có Nhan Y độc chiếm Sách bảo Phượng ấn nắm giữ lục cung. Hai năm qua huynh muội Nhan thị đã nội ứng ngoại hợp, âm thầm ra tay mưu hại bao Tôn thất tử vốn đang khỏe mạnh cường kiện. Một đứa trẻ còn chưa rời nhũ mẫu, thân phụ Đoan Vương không quyền không thế, cho nhập kinh tiến cung có phải là dâng dê tới miệng cọp hay không?
– —
Tiêu Thận nhận áo choàng từ tay tôi tớ, lại im lặng nghe hắn bẩm báo, đầu mày liền nhíu lại: “Hoàng Hậu triệu kiến Trương Hiển Chiêu?”
Tiêu Thận xuất thân khoa cử, trước nay ưa đề bạt nhân sĩ khổ hàn. Trương Hiển Chiêu này hắn đã nghe danh từ lâu, tuy cũng có tài năng, thế nhưng thi rớt liên tục, hắn cũng đã từng nghi ngờ Trương Hiển Chiêu này đắc tội giám khảo. Đầu óc có tài là thật, tính tình nhạy bén cũng là thật, vậy mà một đường trắc trở. Sau hịch văn chỉ trích dâng tội Tiểu Nhan hậu khởi lên từ Giang Nam, chẳng mấy chốc đã lan khắp nẻo đường lớn ngõ nhỏ, Tiêu Thận cũng lo lắng hắn rước lấy mầm tai họa, có tâm chỉ điểm, khuyên hắn nhập kinh. Nguyên, vốn là muốn sau khi phủ nha khai ấn sẽ tiến cử Trương Hiển Chiêu với Hoàng đế, thế nhưng Hoàng đế chỉ mới nghe qua đã rất nóng lòng, triệu kiến trong đêm. Tán ngẫu trò chuyện vui vẻ, ban cho chức chính Thất phẩm Biên tu Hàn Lâm viện, lại cho ngụ tại Hoằng Văn quán.
Một người như thế, lại đang vào lúc này, Hoàng hậu nên tránh, miễn cho Hoàng đế ngờ vực nghi kị mới phải.
Tiêu Thận dừng bước chân, đứng lặng trên cầu Kim Thủy, bàn tay vịn lan can cẩm thạch được điêu khắc tinh xảo. Phóng tầm mắt ra xa, hắn nhìn vòm mái cong lên như móc câu chập chùng nơi Hoàng cung, hết thảy bị màn truyết trắng đầy trời bao phủ. Hắn đột nhiên có cảm giác càng lúc càng không nắm bắt được tâm tư của nữ tử đang ở nơi hậu cung kia, người thanh lãnh u nhược nhưng cũng cao ngạo như khó thấu kia, vị Hoàng hậu điện hạ kia.
Từ sau đời Nguyên Sóc đế, Tấn triều càng coi trọng việc tu dưỡng sách vở, lại có Thừa tướng Ôn Thanh Hà đổi mới lại chế độ khoa cử, hiện tại, cứ ba năm sẽ có một kỳ nữ khoa. Nữ tử cũng không khác nam tử là bao, có thể đọc Tứ thư Ngũ kinh, có thể tu thân trợ quốc, có thể giương cung rút kiếm ở nơi sa trường. Nhớ những năm Nguyên Sóc, Thuần Nguyên Hoàng hậu cũng thường đàm luận với quyền thần, với thanh lưu nhân sĩ. Nếu không phải là trường hợp đặc biệt, Hoàng hậu không có ai lại không thể gặp. Triệu kiến ngoại thần, phải thông qua thánh ý một câu, thế là đủ.
Khôn Ninh cung[3] là cung của Tiên Hoàng hậu, Hoàng đế vẫn còn vướng bận lưu luyến, không muốn người mất cảnh cũng mất, vậy là ban cho Tiểu Nhan hậu một cung khác, rộng lớn cũng xấp xỉ.
[3] Cung dành cho Hoàng hậu ở Tử Cấm Thành, truyện phỏng Minh, mà Tử Cấm Thành là hoàng cung của cả hai triều Minh – Thanh.
Vị Ương cung.
