Thành Vương hữu quá, tắc thát Bá Cầm
Đường Oanh ló đầu ra khỏi chăn, đôi mắt long lanh, ánh mắt như bị phủ một tầng sương. Nàng nhìn Hoàng hậu, cố sức đè nén tâm trạng của mình, cười lên một cái, gọi: “Mẫu hậu.”
Tựa hồ như không có gì bất thường, Hoàng hậu ngồi xuống bên giường, bàn tay áp bên sườn mặt Đường Oanh, đầu ngón tay lướt qua khóe mắt nàng, rất tự nhiên mà lau đi giọt nước mắt. Lúc ấy mới khẽ nở nụ cười, hỏi: “Khóc rồi? Lại gặp ác mộng sao?”
Đường Oanh gật đầu, tới ôm lấy cổ Hoàng hậu, mặt tựa lên đầu vai nàng. Hoàng hậu cũng không truy hỏi giấc mơ ấy là về điều gì, cũng không chê cười người rơi lệ kia thật mau nước mắt, chỉ lẳng lặng vỗ vỗ lưng đứa trẻ mà thôi. Hoàng hậu bất giác nhớ tới bốn năm năm trước có đứa bé lảo đảo chạy về phía mình, qua những năm này, dùng cả tấm lòng son, từng chút từng chút sưởi ấm linh hồn nàng.
Hoàng hậu vỗ lưng Đường Oanh, nhẹ giọng an ủi: “Hôm nay trời đẹp, vừa khéo lại có cảnh xuân, hoa trong đình viện cũng nở rồi, chúng ta có tới xem một chút?”
“Vâng.” Đường Oanh gật đầu, đoán rằng có lẽ mẫu hậu cũng không biết vì sao mình buồn khóc đi, bây giờ đang là ban trưa, cũng chỉ cho rằng gặp phải ác mộng nên khóc mà thôi.
Hoàng hậu lại thấy đứa trẻ kia vẫn cứ ôm lấy mình, không có ý buông ra, đành bất đắc dĩ nhắc nhở: “Tiểu Thất, từ đây tới đình viện còn xa, mẫu hậu sao có thể ôm ngươi được?” Mà cũng đã qua năm tuổi rồi, làm gì có đạo lý để người khác ôm bế?
Đầu đứa trẻ vẫn đặt trên vai nàng, có sợi tóc cọ bên cổ khiến nàng ngưa ngứa, lại nghe đứa trẻ nói, giọng rõ là đang làm nũng: “Mẫu hậu không biết đâu, trong mộng có một con sói lớn, ranh mãnh vô cùng, cứ đuổi theo nhi thần mãi không buông, bây giờ hai chân nhi thần đều mềm cả rồi, không đi nổi.”
Hoàng hậu đảo mắt, lời này cho dù đến quỷ cũng chẳng tin nổi. Vậy là lạnh giọng mà nói: “Chân ngươi ngắn như vậy cũng không đuổi kịp, sói lớn kia xứng đáng chết đói.”
Đường Oanh nghe thế mới không ôm nữa, tay nhỏ vỗ vào nhau, “Mẫu hậu liệu sự như thần! Quả đúng là nó chết đói đấy.”
Cuối cùng, mẫu hậu ôn nhu, mẫu hậu cũng tuyệt tình, ôm đứa trẻ ra tới tẩm điện đã không nói hai lời mà buông tay thả xuống. Nắm lấy tay đứa trẻ, một lớn một nhỏ đi dọc hành lang. Gió mát thổi qua mang theo hương hoa, ánh nắng dịu chiếu lên vải vóc sang quý, tỏa ra một loại ảo ảnh đẹp đẽ, lại khiến người nhìn cảm được mấy phần ý vị tương nhu dĩ mạt[1].
[1] Nương tựa vào nhau.
Mùa xuân, hoa cỏ đâm chồi, cây cối xanh non, oanh yến chao liệng. Cành liễu xanh mướt đón gió xuân, trăm hoa như đang ganh tranh nở rộ. Trong đình, nội thị đang tỉa cành chiết lộc, cung nga đang nhổ cỏ hái hoa. Tầng tầng lớp lớp nếp đá uốn quanh Thái Hồ ánh lên trong nắng, dòng suối nhỏ bắt nguồn từ nơi đình Đông ôn tồn chảy qua ống trúc, đổ vào hồ. Dòng nước suối chạm mặt hồ, tạo thành một chùm bong bóng nước.
Bên bờ, Hoàng hậu và Đường Oanh ngồi trên xích đu. Xích đu này là do ba năm trước Hoàng hậu cho Tương Tạc giám làm, hoàn toàn bằng gỗ, khi lên cao có thể nhìn được một góc Hoàng thành. Khi ấy Đường Oanh nhập cung chưa lâu, lại là nữ hài, Đường Diễm và Đường Đại là nam hài, lại lớn hơn nàng nhiều tuổi, cho nên không tiện ở chung chơi chung. Hoàng hậu cảm thấy cả ngày đứa trẻ này ở trong cung không có bạn bè, lo lắng dần dà tính tình sẽ trầm lặng, vậy là cho làm một xích đu thế này, cũng đỡ buồn chán tịch mịch mấy phần.
