Hình như Nghiêm Sơ Văn đã biết gì đó. Từ hôm tôi sắp về Hải thành hay thậm chí là còn trước cả lúc đó, nó đã có một số biểu hiện khác thường, nhưng khi đấy tôi đang có tâm sự nên không bận tâm mấy về ý nghĩ sâu xa trong lời nó nói.
“Cậu ta tới Hải thành ư? Đi xa thế làm gì?” Tôi tựa vào lan can, cố nói bằng giọng bình thường nhất có thể.
“Đến tổ chức hội thảo nghiên cứu. Tỉnh được Hải thành hỗ trợ hợp tác là tỉnh Sơn Nam, tuy mấy năm nay được nhà nước trợ giúp, tình trạng đói nghèo chung của khu vực Sơn Nam đã được cải thiện, nhưng nhìn chung vẫn còn rất nhiều thôn huyện, đặc biệt là những nơi vùng núi xa xôi hẻo lánh như Thố Nham Tung bị tụt lại phía sau. Ngoài sự thúc đẩy xây dựng của các cán bộ viện trợ nước ngoài ra, bản thân họ cũng cần liên tục tiếp thu các tri thức cấp tiến.” Nghiêm Sơ Văn nói về tầm quan trọng của việc hỗ trợ hợp tác, nói về Ngày quốc tế xóa nghèo, nói về hàng ngàn hàng vạn các cán bộ cơ sở đã đầu tư vào vùng núi xa xôi hẻo lánh, nói về chương trình giáo dục cho vùng núi nghèo trong suốt những năm qua.
Trong khi nó nói, tôi chỉ lẳng lặng lắng nghe, nghe đến lúc điếu thuốc trên tay cháy hết, tàn thuốc rơi xuống mu bàn tay, tôi vẫn lơ mơ cái hiểu cái không.
Trong thế giới của tôi, bản thân tôi luôn phải được đặt lên vị trí hàng đầu. Tiền đề để thực hiện mọi thứ không nằm ở lợi ích nó có thể mang lại mà chỉ liên quan đến sở thích của tôi.
Tôi sẽ làm một điều gì đó vì “thích”, nhưng một khi phát hiện ra chuyện đó đã được định sẵn rằng sẽ không có kết quả, tôi sẽ quyết đoán “dứt áo ra đi”. Rất rất hiếm khi tôi quan tâm đến cảm xúc và cảm nhận của người khác, suy cho cùng thì đó cũng chỉ là… những thứ không quan trọng.
Tôi có thể chia cho người ta những thứ dư thừa mình không cần nữa, nhưng hy sinh bản thân để giúp đỡ họ ư? Điều này hơi vượt quá bản năng nguyên thủy hướng lợi tránh hại của tôi.
Cũng như không hiểu vì sao Mạnh Ân lại không cho Xuân Na đi học, tôi không biết tại sao lại có người có thể xếp mình ở vị trí thứ hai, hay thậm chí còn thấp hơn nữa.
Bách Tề Phong đặt bản thân lên đầu nên vứt bỏ vợ con để theo đuổi danh lợi; Giang Tuyết Hàn đặt bản thân lên đầu nên đoạn tình tuyệt ái, nhìn thấu hồng trần; tôi cũng nên đặt bản thân lên đầu để ngăn chặn mọi khả năng có thể gây ra tổn thương, được sống tự do và làm chính mình.
“Hội thảo nghiên cứu được tổ chức hàng năm à? Trước đây cậu ta cũng tới ư?” Tôi nghịch đầu lọc thuốc lá đã day tắt trong tay, tâm hồ dần phẳng lặng trong một tháng này lại bị viên đá Ma Xuyên xuất hiện bất ngờ làm nhiễu động, gây nên từng đợt sóng trào.