Trương Hiển Chiêu nhập kinh cũng đã được mấy ngày, chẳng những không hề lo lắng mà còn có mấy phần quen thuộc chuyện trong triều. Thái tử Hoằng hoăng sớm, quốc tang kéo dài một tháng, trong lúc đau buồn cho Hoàng tự, phẫn nộ cho cho đế nghiệp, hắn xúc động viết một bài hịch, lại vô ý cuốn vào vòng phân tranh. Tiêu Thận đã căn dặn hắn, chắc chắn sẽ có người muốn hãm hại hắn, đạo lý này hắn hiểu. Nam nhi chí ở tứ phương, hiển nhiên sẽ không vì sợ chết mà co đầu rụt cổ. Mấy ngày nay hắn ở Hàn Lâm viện và Hoằng Văn quán đã băn khoăn trăn trở, cũng không trò chuyện với ai. Tiêu Thận đã dặn dò, tạm thời hãy cứ yên lặng tránh sóng gió, quan sát tình thế trong sáng ngoài tối, rồi sẽ xem xét lâu dài.
Nào ngờ, sóng gió đã tự tìm tới cửa.
Tuyết đọng đầu cành mai, đung đưa bên cửa sổ. Than hương gỗ tùng đỏ rừng rực, nước trong nồi nhỏ sôi lăn tăn. Mười cân trà Phổ Nhị này là triều cống của Điền Nam. Trước, rửa trà. Sau, đun nước. Lá trà mỏng bung tỏa trong nước sôi, ba chìm bảy nổi, rất nhanh, hương sắc phai ra trong nước trong veo.
Nhẫn Đông đưa trà tới gần, hương trà quanh quẩn bên nàng, đã sớm vào bay vào mũi một người yêu trà như mạng Trương Hiển Chiêu. Hắn tới từ nơi dân gian, quy củ lễ nghi còn chưa thông thuộc, không nhịn được mà rướn người lại hít một hơi sâu, xoa xoa bàn tay, nóng lòng muốn thử. Nhẫn Đông nhìn bộ dạng này thấy thật hài hước, nhưng rồi cũng chỉ buông mi, quỳ gối thẳng lưng ngồi bên bàn cờ. Dâng trà tới cho Hoàng Hậu, rồi liền mắt nhìn mũi mũi nhìn tâm, không nói lời nào, quy củ chuẩn mực.
Không chỉ có Nhẫn Đông như vậy. Khi nãy Trương Hiển Chiêu vừa bước chân vào Vị Ương cung đã nhận thấy cung nhân từ lớn tới nhỏ, từ trên xuống dưới đều chuẩn mực lễ nghi, cúi đầu buông mắt, đủ để biết Hoàng Hậu biết quản hạ nhân nghiêm đến thế nào.
Trương Hiển Chiêu đỡ tay áo, tay kia nâng chén, khẽ nhấp ngụm trà, ánh mắt lại không tự chủ được mà bất tuân lễ chế – ánh mắt hắn dừng lại ở ngón tay đang vuốt ve quân cờ của Hoàng Hậu, nước da trắng nõn, thon gầy mỏng manh. Hoàng Hậu nguyên quán Kim Lăng, trước khi nhập cung hẳn là cũng ở đó, mà Trương Hiển Chiêu quê quán Lâm An, rất gần với Kim Lăng, cũng đã nghe được ít nhiều lời đồn đại. Nhan Hoài Tín, ngoài đích thê Dương thị ra còn có một thiếp thất nhất phòng. Nam nhân tam thê tứ thiếp không có gì đáng ngạc nhiên, chỉ là người thiếp kia từng đỗ Trạng Nguyên dưới thời Tiên đế. Trương Hiển Chiêu hắn thi trượt mấy lần, vừa ghen tị vừa ngưỡng mộ, cũng có vài phần muốn thân thiết kết giao.
Chỉ tiếc, vậy mà lại sinh dưỡng ra một Hoàng Hậu độc ác tàn nhẫn đến mức này, khi xưa không kết giao cũng chẳng tiếc!
Trương Hiển Chiêu ngửa đầu uống cạn chén trà, đi một nước cờ bao vây lấy quân của người đối diện, nhìn thế cục này, tựa như là Hoàng Hậu đang bị bao vây hai mặt, tiến thoái lưỡng nan.