Xích đu lên càng cao, tâm tình tựa hồ như cũng càng nhẹ nhàng. Đường Oanh thích thế này, chỉ ngồi mà không nói, nhìn trời nhìn mây, đón nắng đón gió, cả người cũng thư thái ấm áp hơn rất nhiều. Cảm giác này đối với nàng mà nói là một cảm giác rất tốt.
Hoàng hậu hỏi Đường Oanh hôm nay dự giảng đã học được điều gì. Đường Oanh không khỏi có chút khẩn trương, biết là Hoàng hậu cũng chỉ hỏi theo lệ thường mà thôi, quan tâm nàng có hiểu rõ tường tận gốc rễ hay không, quan tâm nàng có chuyên tâm học tập tu dưỡng hay không. Ánh mắt của Hoàng hậu dừng lại trên sườn mặt Đường Oanh, không uy áp, không nghi kỵ, không nghiêm khắc, thế nhưng vẫn khiến Đường Oanh cảm thấy khó mở miệng. Ngón tay đan vào nhau, Đường Oanh không biết Hoàng hậu có nhìn ra tâm tư của mình hay không. Bàn tay kéo kéo tay áo, Đường Oanh cúi đầu do dự trong chốc lát, cho nên, cũng vì thế mà nàng đã bỏ lỡ tia đau lòng rõ ràng hiện lên trong đáy mắt người bên cạnh. Đợi tới khi ngẩng đầu, gương mặt non nớt mi thanh mục tú kia chỉ còn một dáng vẻ như thể là có sự nan giải thực lòng không hiểu được. Đường Oanh hỏi: “Hôm nay Lục ca ca tới muộn, tiên sinh không trách phạt hắn, lại phạt thị đọc của hắn chép sách. Đây là vì cớ gì?”
Hoàng hậu nhìn vào đôi mắt của đứa trẻ này, trầm mặc một lát, chỉ nhìn như vậy thôi cũng đã đủ khiến bàn tay Đường Oanh toát mồ hôi, cơ hồ là không dám đối diện với Hoàng hậu. Việc nàng hỏi kia là việc thật, không hề dối trá bịa đặt nửa câu, thế nhưng đáy lòng nàng vẫn bất an, như thể việc giấu giếm Hoàng hậu là một việc vạn lần không nên, dù bất kể là chuyện gì.
Không khí quỷ dị, cơ hồ muốn sụp đổ, lại nghe Hoàng hậu lên tiếng, ngữ điệu nhẹ nhàng: “‘Thành Vương hữu quá, tắc thát Bá Cầm, sở dĩ kỳ Thành Vương thế tử chi đạo dã'[2], tuy Thương Tán tiên sinh là tiên sinh rèn dạy các ngươi, thế nhưng trước vẫn phải là thần tử của Bệ hạ, đạo quân thần không thể không trọng.”
[2] (Kinh Lễ) Sau khi Chu Võ vương diệt được nhà Thương, chẳng bao lâu thì chết bệnh. Chu Thành vương đăng cơ lúc tuổi còn nhỏ, Chu Công phụ chính, Thành vương thông tuệ nhưng bướng bỉnh, thầy lại không quản được Đế vương. Chu Công bèn đưa con mình là Bá Cầm vào cung làm thị đọc, cùng học với Thành Vương, mỗi khi Thành Vương phạm lỗi sẽ trách phạt Bá Cầm, cho Thành Vương biết được hậu quả của việc phạm sai lầm, vừa vì kinh sợ, vừa vì Bá Cầm mà tự biết tu thân.
Đường Oanh lại không đồng tình: “Nhưng Vũ xuống xe khóc tội[3], răn rằng ‘bách tính có tội, lỗi ở một người’. Thánh hiền minh quân còn như thế, cớ gì chúng ta phạm phải sai lầm lại liên lụy tới người không liên quan, để người vô tội phải gánh trách?”
[3] (Kinh Thư) Vũ, minh quân xếp cùng hàng Nghiêu – Thuấn, có một lần ngồi xe xuất ngoại tuần tra, gặp một tội nhân bị áp giải qua. Vũ dừng xe hỏi người áp giải, biết người ấy trộm thóc, lại xuống hỏi chính tội nhân vì cớ gì mà trộm thóc, thấy người ấy không dám trả lời, liền đứng đó rơi lệ. Thị tòng hỏi, Vũ nói rằng ấy là đang khóc cho chính mình, thân làm Vua mà bách tính gây tội, ấy là do Vua trị quốc không thành, từ ấy có tích ‘Vũ xuống xe khóc tội’ và tám chữ ‘Bá tính có tội, lỗi ở một người’.
Đường Oanh nói có sách mách có chứng, một bộ dáng lý lẽ nghiêm cẩn khiến cho Hoàng hậu không khỏi kinh ngạc, lại cảm thấy thực hài lòng. Khóe môi nàng cong cong, đưa tay vuốt gáy Đường Oanh, lại nói: “Tiểu Thất, hai đạo lý này không hề mâu thuẫn. Học đạo, trước phải toàn vẹn lễ tiết, biết quân thần trên dưới, sau mới là trị quốc, biết bồi dưỡng củng cố nhân trị[4]. Ngươi có thể hiểu được những điều này, mẫu hậu vui mừng.”