“Mới tổ chức ba kì, hai năm trước cậu ấy không tham gia, bảo không đi được, không hiểu sao năm nay lại đến. Hội thảo kéo dài một tháng, bên Thố Nham Tung chỉ tiếp đón tín đồ thôi thì Lê Ương cũng làm được, nhưng nếu có chuyện gì quan trọng xảy ra thì cậu ấy sẽ phải về trước thời hạn.” Nói rồi, Nghiêm Sơ Văn quay người, đổi sang tư thế giống tôi, dựa lưng vào lan can, “Hội thảo được tổ chức ở Đại học Hải thành, chắc mọi người tham dự sẽ ở tại kí túc xá bên trường học cung cấp. Mấy hôm tới mày không bận thì lúc nào chúng ta mời Ma Xuyên một bữa đi, cũng là để làm trọn ý chủ nhà.”
Chắc do trong lòng đang giấu giếm ý đồ bí mật, kể từ khi thấy Nghiêm Sơ Văn có vấn đề, sau mỗi câu nói của nó tôi đều có thể suy diễn ra những nét nghĩa khác.
Lời lên đến miệng, tôi muốn hỏi nhưng lại không biết bắt đầu từ đâu, càng không biết nếu nó hỏi lại thì tôi phải nói từ chỗ nào.
May sao, đôi khi người lớn không cần phải giải thích rõ ràng mọi chuyện. Thay vì làm tăng thêm sự bối rối, thà rằng ta không nói gì còn hơn.
“À, ok. Mày bảo cậu ta đi, chúng mày chốt lịch là được, đến lúc ấy tao sẽ trả tiền.” Nghiêm Sơ Văn hiểu rõ nhưng vẫn giả vờ như không phát hiện, mà tôi cũng thừa biết nhưng vẫn giả vờ như không bị lộ.
Tôi nắm đầu mẩu thuốc trong tay, vò nát, gió bên ngoài thổi lộng nên tôi rủ Nghiêm Sơ Văn vào nhà cùng.
Thời gian thấm thoát trôi đi, dù đã là giữa xuân nhưng thời tiết ở Hải thành vẫn rất lạnh. Tôi xem ngày giờ trên điện thoại, không biết đã là lần thứ mấy mất tập trung.
Hôm qua đến thì chắc hôm nay bắt đầu họp…
“Bất kể là về độ trong, mặt cắt hay ánh lửa thì viên Spinel đỏ này đều hoàn hảo, tôi nghĩ nó hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của cậu. 56 carat, 10 nghìn đô một carat, vì là khách quen nên chúng tôi sẽ chiết khấu cho cậu, 550 nghìn đô nhé.”
(*) Spinel đỏ là loại đá đắt nhất trong họ Spinel, 550 nghìn USD là gần 13 tỉ 412 triệu VNĐ.
Kevin là nhà bán buôn đá quý người nước ngoài mà tôi đã hợp tác nhiều năm. Tuy anh ta thích hét giá lung tung và hay thổi phồng chất lượng của đá, thế nhưng vì anh ta có nguồn cung hàng ổn định, có giấy chứng nhận uy tín đi kèm và có thể yêu cầu đến tận nơi kiểm tra hàng, mỗi lần muốn mua hàng đắt tiền, tôi vẫn sẽ nghĩ đến anh ta đầu tiên.
Tôi úp điện thoại xuống, bắt đầu vào trạng thái tập trung làm việc.
“Viên đá này có bao thể feather và kẽ nứt, không tinh khiết lắm.” Tôi soi phần trong đá dưới ánh sáng mặt trời, lưu loát mặc cả, “500 nghìn, chốt xong chuyển tiền luôn.”
(*) Hơn 12 tỉ 192 triệu.
Kevin nhăn nhó: “530, không bớt được nữa, cậu cũng biết mà, hai năm nay giá thị trường của Spinel đã tăng đáng kể.”
Anh ta hiểu rõ bí quyết mặc cả của người Trung Quốc nên bắt đầu kì kéo với tôi.
Tôi đặt viên Spinel đỏ cắt hình bầu dục trở lại khay, kiên trì nói: “500, giá này thôi, được thì tôi xem tiếp viên khác.”
Kevin cự nự một lúc lâu, giả vờ đập bàn: “Rồi! Người khác mà đòi giá này chắc chắn tôi không đồng ý đâu, vì cậu thôi đấy. Tôi sẵn lòng làm bạn với cậu!”