Trà ngon vào miệng, Trương Hiển Chiêu thầm nghiền ngẫm, đã tỉnh táo vài phần. Trong mắt hắn, nơi hậu cung không phải là nơi đầm rồng hang hổ, mà Hoàng Hậu cũng chỉ là một thiếu nữ chưa tròn mười sáu, nam nhi thân cao bảy thước như hắn sợ hãi điều gì? Thái tử Hoằng tạ thế chưa lâu, triều cục chưa an ổn, Nhan Tốn và Hoàng Hậu, dù là ai cũng không dám làm xằng làm bậy.
“Trương đại nhân nương tay rồi.” Ngữ điệu như bình thường, nghe vào tai hoảng như là một mảnh sa lụa trắng muốt rơi trong thanh tuyền, sạch sẽ không nhiễm cát bụi, thanh triệt mà lại lãnh liệt, cuối cùng thì vẫn là còn tia nhu hòa sót lại
Trương Hiển Chiêu đưa tay, lần mò muốn lấy thêm quân từ trong bát sứ, xúc cảm lạnh lẽo trơn nhẵn truyền từ quân cờ ngọc thạch tới ngón tay hắn khiến hắn kinh hãi trong lòng. Hắn tự nhận, bản thân học chơi cờ từ năm ba tuổi, xưa nay hiếm gặp địch thủ, lúc nhập kinh Tiêu Thận cũng đã so tài với hắn mấy bận, đều thua. Vậy mà chưa tới nửa nén hương, Hoàng hậu vậy mà lại…
Trương Hiển Chiêu không thể tin nổi, cúi đầu nhìn kỹ thế cờ. Quân đen quân trắng gắt gao vây lấy nhau, hắn dò tìm kẽ hở, suy nghĩ mình đã thất thủ nơi nào để đối phương nắm được tiên cơ. Vốn đang nắm chặt lấy quân cờ, hắn đột nhiên buông thả, quân cờ rơi lại vào trong bát sứ, như chợt tỉnh ngộ. Hắn hối hận không thôi, hận mình nóng vội khinh địch. Mỗi nước đi của Hoàng hậu đều cẩn trọng chu toàn, hắn lại cho rằng cờ thuật của nàng không tinh thông, không dụng tâm đối phó, tất thua.
Hoàng hậu lau tay rồi nâng chén uống trà. Khi uống trà vẫn trầm ổn ôn hòa như cũ, không hề vì thắng một vàn mà vui mừng hả hê, chỉ là, mi tâm nàng thả lỏng: “Trương đại nhân có nhã hứng chơi thêm một ván hay không?”
Nếu là người khác, Trương Hiển Chiêu hắn tất nhiên sẽ ứng chiến. Trong hịch văn, ngòi bút của hắn biến huynh muội Nhan gia thành ác nhân, thành tội đồ trúc Nam Sơn không ghi hết tội. Hắn chưa từng gặp Hoàng Hậu, nhưng trong điển tích, trong sách sử đã có quá nhiều những bài học về ngoại thích loạn chính. Bất kể dù là chính cung hay là tần phi, loạn chính, tất là loại nữ tử hồ yêu mị tử, hồng nhan họa thủy. Trương Hiển Chiêu từ lâu đã biến Hoàng Hậu thành yêu tinh, nào ngờ người đang ngồi trước mặt hắn đây, lại là một nữ tử tâm tư thâm trầm, một thân bạch sam tố y trắng còn hơn tuyết.
Trương Hiển Chiêu đành hỏi thẳng: “Thứ cho thần cả gan, xin hỏi điện hạ hôm nay triệu kiến vi thần là vì chuyện gì?”
Hoàng Hậu nâng cằm, phảng phất cao ngạo, tay ngọc vịn lấy bàn tay Nhẫn Đông, đứng dậy mỉm cười: “Không có chuyện gì, đánh một ván cờ mà thôi.”
Ngữ khí kiên định bình thản, ý tại ngôn ngoại[4], Trương Hiển Chiêu không đoán ra ý tứ, nghi hoặc trong lòng càng sâu. Thấy Hoàng Hậu đứng dậy, cũng biết mình nên cáo lui rồi, cũng nhanh chóng cúi đầu hành lễ, im lặng đi ra. Bước chân đi tới giữa điện, chợt nghe Hoàng Hậu đột nhiên liên tiến: “Hịch văn, ý tứ sâu xa, hành văn rõ ràng, chỉ có một điểm chưa được thỏa đáng.”