[4] Trong ‘Tam cương ngũ thường’, đạo quân thần xếp đầu tiên, Khổng giáo trọng đạo ‘quân thần’, xếp trên cả ‘phụ tử’ và ‘sư đồ’.
Đường Oanh lắng nghe lĩnh ngộ, nghe Hoàng hậu tiếp lời: “Thương Tán tiên sinh trách phạt thị đọc, ngươi là người ngoài cuộc đứng xem mà còn có dị nghị, cho rằng không thỏa đáng, vậy thì Lục ca ca của ngươi sẽ nghĩ thế nào? Phạm phải sai lầm, hiểu được phải trách bản thân, nguyện ý gánh trách, ấy là đáng khen. Thân là vương tử khác với phàm nhân, tu thân cũng chính là vì người khác, vì bách tính vậy. Lại nói đến đạo quân thần, thân là quân chỉ có thể tu lễ để tránh phạm sai lầm, không thể phạm phải sai lầm rồi để nhận hình[5], bằng không, đạo quân thần rối loạn khó vẹn toàn.”
[5]: Quân chủ là tối thượng, cho nên phải tu lễ nghĩa để ngăn chặn những sai lầm chưa xảy đến, còn hình phạt chỉ là để trừng phạt những sai lầm đã xảy ra mà thôi.
Những lời của Hoàng hậu như nước suối chảy giữa sơn lâm buổi ban sớm, thanh lãnh nhưng nhiễm tia ấm áp, nghiêm cẩn mà không thiếu dịu dàng, chảy qua tai Đường Oanh, trôi vào trong lòng nàng. Giọng nói của người này khiến nàng hiểu đạo lý, tường lý lẽ, khiến nàng tu thân rèn lễ, khiến cõi lòng đang loạn của nàng bình ổn trở lại. Rồi lại nửa đùa nửa thật, Đường Oanh hỏi: “Nói vậy, như thế nếu nhi thần là quân, quân phạm phải sai lầm, trên đời cũng sẽ không có ai trách phạt được nhi thần rồi?”
Vứt dứt lời đã thấy gáy mình bị Hoàng hậu vỗ một cái, Đường Oanh nhăn nhíu ngẩng đầu lên nhìn. Khi nói đạo lý Hoàng hậu luôn rất nghiêm túc: “Ngươi phạm phải sai lầm, còn có ta ở đây.”
“Nhi thần nhất định sẽ không phạm phải sai lầm, không để mẫu hậu thất vọng lo lắng.” Đường Oanh ngẫm nghĩ, con người là phàm nhân không phải thánh hiền, học đạo quân tử, một lời nói ra phải giữ đến cùng, mà tương lai còn xa vời như vậy, thật khó biết trước. Vậy là ngả vào trong lòng Hoàng hậu, đôi mắt hoa đào nhìn lên, vô cùng kiên định nghiêm cẩn: “Nếu như có ngày nhi thần phạm phải sai lầm, nhi thần cũng sẽ gánh hết trách nhiệm, nhận mẫu hậu đánh mắng trách phạt.”
Hoàng hậu nào có thể nhẫn tâm mà đánh mắng trách phạt đứa trẻ này, nuôi dạy nàng vài năm, đến lời nói nặng cũng chưa từng nói. Dù sao những lời này cũng thể hiện một mảnh hiếu tâm, vậy nên Hoàng hậu cũng chỉ cười nhạt gật đầu. Đặt bàn tay lên vầng trán của Đường Oanh, Hoàng hậu nhìn, lại nghĩ đứa trẻ này thực biết cách khiến cho người ta an tâm vui vẻ, tâm tính ổn định lại hiếu thuận, chỉ có một điều khuyết điểm.
Đường Oanh nhướn mắt nhìn bàn tay đang đặt trên trán mình, đột nhiên cảm thấy bàn tay ấy vô cùng đẹp đẽ. Vốn đang ngắm nhìn chăm chú, bỗng nhiên nghe Hoàng hậu hỏi: “Tiểu Thất có nhớ cha nương hay không?”
Đường Oanh đi dự giảng, Hoàng hậu không đi theo, thế nhưng nội thị cung nga theo hầu Đường Oanh đều là tâm phúc của nàng, Văn Hoa điện xảy ra chuyện gì vạn vạn không thoát khỏi lòng bàn tay. Đứa trẻ này càng lúc càng trưởng thành, cũng nên có chính kiến của chính bản thân mình, có không gian riêng, nàng hiểu, cho nên cũng không quá sát can thiệp, nhưng vậy không có nghĩa nàng bỏ mặc không quan tâm. Tuyên Thành Quận vương đột ngột tạ thế, Đường Đại khóc lớn giữa Văn Hoa điện, tâm tư Đường Oanh sao có thể không bị ảnh hưởng cho được? Hoàng hậu hồi cung, nghe Triệu nhũ mẫu và cung nga kể rằng Thất điện hạ tâm tình không tốt, Ngọ thiện cũng không dùng mấy, dùng xong liền vào tẩm điện. Hoàng hậu vốn là muốn đưa Đường Oanh ra đình viện giải sầu cho khuây khỏa. Tâm sự giấu trong lòng, lâu ngày hại thân, nào ngờ được đứa trẻ này cứng cỏi cố chấp như vậy, một mực không chịu nói ra. Nàng biết Đường Oanh chính là không muốn khiến mình phật ý suy nghĩ, càng không muốn mình lúng túng khó xử đấy.