Tôi nghe xong cũng thôi, không để trong lòng.
Tiền trao cháo múc, sau khi Kevin rời đi, tôi cầm viên đá có giá trị bảy chữ số kia lên ngắm nghía, thích không dứt ra được. Ánh nắng chiếu xuyên qua tinh thể đỏ, rọi xuống bàn những đốm sáng trông như tia laser, tôi xoay ghế, giơ nó qua đầu, mỉm cười trong vô thức.
“Chiếc Lông Vũ Của Thần” đã có đá trung tâm, khoảng cách đến lúc nó ra đời… lại gần thêm một bước.
Sau khi cất hết những viên đá quý mới mua vào két sắt, tôi nhìn giờ, mười rưỡi, là thời điểm có thể nghĩ xem trưa nay mình sẽ ăn gì.
Tôi đi qua đi lại trước cửa sổ, do dự tầm mười phút, lược lại một lượt tất cả những nhà hàng mình đã đến ở Hải thành, cuối cùng cầm chìa khóa lên, chọn một quán chuyên đồ xào ở gần Đại học Hải thành.
Quán xào nằm đối diện cổng chính của Đại học Hải thành, vì giá cả phải chăng, khẩu phần ăn lớn và hương vị thơm ngon nên rất được cánh giảng viên, sinh viên của Đại học Hải thành yêu thích, thậm chí được bình chọn là món ngon top 1 ở Hải thành.
Tôi biết mấy điều này là vì đứa em gái cùng cha khác mẹ tên Tôn Mạn Mạn của tôi chính là sinh viên của Đại học Hải thành. Hồi trước con bé từng mời tôi ăn ở quán ăn này.
Đại học Hải thành có vị trí đắc địa, cổng chính nằm trên con đường mang phong cách kiểu Pháp, vào mùa hè, cây ngô đồng ở hai bên đường có thể nối thành một dải, sang mùa đông thì trông hơi xấu, chỉ thấy mỗi thân cây trơ trụi.
Cầm ly latte mua ở tiệm cà phê bên cạnh, tôi đẩy cửa bước vào rồi ngồi xuống bàn dành cho hai người kê sát cửa sổ. Do chưa đến giờ ăn, lại đang trong kì nghỉ đông nữa nên khách trong quán không đông lắm. Tôi nhìn quanh một lượt, gọi phục tới rồi chọn hai món được đề cử.
Tôi ôm ly cà phê, đầu ngón tay gõ từng nhịp trên thành cốc, khi đồ ăn được mang lên, tôi lại không có hứng động đũa.
Trong quán, trong trường người ra người vào liên tục, nhưng mãi mà tôi vẫn không đợi được người mà mình muốn đợi.
Không, không phải… Tôi không đến đây để đợi ai cả, tôi đến đây để ăn cơm, đồ ăn ở đây rất ngon, tôi rất thích. Đợi ai cơ chứ, trên đời này làm gì có ai đáng để cho tôi chờ đợi? Tôi chỉ đến đây để ăn cơm, tôi chỉ, đến ăn cơm thôi…
Tôi hít một hơi thật sâu, cứ lặp đi lặp lại lời nói trong đầu như tự thôi miên: Hải thành rộng như thế, tôi đến đây ăn cơm mà có gặp ai thì cũng chẳng kì lạ.
Cửa kính mở ra rồi đóng lại, đột nhiên có người ngồi xuống trước mặt tôi, tôi giật mình, thu lại ánh mắt đang nhìn sang phía đường đối diện.
“Bách Dận, là em thật ư?”
Người đàn ông trước mặt môi hồng răng trắng, diện mạo khá xinh đẹp, vẻ ngoài anh ta vốn đã hơi nữ tính rồi mà còn trang điểm nhẹ nữa nên thoạt trông khá giống con gái.
“Hải thành nhỏ thật đấy, ở đây mà cũng gặp được nhau.” Khi cười lên, khuôn mặt nữ tính của anh ta trở nên xun xoe vô cùng, điều này khiến tôi khó chịu về mặt sinh lý.
“Minh Trác.” Tôi gọi đúng tên anh ta.