[4]: Ý ở ngoài lời, nói ít hiểu nhiều.
Trương Hiển Chiêu cả kinh. Văn nhân, mỗi người đều có một lối hành văn riêng, xưa nay hắn viết lách không đưa bằng chứng, chỉ nói suông mà thôi. Hịch văn vạch tội huynh muội Nhan thị, so Nhan Hậu với Võ Chiếu, nếu hôm nay Hoàng Hậu lại nói thế này, sợ rằng là điểm ấy đi? Nhưng không thỏa đáng chỗ nào? Hoàng Hậu đang ám chỉ mình không có dã tâm bước lên Đế vị, hay là đang ám chỉ mình không mưu hại Hoàng tự tôn thất, hoặc chăng, đang phủ nhận cả hai? Suy cho cùng, vì sao Hoàng Hậu nói với hắn những lời này, hắn đều không chắc.
Trương Hiển Chiêu đã đi rồi. Hoàng hậu đứng dưới mái hiên, phóng tầm mắt ra xa xa, như thể đang nhìn vết khắc trên thân cây Hải Đường. Ánh mắt nàng thâm thúy u tĩnh, bàn tay dưới tấm áo choàng lông hồ đã nắm chặt lại thành quyền. Nhẫn Đông đem thủ lô tới cho nàng, nàng cũng chỉ đưa mắt nhìn thoáng qua, cũng không nhận lấy.
Lại hỏi: “Lưu Đạc đã về tới kinh thành chưa?”
Nhẫn Đông: “Đã tới Ký Châu, ước chừng ngày mai sẽ về đến.”
Nhẫn Đông nói thêm: “Điện hạ, Trương Hiển Chiêu người này bộ dáng nông cạn, cũng chỉ là kẻ lỗ mãng mà thôi, được chút tài múa bút đổi trắng thay đen, cớ gì điện hạ còn triệu hắn tới cho thêm chướng mắt?” Nhẫn Đông không phải người lắm miệng, nhưng nàng thực lòng không vừa mắt tên này.
Hoàng hậu trầm mặc, chỉ im lặng không nói. Nàng vẫn chỉ lẳng lặng, chăm chú nhìn về phía cây Hải Đường. Nàng nhìn, trong tâm khảm lại hiện lên hình dáng Thái tử Hoằng ngày ấy, nhu thuận hiểu chuyện. Hàng mi nàng khẽ run. Uyển chuyển xoay người, lúc này mới nhận lấy thủ lô, đặt thủ lô trong lòng bàn tay lạnh lẽo, trấn định phân phó: “Dọn dẹp tẩm điện cho thỏa đáng, đem mấy kiện y phục mới để sẵn vào trong tủ.”
Còn về Trương Hiển Chiêu, tuy không thể nói hắn là kẻ thức thời, cũng không thể khen hắn là trang tuấn kiệt, nhưng phàm là người, ai lại không yêu mạng? Hắn nhận được những lời như sương gió lại như mây mù của Hoàng Hậu, trở về, tất sẽ mật nghị với Tiêu Thận.
– — Hết chương 2 —
Hoàng quyền
Đoan Vương là tôn thất nhánh xa, năm xưa khi còn là Vương Thế tử, nhập cung bầu bạn bên Hoàng đế. Tái Hữu đế và Đoan Vương xấp xỉ tuổi nhau, cùng nhau chán ghét đám vương hầu xu nịnh, chẳng mấy chốc mà thành huynh đệ tình sâu nghĩa nặng, Tái Hữu đế quý trọng nuông chiều Đoan Vương vô cùng. Năm ấy Tái Hữu đế bắt đầu nắm quyền chấp chưởng, Đoan Vương cũng đã tròn mười lăm, theo lý cũng đã đến lúc phong Vương, cấp đất, thế nhưng Hoàng đế không bằng lòng, muốn hắn ở lại trong cung. Nào ngờ Đoan Vương lại bị lời tiểu nhân che tai bịt mắt, nhất định muốn được phong đất, cuối cùng lại bị cuốn vào Bát Vương chi loạn.