Đứa trẻ này hiểu chuyện như vậy, suy nghĩ nhiều như vậy, càng khiến cho nàng đau lòng.
Đường Oanh vội vàng ngồi thẳng dậy, nhảy xuống đất, đứng thẳng mà nhanh chóng giải thích: “Không, không có. Nhi thần không nhớ. Không phải, nhi thần có nhớ, nhưng vẫn nhịn được. Cũng không hẳn, a cha nhi thần là phụ hoàng, a nương là mẫu hậu, nhi thần…”
Lời nói lúng túng bị cái ôm của Hoàng hậu đánh gãy. Hoàng hậu kéo Đường Oanh lại, ôm lấy nàng, bàn tay vỗ về gáy nàng. Thanh hương sơ lãnh bao quanh Đường Oanh, khiến cho nàng có chút mụ mị, nhất thời không giải thích gì nữa, lại nghe được thanh âm nhỏ nhẹ: “Nói lời ngốc nghếch gì vậy. Nhớ thì chính là nhớ, không cần nhịn, cũng không cần tránh. Phụ mẫu thân sinh cũng là cha nương của ngươi, người nuôi dạy ngươi ngươi cũng cần phải kính trọng, cũng không phải chỉ được lựa chọn một trong hai.”
Đường Oanh gật đầu, hàng mi hơi ướt.
Hoàng hậu cảm nhận được đầu đứa trẻ này lại gục trên vai mình rồi, có chút buồn cười: “Một buổi khóc tới hai lần, quỷ thích khóc sao? Nói ra thật khiến cho người ta muốn chê cười.”
Đường Oanh không thuận, nhỏ giọng phản bác: “Nhi thần còn nhỏ như vậy, một buổi khóc ba lần cũng được, mẫu hậu cũng sẽ không để ai chê cười.”
Hoàng hậu nghe, khóe môi không giấu được nụ cười: “Vậy đêm nay trước khi ngủ khóc thêm một lần nữa cho ta xem, để một mình ta chê cười là được rồi.”
“Mẫu hậu!” Đường Oanh gắt giọng.
“Tốt rồi tốt rồi, không trêu chọc ngươi nữa, cũng chỉ có lúc này ta mới coi ngươi như trẻ nhỏ mà nuông chiều. Mau lau nước mắt, vào trong dùng khăn lạnh đắp mắt, cứ như vậy chiều xuống đọc sách sẽ đau đầu.”
– — Hết chương 12 —
Editor mạn đàm:
“Không ai trách phạt được nhi thần.” Bệ hạ said/”Còn có ta ở đây.”Điện hạ said => Kết cục, mười năm sau Bệ hạ sai, Điện hạ nói trước bước không qua. cũng sai theo Bệ hạ luôn *thở dài*
Mẫu hậu không nhìn nhi thần,
làm sao biết nhi thần đang nhìn mẫu hậu?
Tấn triều, phiên vương đã được phong đất ngoài Đế kinh, đều không có mấy phần thực quyền. Tuy rằng Tuyên Thành quận vương qua đời đột ngột, thế nhưng có tam ti nha môn trấn giữ, không e đất phong vô chủ mà sinh biến loạn.
Tuyên Thành quận vương hoăng thệ, chiếu theo lễ chế, an táng Vương lăng Phúc Sơn, ban thụy hào Ôn Dụ, ý rằng là người nhân nghĩa trọng lễ, khoan dung độ lượng. Lại truy phong Trung vương, đại tang giao cho Tông Nhân Phủ phụng sắc chuẩn bị xử lý. Từng thứ cứ chiếu theo lễ chế mà làm, không hề hỗn loạn, chỉ có điều rằng chưa định được người thừa kế tước vị.
Dưới gối của Trung vương có Trưởng tử Đường Đại, thế nhưng đã trở thành dưỡng tử của Hoàng đế, trắc phi có một nữ nhi nhưng còn nhỏ tuổi, chưa lên bốn. Đây, vừa là gia sự, cũng vừa là quốc sự, Hoàng đế bèn truyền Tông Nhân lệnh Sở Vương cùng với vài vị triều thần tới bàn luận.
Sở vương, nắm trong tay cái chức Tông Nhân lệnh, hiển nhiên đã rành mạch Ngọc phả như lòng bàn tay. Hắn nói: “Trung vương khi còn tại thế có mối giao tình sâu đậm với Duệ vương, Thế tử của Duệ vương cũng đã qua tuổi nhược quán[1], lại có thân đệ song sinh, thiết nghĩ vô cùng thích hợp.”
[1]: Nhược quán chi niên – Ngày xưa, nam giới tới hai mươi tuổi thì sẽ làm lễ đội mũ, cho nên nam tử qua hai mươi tuổi gọi là “nhược quán”.