Bình định được phản loạn, Hoàng đế dù là có đau lòng, thế nhưng không còn cách nào khác, xuống tay ban chết cho những người không biết ân hận hối cải, còn những người biết quay đầu ăn năn, giam lỏng trong bốn bề tường cao của Tông Nhân Phủ[1]. Riêng Đoan Vương, Hoàng đế là người nặng tình nghĩa, bản tính do dự thiếu quyết đoán, giết thì không nỡ, giam hắn trong Tông Nhân Phủ thì lại cảm thấy thực chướng mắt phiền lòng. Thương nghị với trọng thần, cuối cùng hủy bỏ tông tịch, biếm làm thứ dân, lưu đày đến đất Cô Tô vắng lặng, tam ti Cô Tô thành trông giữ, cả đời gia quyến không được phép đặt chân tới Yến Kinh.
[1]: Truyện phỏng Minh, cho nên đây là một cơ quan được thành lập bởi Minh Thái Tổ, tên Đại Tông Chính viện, sau chính thức đổi tên thành Tông Nhân phủ. Chức năng, chuyên quản lý nội bộ hoàng tộc (tông tịch, ngọc phả…) các vấn đề liên quan đến tôn thất (Vương – Công – Hầu).
Hàng tháng Bố Chính sứ[2] Cô Tô thành sẽ cho người tới phát ngân lượng và vải vóc, cũng không thể chết, nhưng đủ để tỉnh dậy từ hồi mộng vinh hoa phú quý khi xưa.
[2] Chức quan trong ty Bố Chính – ty cấp địa phương, phụ trách các vấn đề tài chính, hành chính như thuế khóa, đinh điền, đê điều, hộ tịch lẫn trọng trách truyền đạt chính sách và chủ trương của triều đình.
Nhũ mẫu nhà Đoan Vương cũng chỉ là bá tính bình thường mà thôi, là một người nghèo khó, cả đời sống trong thôn nhỏ, hài tử lại còn quá bé, vậy là không một dấu hiệu báo trước, cũng theo Lưu Đạc vào cung. Một dã phụ nơi nông thôn, đừng nói đến Đế đô Yến Kinh tài tử giai nhân bốn phương đổ về, ngay cả đến lầu gác trong thành Cô Tô cũng chưa từng dám đặt chân vào. Một đường đi vội không ngừng nghỉ, tuy rằng roi da thúc ngựa, gió lạnh thấu xương, thế nhưng đôi lúc kéo rèm lên nhìn ra, ấy là một lần miệng há ra không thể khép lại.
Đứa trẻ nằm trong lòng nhũ mẫu, ngủ say. Lớp chăn bông dày dặn bao bọc nàng, nom như một nắm bột nếp. Khi ấy Lưu Đạc sai người đi đốt than sưởi đặt trong xe, nhũ mẫu lại nói không thể, sợ Tiểu quận chúa còn nhỏ, không chịu được hơi nóng của than. Hắn đành cho người dẹp chậu than đi, nhưng lại sai mang lên hai lớp chăn bông, lúc ấy mới yên tâm.
Nhũ mẫu xoa xoa vỗ vỗ lưng đứng trẻ, ngâm nga đoạn ca dao sơn dã dỗ dàng, lại nhớ tới mấy lời Đoan Vương và phu nhân nói riêng với nàng trước khi lên đường, không khỏi cau mày. Cũng không nhiều lời, Đoan Vương căn dặn vài điểm quy củ cơ bản trong cung, mà Vương phi, xưa đã mất một nhi tử, nay nữ nhi cũng bị cướp đi, lời nói cũng trở nên bạo gan, nói với vú nuôi: “Tuyển Trữ quân? Trữ quân cái gì? Loại chuyện thế này sao lại đổ lên đầu chúng ta? Ta nghe nói Hoàng Hậu này ban ngày thì phiêu diêu lãnh đạm như thiên tiên, mà đêm xuống liền biến thành hồ tinh, hút tinh khí của trẻ con mà sống đấy! Ngươi đi nhìn xem có phải hay không, nếu quả thực là như vậy, nhất định phải bảo vệ nữ nhi của ta cho tốt, đừng để Hoàng Hậu có cơ hội hãm hại con bé.”
Qua vài con phố, nhũ mẫu lại vén rèm lên xem, thấy nơi đây vắng vẻ thưa người, không có gì náo nhiệt mới buông màn xuống, thế nhưng cũng không biết Hoàng thành đã ngay gần.
Xuống xe ngựa, lên một chiếc kiệu, kiệu vào cổng son.
Đứa trẻ ngủ rất an ổn, thái giám nâng kiệu, bước chân nhẹ nhàng, con đường lát gạch đá vừa được dọn tuyết, có chút trơn ướt, nhưng kiệu vẫn rất vững vàng.
Trái tim của nhũ mẫu đập loạn, nhẩm lại những lời Đoan Vương đã dặn dò, rằng vào cung rồi, không được nhìn nhiều, không được nghe nhiều, cũng không được nói nhiều. Ngồi bên trong cỗ kiệu quý giá, mí mắt cũng không dám mở ra.
Ngồi một hồi lâu, kiệu dừng. Nội thị vén màn, vẻ mặt tươi cười.
Nhũ mẫu ôm đứa trẻ trong vòng tay, vẻ mặt ngơ ngác, bước qua ngưỡng cửa. Bước vào, lặng người ngay tức khắc.
Đoan Vương đã nói cho nàng biết rằng quảng trường trước Thái Hòa điện này, trừ Hoàng đế ra, dù cho có là ai cũng phải xuống kiệu, đi bộ. Đi hết khoảng không rộng lớn này trước Thái Hòa điện, lúc ấy mới có thể vào điện, khi vào phải vào từ lối ở hai bên. Đoan Vương lo lắng nhũ mẫu không hiểu, nói đến khúc chiết ngắn gọn, nàng cũng tự tin rằng mình đã hiểu tường tận rồi. Có điều lúc này đã bị quang cảnh trước mắt dọa sợ đến thất hồn lạc phách, chẳng thể nhấc được bước chân. Cấm binh trang nghiêm đứng gác, thân mang khôi giáp, đầu đội mũ sắt, tay cầm hồng thương, ai nấy hiên ngang oai hùng.
Nhũ mẫu cảm thấy như bước chân của mình đang đạp trên mây, đại não u mê không rõ ràng, bản thân mình đã vào đến được Thái Hòa điện bằng cách nào cũng không biết nữa. Đợi đến khi định thần lại, nhìn xuống dưới chân đã thấy mình đang bước trên sàn gạch một màu vàng hoàng kim sáng như gương soi. Thành tâm thành ý dập đầu, đôi môi trắng bệch run rẩy, đã quên sạch phải nói lời thỉnh an thế nào, cũng không ý thức được rằng mình đã đánh thức đứa trẻ kia.
Không dám ngẩng đầu nhìn lên, chỉ dám căng mí mắt, dùng khóe mắt quan sát xung quanh. Khóe mắt liếc nhìn những bậc cấp, lại thấy dường như ở kia có một bàn dài, vải vàng phủ kín, trên đó mặt một vật nhìn như hộp gỗ, trước nay chưa từng thấy, không nhịn được mà liếc mắt tới vài lần. Đột nhiên, một tiếng ‘Coong!’ vang lên, không biết là phát ra từ đâu, nghe tựa như tiếng chuông đồng vang lên mỗi sáng từ ngôi chùa trên đỉnh núi Cô Tô, nhưng rồi âm thanh lại dễ chịu hơn nhiều.
Nhũ mẫu tái mặt, lo sợ Lưu Đạc đã dẫn mình tới sai chỗ rồi, liệu có phải đã vào nơi thần quỷ rồi hay không, không chừng phu nhân nói đúng, Hoàng hậu là hồ tinh. Đang lúc hoảng loạn suy nghĩ, thanh âm ấy lại lần nữa vang lên, hai chân nhũ mẫu nhũ ra, nghiêng ngả.
Hoàng đế cười lớn, đưa tay chỉ vào quả cân đang lắc lư: “Không phải sợ, đây là đồng hồ, người Tây Dương dùng để xem canh giờ mà thôi.”
Đồng hồ!
Đứa trẻ mở mắt, nhìn về phía kia.
Nàng, kiếp trước sống ở thế kỷ hai mốt, một chuyên viên điều chế nước hoa. Đêm đó cũng chỉ là tùy tiện dùng kính viễn vọng mình mới mua được mà quan sát thiên tượng một lát mà thôi, ai ngờ được đột nhiên không thể thở nổi, rồi cứ thế mà ngất đi. Tới thế giới này đã một năm, ngày này qua ngày khác sống ở nơi thôn dã vắng vẻ, ngay đến cửa chính cũng chưa thể bước ra nửa bước. Cha nương luôn nói những chuyện cơm gạo mắm muối, nhưng nàng không thạo chuyện hàng hóa giá cả, đã từng ấy thời gian cũng vẫn không biết rốt cuộc mình đang sống ở thời đại nào.