Đôi huynh đệ nhà Duệ vương này, Trưởng tử đã là Thế tử Duệ vương, người còn lại giờ lại thành dưỡng tử của Trung vương, kế thừa Vương vị, bảo toàn huyết mạch. Lại nói đất phong của Trung vương tiếp giáp với đất phong của Duệ vương, đường lối thuận tiện, khí hậu tương đồng, quả thật không thể nào thích hợp hơn. Mấy vị đại thần tỏ ý tán thành, chỉ có một người chợt lên tiếng.
Tiêu Thận đột nhiên nói: “Đất phong gần nhau như vậy, e rằng không ổn.”
Hoàng đế tựa như đang suy tư điều gì, rồi trầm ngâm gật đầu. Tuổi đời của hắn còn trẻ, thế nhưng tuổi lo chính sự thì không ít, tự thân chấp chính qua biến động binh quyền, đứng vững trước loạn Bát Vương, suy nghĩ đương nhiên sẽ sâu xa hơn Sở vương của Tông Nhân Phủ. Một ngày kia giả như sinh biến loạn, thân huynh đệ cùng mang tước Vương, ỷ vào lợi thế đất phong sát nhau mà cấu kết bè cánh, chi viện trợ giúp, như thế chẳng phải chính là lộng xảo thành chuyết[2] đấy sao?
[2]: Muốn làm cho tốt quá, cuối cùng thành ra hỏng ( ‘khéo quá hóa vụng’).
Hoàng đế che miệng ho một tiếng, Từ Đức Hải dâng chén thuốc lên, hắn liếc mắt nhìn qua bát thuốc đen đặc, rồi cũng chỉ nhíu mày phất tay: “Thứ ấy vô dụng, đem xuống.”
Hoàng đế đã bệnh dai dẳng lâu ngày mà không dứt hẳn, long thể càng lúc càng bất an, dần dà cũng đã mất niềm tin với Y quan của Thái Y viện, nhiều lần mắng rằng thuốc thang vô dụng. Những chén thuốc, đối với hắn mà nói, chẳng khác vài chén nước trắng là bao, thậm chí còn phá hủy đi vị giác của hắn, dù cho có là sơn hào hải vị, vào đến miệng cũng thành vô vị mà thôi. Gần đây Hoàng đế thường xuyên nhớ về ngày ấy khi Tiên đế bệnh nặng, thế nhưng đến những ngày cuối mặt mũi vẫn hồng hào, dung mạo vẫn rất có linh khí, có lẽ cũng là vì thiết huân luyện đan. Mặc dù Tiên hoàng hậu khi ấy đã dặn dò hắn không nên tin theo đạo thuật tà thuyết, thế nhưng những lúc thế này, chính là, khó lòng không nghĩ tới.
Một hồi tranh luận xôn xao không ngớt, Nhan Tốn cũng lên tiếng: “Việc này cũng không có gì đáng tranh luận, vậy chọn một vùng khác phong cho tân Vương là được, cũng vừa hay thể hiện rằng Bệ hạ có thành ý.”
Hoàng đế hỏi: “Theo ý khanh, nơi nào?”
Nhan Tốn đáp: “Kiềm địa.”
Mọi người đều cho rằng nay Trung vương đã tạ thế, Nhan Tốn dù cho là còn giữ trong lòng hiềm khích của năm xưa nhưng cũng sẽ vì huyết mạch hoàng thất mà tính toán ổn thỏa, sắp xếp che chở, nào ngờ hắn lại tàn nhẫn âm độc như thế. Tiêu Thận và Sở vương đã trải qua nhiều biến cố, nghe thế liền dùng ánh mắt thâm sâu mà liếc qua Nhan Tốn, quả thật, đã có người cướp lời lên tiếng: “Nhan tướng có ý tứ gì? Kiềm địa là nơi hoang vu xa xôi, xưa nay là đất lưu đày phạm nhân, Nhan tướng phải rõ hơn hết mới phải.” Thi cốt của Trung vương còn chưa lạnh, ân oán bao năm vẫn còn ghi, lòng dạ tiểu nhân thật khiến người ta khó nói nên lời.
Nhan Tốn ung dung, một bộ dạng vô tội, cười: “Vương cấp sự nói lời ấy sai rồi, Kiềm địa là nơi đất bằng phẳng thoáng đãng, trên có non xanh, dưới có nước biếc, so với đất phong hiện tại của Trung vương không phải là có tốt hơn đó sao?”
Người vừa lên tiếng chất vấn kia, tên Vương Tử Nguyên, Lại bộ Cấp sự trung, xưa nay nổi tiếng là người ngay thẳng chính trực, là một người thành thật, nào so được với một Nhan Tốn mặt dày mày dạn. Vương Tử Nguyên bị bộ dáng ung dung mà tràn đầy xảo quyệt kia khiến cho tức giận, cả người phát run. Quay đầu nhìn Hoàng đế, nhìn để cho Hoàng đế biết mà phân rõ sai trái trung gian, nhìn xem hắn liệu có chủ trì được công đạo chính nghĩa.
Nào ngờ, Hoàng đế trầm tư một lát, rốt cuộc nói: “Có thể. Nhan tướng ở lại bàn thêm với trẫm, những người khác lui xuống được rồi.”
Vương Tử Nguyên nghe thế mà sững sờ, hồ như muốn buông hốt bản mà chỉ thẳng mắng Hoàng đế hoa mắt ù tai kia hai chữ ‘hôn quân’!