Tấn triều, nàng vẫn luôn cho rằng Tấn triều này chính là Tấn triều của Tư Mã Viêm ở thành Lạc Dương, nhưng nàng lại là họ Đường, không phải họ Tư Mã. Tuy nói phụ thân tạo phản, nàng ra đời cũng không được liệt vào tông tịch, thế nhưng họ Đường quả đúng là họ của Tôn Thất. Nghe người xung quanh nói chuyện cũng không khó hiểu, nàng đều hiểu được. Vừa rồi khép mắt quan sát bài trí trong điện, cảm thấy có vài phần giống với Tử Cấm Thành, mà nam nhân cũng không cạo nửa đầu buộc bím tóc, mà lại là nuôi tóc dài rồi xuyên trâm cài trụ trên đỉnh đầu. Lúc này nàng đã có thể cả gan đoán rằng có lẽ mình đang ở một triều đại song song với Minh triều, còn nhớ vào năm Vạn Lịch đế Minh Thần Tông, đồng hồ nước đã được Matteo Ricci đem vào Hoàng cung.
Nhũ mẫu được Hoàng đế ban ghế ngồi, lại càng thấp thỏm không yên.
Hoàng đế nói vài câu trấn an, trông đứa trẻ đang mở to mắt mà nhìn mình, khuôn mặt như tuyết trắng, vô cùng xinh xắn đáng yêu. Hoàng đế lại cúi đầu, dò theo Ngọc phả không thấy có đứa trẻ này, bèn hỏi: “Nàng xếp thứ mấy? Đã được ban tên hay chưa?”
Hoàng đế vừa khỏi bệnh, đầu đội Dực Thiện quan[3], viên lĩnh[4] đỏ rực thêu cửu long vần vũ bằng chỉ vàng trước ngực giúp hắn tôn lên chút khí thế uy nghiêm, nhưng ngữ điệu hòa hoãn, thanh âm không lớn. Nhũ mẫu dần bình tâm lại, nói bằng thứ giọng địa phương: “Hồi bệ hạ, tiểu Quận chúa còn có một ca ca. Nghe phu nhân nói khi ấy hắn không chịu được cái lạnh trên đường lưu đày nên đã chết cóng. Tên cũng đã có, trước cửa nhà có một con sông, dân bản xứ gọi là sông Oanh Hà, lão gia lo lắng tiểu Quận chúa sẽ sẽ giống như ca ca nàng, mong nàng có thể thu được linh khí của đất trời, để sau này thân cường thể kiện. Thế là mượn chữ Oanh, đặt cho nàng.”
Nghe Lưu Đạc gọi Đường Oanh là tiểu Quận chúa, nhũ mẫu cũng có chút lanh lẹ, cũng xưng hô như vậy.
Đường Oanh thảng thốt trong lòng, nói những lời này là để cầu lòng thương hại của Hoàng đế đấy sao? Cũng không hiểu nhũ mẫu này lấy những lời này từ đâu.
Thời điểm phụ thân đặt tên cho nàng, nàng còn nhớ rõ. Phụ thân xoa xoa chòm râu, bộ dáng thâm trầm: “Cũng không biết liệu có nuôi sống nổi không, chi bằng gọi ‘Oanh Hà’ đi.”
Mẫu thân nghe, liền phản bác: “Đường Oanh Hà? Chàng không chê khó nghe là được rồi.”
“Vậy chỉ một chữ ‘Oanh’ thôi.”
“Đường Oanh?” Hoàng đế hỏi lại, rồi như suy tư điều gì, cũng gật đầu, đóng sách lại, phân phó Từ Đức Hải dẫn Đường Oanh và nhũ mẫu tới Vị Ương cung.
Đường Oanh thức dậy rồi, nhũ mẫu cũng đổi tư thế ôm nàng. Một tay ôm lấy cổ nhũ mẫu, quay đầu nhìn lại, Hoàng đế vẫn còn đang nhìn theo nàng, ánh mắt mấy phần dịu dàng ôn hòa, lại dường như có cả mấy phần hoài niệm và hối tiếc.