Không sinh Hoàng tự, không giúp Hoàng thất khai chi tán diệp, Nhan hậu có lẽ bây giờ đã đầu thai mấy kiếp rồi, sao còn nhớ đến ngươi! Mặc dù tôn thất tử nữ quá nhiều, thỏa cho ngươi chọn làm dưỡng tử dưỡng nữ, thế nhưng thân là Đế vương cũng phải biết phóng tầm mắt ra mà nhìn về lâu về dài, biết tính toán cho sau này! Nhan Tốn tên này là một hiểm họa, bây giờ không trừ khử còn đợi tới lúc nào? Nhìn bộ dáng kia là biết cũng chẳng sống thêm được mấy năm, tại sao càng lúc càng vô năng như thế, còn gọi cái gì… Nhan tướng?
Sự chính trực đến táo bạo của Vương Tử Nguyên, xưa nay đã có tiếng trên tiền triều, người ta gọi hắn ‘Hỏa Ngưu’, ấy thế mà hắn còn chẳng hề phật ý đấy, tự gọi mình ‘Hỏa Ngưu cư sĩ’. Tiêu Thận và Sở Vương nhìn qua thấy hắn cắn chặt hàm răng, gân xanh trên trán đã nổi lên, liền liếc nhìn một cái, rồi cùng vừa hành lễ cáo lui, vừa cùng nhau kéo Vương Tử Nguyên ra cửa. Vương Tử Nguyên lúc này hồ như là bị kéo đi, lại càng giận dữ, bất chấp lễ nghi mà gằn giọng: “Tiêu tướng! Sở vương gia! Hai vị chớ ngăn cản ta!”
Tiêu Thận và Sở vương ấy thế mà thực sự buông hắn ra, nhìn hắn, rồi lại nhìn về trong điện, như đang nói – Đi đi, ngài đi chịu chết đi cũng được.
Vương Tử Nguyên vẫn chưa nguôi giận, thế nhưng lúc xúc động qua đi cũng vẫn là lấy lại được lí trí. Hắn đứng chôn chân, quay đầu nhìn cửa điện đóng chặt, vừa nhìn vừa phẫn hận không cam: “Tên Nhan Tốn này, bụng dạ hẹp hòi, tư chất tiểu nhân, oán cũ của bậc cha chú mà trút lên con cháu làm thành oán mới, không có nổi nửa phần phong phạm của tôn tử nhà thế gia trọng lễ nghĩa. Nay trong triều thế lực Nhan gia như mầm căn cấu kết… Tiêu tướng, Sở vương gia, chúng ta là trung thần, mà trung thần thì phải…”
Vừa nói vừa quay đầu lại – Tiêu Thận và Sở vương đã bỏ hắn lại đứng đó một mình từ lúc nào không hay, chỉ để lại hai bóng lưng vừa đi vừa ôn tồn trò chuyện. Tuy rằng năm xưa Tiêu Thận xuất thân là Nho sinh khổ hàn, thế nhưng dáng dấp đường hoàng, lưng dài vai rộng, một thân quan phục chỉnh tề càng thêm uy nghi đĩnh đạc. Tông Nhân Phủ quản lý toàn bộ tôn thất, chính sự chẳng mấy vất vả, sau loạn Bát Vương càng nhàn nhã an ổn. Sở vương là Tông Nhân lệnh, đến năm nay đã vào ngưỡng trung niên, cuộc sống khoái hoạt nhàn hạ cũng có thể nhìn thấy được qua vóc người có chút mập mạp, dù là đang khoác giao lĩnh bào.
Tiêu Thận và Sở vương đi về phía trước, bóng lưng như là đang thoải mái tán ngẫu, dường như là chưa từng có một giây phút bận tâm suy nghĩ về chuyện Trung vương bị phong đất Kiềm địa. Vương Tử Nguyên thấy một bụng nhiệt huyết của mình bị coi rẻ như thế, rốt cuộc cũng là không khách khí mà phất tay áo, chắp tay quay lưng đi về một hướng khác, coi như, mỗi người một ngả.
Giữa quảng trường rộng lớn vô ngần trước điện Thái Hòa, hai người sóng vai mà đi, bước lên cây cầu đá cẩm thạch, cả hai cùng dừng bước. Tiêu Thận cúi đầu nhìn xuống mặt đá dưới chân mình, nhìn hoa văn được điêu khắc tinh xảo, ánh mắt như thể dính ở trên ấy, thật lâu không ngẩng đầu lên. Sở vương vỗ vỗ bàn tay, vuốt râu cười: “Tiêu tướng, ngài và ta cũng đều là người phàm mà thôi. Có những chuyện xảy đến, muốn ngăn cũng không thể ngăn, hà cớ gì phải để trong lòng?” . ngôn tình hay
Ban nãy Hoàng đế đuổi bọn họ đi, Tiêu Thận và Sở vương cùng kéo Vương Tử Nguyên ra ngoài, cũng vì thế mà đi chậm, kịp rõ ràng rành mạch nghe thấy Hoàng đế hỏi Nhan Tốn: “Trẫm nghe nói Nhan tướng quảng giao kết bằng hữu bốn phương, không biết trong ấy có phương sĩ nào thông hiểu đạo thuật hay không?” Hoàng đế bệnh tật triền miên đã mấy năm, thuốc thang và châm cứu đã chẳng còn công hiệu, e rằng lại giống như Tiên đế, lúc mặt trời sắp lặn chỉ còn có thể ký thác hy vọng vào cầu tiên vấn đạo. Mà Nhan Tốn tựa hồ như đã sớm phán đoán linh cảm được sẽ tới ngày này, vừa mấy tháng trước gióng trống khua chiêng mời một đạo sĩ về thiết đàn cầu khấn, trăm thử trăm linh, thanh danh cũng nhanh chóng lan xa, Hoàng đế tất phải nghe được.