Tâm tư Đế vương thâm sâu khó dò, tuy rằng kiếp trước Đường Oanh đã sống được hơn kém hai mươi năm, thế nhưng đối mặt với Quân vương trẻ tuổi chấp chưởng giang sơn, khống chế quần thần, nàng vẫn chỉ như là đứa trẻ mà thôi, không hiểu được, cũng không đoán ra. Cũng may mắn, dường như Hoàng đế là một người ôn hòa, chỉ có điều nàng không biết Hoàng hậu hút sinh khí, uống máu tươi của Hoàng tự kia đến tột cùng thì là người thế nào?
Hai cánh môi mỏng khẽ khép lại, khóe miệng câu lên một đường cong, cười một nụ cười nhàn nhạt. Môi son tựa như đóa hồng mai, khi cười, nở rộ trên làn da trắng nõn như ngọc tuyết, thậm chí nếu kề sát lại gần còn nghe thoang thoẳng hương hoa. Đường Oanh nhìn người trước mắt này, cảm thấy những lời đồn đại kia đều là thật quá vô căn cứ rồi. Nàng cảm thấy người này thật giống như một bóng hình trong một bức tranh đã phủ bụi ngàn năm, đã sớm cũ kỹ úa vàng, từ từ bước ra.
Xảo tiếu thiến hề, mỹ mục phán hề.[5]
[5]Đôi môi rất đẹp, cười lên rất duyên; Đôi mắt có hồn, con ngươi lấp lánh.
Lên tiếng, ngữ điệu ôn nhu, giọng nói êm tai: “Lặn lội đường xa, chắc hẳn là đói rồi. Nàng muốn ăn gì?”
Nhũ mẫu vừa nhìn thấy Hoàng Hậu đã không thể dời mắt được, nhưng cũng biết rằng không thể nhìn. Vốn cho rằng Đoan Vương phi đã là tuyệt thế mỹ nhân, há lại tưởng tượng được trên đời còn có người sở hữu dung mạo như thế này. Lại nghĩ về lời kia, nói Hoàng Hậu là yêu nữ, bất giác ôm lấy cánh tay, thậm chí không ý thức được đứa trẻ đã chạy ra.
Hoàng Hậu ngồi trên giường, Đường Oanh nghiêng ngả chạy về đây, hai tay giơ lên, nhũ mẫu muốn tới bắt về rồi lại liếc nhin Hoàng Hậu, rốt cuộc là mặc kệ đứa trẻ này thôi. Hoàng Hậu cười cười, đưa tay bế đứa trẻ kia lên, ôm vào trong lòng mình. Hoàng Hậu tuy rằng chưa từng sinh, nhưng đã từng dưỡng mấy vị tôn thất, chỉ là, Đường Oanh này là đứa trẻ nhỏ nhất.
Đứa trẻ vừa tròn một tuổi, cả người mềm mại, Hoàng Hậu không dám dùng sức, lại thấy nàng ngoan ngoãn nằm yên, không khỏi đưa tay xoa xoa đầu nàng. Ánh mắt Hoàng Hậu chuyển về nhũ mẫu, ý tứ chờ đợi câu trả lời.
Thấy nhũ mẫu ậm ừ: “Thích ăn… yên chi.[6]”
[6]: Son môi
Yên chi?
Hoàng Hậu nghi hoặc, đã thấy có ngón tay nho nhỏ đưa tới bên cánh môi mình. Hoàng Hậu yên lặng nhìn xuống, thấy ngón tay ấy chạm vào môi mình, đôi mắt to tròn, ánh mắt lấp lánh. Ngón tay còn dính yên ấy chi đưa tới môi, miệng nhỏ của đứa trẻ cười lên.
—- Hết chương 3 —
Editor mạn đàm:
Chiếc plotwist nho nhỏ ngay tập 3. Kiểu xuyên về trong thân xác đứa nhỏ thế này tương tự trong “Phải không, phải không, là hồng phai xanh thắm”, điểm chung là xuyên về từ khi còn nhỏ thế này rồi dần dà sau này từ lối suy nghĩ cho tới tính tình sẽ hoàn toàn nhập vào trong thời đại, sẽ thành ‘cổ nhân’ chân chính.