Nếu như thế, Nhan Tốn lại có thêm một điểm yếu của Hoàng đế trong tay, thời cuộc càng lúc càng khó liệu. Tiêu Thận thu ánh mắt, ngẩng đầu nhìn Sở vương mà cười, nụ cười bất đắc dĩ: “Tiêu mỗ được Tiên đế bệ hạ giao phó ủy thác, không dám thất trách, cho dù chỉ còn một bộ xương khô, cho dù da thịt mục nát, Tiêu mỗ cũng sẽ nhất định dùng mạng sống này để bảo vệ giang sơn xã tắc, đại thống không thể rơi vào tay người ngoài. Ngày sau nếu có khi bất hạnh thân đày lao ngục, Tiêu mỗ cũng chỉ mong Sở vương gia niệm tình cũ, mời ta một chén rượu ngon.”
Sở vương có rượu ngon. Biệt viện của Sở vương nơi ngoại ô kinh thành có xây một hầm rượu lớn, cất giữ rượu quý hai miền Nam Bắc, có cả rượu hiếm nơi Tây Dương dị vực. Tông Nhân Phủ những ngày rảnh rỗi, Sở vương thường dẫn vài gia nhân tới nơi ấy dọn dẹp cất chứa. Những ngày yến hội hắn cũng không muốn dự, mồng một hôm rằm hắn đều không muốn ra. Có lần kia, vào tới trong cung rồi Sở vương vẫn còn len lén ôm theo bình rượu nhỏ, giấu trong ống tay áo, ngờ đâu đi tới quảng trường trước điện Thái Hòa thì rượu rơi bình vỡ, hương nồng lan tỏa khắp bốn phía, Vệ quân đang đứng gác cũng không nhịn được mà nuốt nước miếng.
Hầm rượu của Sở vương nổi tiếng trong giới quý tộc quan lại đã lâu, bốn chữ ‘cung không đủ cầu.’
Tính tình Sở vương hào phóng, nghe Tiêu Thận nói thế, vỗ vai hắn mà cười: “Tiêu tướng muốn uống loại gì, cứ tới uống là được, còn phải câu nệ khách sáo với ta! Cảnh xuân vừa khéo, Thương Tán tiên sinh sắp tới sẽ mở yến Bách Hoa, ta cũng sẽ cho người chuẩn bị mười bình rượu Bách Hoa, tháng sau chúng ta ăn uống cho thỏa!”
– —
Trung vương tạ thế, hoảng như linh hồn ấy để lại ở nơi nhân gian này một tia anh linh, đáp xuống vóc người bé nhỏ và tâm hồn non nớt của Đường Đại, khiến cho đứa trẻ ấy, dường như đã già dặn hẳn đi chỉ sau một đêm. Mới mấy ngày trước hắn còn ôm chân Thương Tán khóc lớn, vậy mà hôm nay đã chẳng còn thấy một đứa trẻ yếu đuối khóc lóc đến thảm thiết kia đâu nữa, chỉ thấy một thiếu niên Đường Đại chu toàn lễ nghĩa đến mức khách sáo xa lạ.
Hoàng đế tới an ủi vài lần, rốt cuộc là vẫn có mấy phần áy náy, nếu không phải chính hắn đoạt Đường Đại khỏi tay Trung vương, có lẽ bây giờ dưới gối Trung vương vẫn là một trai một gái, phu thê hòa thuận, yên ấm vui vẻ. Hoàng hậu nghe tiếng ‘mẫu hậu’ từ miệng Đường Đại, ngày nào cũng tới trò chuyện với Vương phi mấy câu, coi như, cũng bớt cô đơn hiu quạnh. Thường thường mỗi khi Hoàng hậu tới Hàm Lương cung, Đường Oanh cũng sẽ quấn lấy xin đi theo, như thế nàng mới có thể ở cạnh vị Lục ca ca kia một lát. Hai người lớn ngồi trò chuyện, hai đứa trẻ đứng cười nói, trong phút chốc cảm thấy như xuân ấm bao phủ tuyết lạnh, mây đen trên đầu tạm thời tản đi.
Ngày Hưu Mộc[3]
[3]: Ngày nghỉ của hoàng thất và quan lại trong triều đình, cứ mười ngày công sẽ có một ngày Hưu Mộc.
Thiên điện trong Vị Ương cung, nơi ấy đông ấm hạ mát, hành lang uốn lượn, góc kia có đài ngắm trăng, màn trúc ngăn thành một góc tách biệt. Phía ngoài màn trúc, đi một đoạn sẽ thấy hồ sen, gần hồ sen có xây một tiểu đình. Nơi này, ngày hạ pha trà hóng gió mát, ngày đông nấu rượu nhìn tuyết rơi, hai mùa xuân thu ngắm hoa cỏ nảy lộc rồi phai úa, cảnh đẹp trước mắt này, thực không sao tả xiết.
Lúc này, màn trúc được cung nhân cuốn lên, cảnh xuân ấm áp ngoài kia tràn vào trong này. Hoàng hậu cầm sách trên tay, bản tính nàng vốn rất tĩnh, làm điều gì cũng toàn tâm toàn ý, càng không thích bị người khác quấy rầy. Đường Oanh khoanh chân ngồi nghiêm bên cạnh, thẳng lưng cúi đầu đọc sách, thế nhưng ánh mắt thi thoảng lại nhìn sang người bên cạnh. Hoàng hậu bất đắc dĩ mà phải lên tiếng: “Mắt người không thể nhìn hai thứ một lúc, ngươi đọc sách thì chuyên tâm mà nhìn sách, cớ gì lại nhìn ta?”
Đường Oanh ngẩng đầu, đôi mắt long lanh chân thành: “Mẫu hậu không nhìn nhi thần, sao lại biết nhi thần đang nhìn mẫu hậu?”
“Quỷ ngụy biện.” Hoàng hậu giơ quyển sách, làm như muốn đánh lên vai Đường Oanh, “Ngươi nhìn cũng không phải chỉ nhìn một lần hai lần, tưởng ta không biết? Lần sau còn không chuyên tâm như vậy, tốt nhất là nên tới thư phòng tự mình ôn tập, đọc sách cũng được, luyện chữ cũng được, miễn sao học cách chuyên tâm vào chuyện mình đang làm là được.”
Hoàng hậu còn đang muốn răn dạy thêm vài câu, ánh mắt đã nhìn thấy Nhẫn Đông đi tới từ xa. Nhẫn Đông tới trước mặt hai người, thi lễ xong mới nói: “Điện hạ, thư tới rồi.” Nhẫn Đông trình lên một phong thư, ánh mắt lại nhìn Đường Oanh, như thể là đang nói – Mau lại gần xem thư. Đường Oanh hiểu thế, liền nhích gần lại ngó nghiêng, thấy Hoàng hậu mở phong thư ra, đưa cho mình: “Lấy thư ra nhìn xem.” Hoàng hậu biết đứa trẻ này dường như là có thiên phú, học chữ rất nhanh, đoán rằng đọc thư này hẳn cũng có thể hiểu mấy phần.
Đường Oanh nhìn lá thư trong tay, thư gấp chỉnh chu, mơ hồ có thể nhìn thấy nét mực bên trong, từng chữ từng chữ ngay lề thẳng lối. Nàng dường như đoán ra được đây là vật gì rồi, thế nhưng lại không dám chắc chắn. Bàn tay nho nhỏ nâng bức thư, chợt cảm thấy nóng như bị phỏng. Nàng nhìn Hoàng hậu, ánh mắt ngơ ngác: “Mẫu hậu, thư này…”
Hoàng hậu thấy Đường Oanh như vậy, cũng biết đứa trẻ này suy nghĩ điều gì, dùng ngữ điệu hòa nhã mà nói: “Thư nhà mà thôi, xem thử, nếu như nhìn không hiểu, ta sẽ đọc cho ngươi nghe.”
Tấn triều quản chế vương công hầu tước rất nghiêm ngặt, tới mức Trung vương tạ thế mà Đường Đại chẳng thể xuất cung về nhà nâng bài vị, tận lòng hiếu, huống hồ thân phụ của Đường Oanh có tiền án tạo phản, liên quan mật thiết tới loạn Bát Vương năm ấy. Hoàng hậu nói bốn chữ ‘thư nhà mà thôi’, nhưng thực chất chính là một phong thư trân quý. Hoàng hậu nhìn Đường Oanh, đáy mắt ẩn ẩn tia áy nãy, chợt cảm giác như bản thân mình vẫn chưa làm đủ. Đường Oanh nắm lấy phong thư, không dám ngẩng đầu nhìn Hoàng hậu, sợ rằng khi ánh mắt lỡ chạm phải nhau, nàng sẽ không kìm được mà bật khóc. Cũng không biết tại sao kiếp này của nàng, nàng lấy đâu ra nhiều nước mắt như vậy.
Đường Oanh cúi đầu, thấp giọng hỏi: “Sao mẫu hậu gạt không cho nhi thần biết?” Ngày ấy trải lòng tâm sự ở đình viện, sau ấy cũng không nhắc lại nữa, Đường Oanh cho rằng việc cũng chỉ tới thế mà thôi.
Hoàng hậu vỗ nhè nhẹ sau gáy Đường Oanh, mỉm cười, “Chuyện ta không biết có thực hiện được hay không, không thể dễ dàng cho ngươi một lời hứa.”
– — Hết chương 13 —
Editor mạn đàm:
1. Quá ư là thích cái khí chất của anh Tiêu tướng.
2. Câu cuối cùng của Điện hạ thực sự quá đắt giá, đầu phim nói một câu mà đến giữa phim cuối phim mang ra dùng lại vẫn được ?