Thời đại học tôi có ba mối tình, mối tình đầu tiên kéo dài ba tháng, tôi thậm chí còn không nhớ nổi tên của đối phương; mối tình thứ hai kéo dài hai tháng, chính là với cái tên đang ngồi trước mặt này. Tại sao chỉ mới hẹn hò hai tháng mà tôi lại nhớ rõ như vậy, thứ nhất là vì tên của anh ta rất hiếm, để lại cho người ta ấn tượng sâu sắc, thứ hai là vì… chuyện mà anh ta gây ra quá đỗi hoang đường, nó vô lý đến mức khiến tôi khó mà quên được.
“Anh biết em vẫn nhớ anh mà.” Nét cười trong mắt anh ta càng đậm hơn, “Em đi một mình à?”
Tôi giả vờ như không hiểu ý anh ta: “Ừ, tôi đi ăn một mình.”
Mắt cá chân dưới gầm bàn đột nhiên bị cọ, cùng lúc đó, trên bàn ăn, giọng của Minh Trác trở nên nũng nịu hơn: “Lát ăn xong em rảnh không? Chúng ta tìm nơi yên tĩnh để trò chuyện nhé?”
Tôi rụt chân lại, thẳng thừng từ chối: “Tôi không có hứng thú với anh.”
Anh ta chớp mắt, vẫn không bỏ cuộc: “Anh thừa nhận, hồi trẻ đúng là anh có hơi dại dột, anh xin lỗi em, em không thể cho anh thêm một cơ hội nữa ư?”
Tôi không muốn phí lời với anh ta nữa, đúng lúc chuẩn bị gọi chủ quán ra tính tiền thì cửa tiệm cơm lại được đẩy vào, lần này là một nhóm đông tầm sáu, bảy người tới. Một trong số họ sở hữu thân hình đặc biệt nổi bật, trang phục cậu ta mặc không khác mấy so với trang phục người Hải thành mặc vào mùa này, áo len cổ lọ đen phối với áo măng tô cùng màu. Thứ mang màu sắc tươi sáng duy nhất trên quần áo của cậu ta là chuỗi áp khâm gồm mười tám hạt ngọc lưu ly cài trên ngực áo măng tô, có thể nói đó là một sự kết hợp vô cùng hoàn hảo với chiếc khuyên ngọc lưu ly trên tai trái cậu ta.
Hải thành rộng như thế, tôi đến đây ăn cơm mà có gặp ai thì cũng chẳng kì lạ, nhưng… có cần thiết phải tập trung như thế không?
Việc tôi nhìn chằm chằm ra cửa quá lâu đã làm khơi dậy sự tò mò của Minh Trác, đợi khi tôi nhận ra anh ta sắp làm gì thì đã quá muộn.
“Đừng nhìn!” Tôi sốt ruột gọi anh ta.
Không gọi may ra còn đỡ, chứ tôi vừa gọi một cái là vừa không ngăn được Minh Trác, vừa thu hút sự chú ý của Ma Xuyên.
“Ơ…” Minh Trác khẽ thốt lên một tiếng khó hiểu.
Ma Xuyên thản nhiên liếc về phía này, cậu ta thấy tôi bình tĩnh lại thì nhìn tiếp sang Minh Trác, cuối cùng lại nhìn qua tôi.
Trong mấy giây đối diện ngắn ngủi với cậu ta, mặc dù rõ ràng là cậu ta không biểu lộ ra bất kỳ cảm xúc nào và cũng không hề nói một lời gay gắt, thế nhưng tôi vẫn bất giác rùng mình.
Cậu ta đi từ trên núi tuyết xuống, trên người, trong mắt, đâu đâu cũng có bóng dáng của núi tuyết.
“Đồ ăn ở đây khá ngon, hôm nay chúng ta ăn ở đây nhé?” Bạn cộng tác hỏi Ma Xuyên.
Cậu ta cười với đối phương, không nhìn tôi nữa như thể tôi chỉ là một người xa lạ không quan trọng gì, đáp: “Vâng.”
Ở sảnh không có bàn lớn nên họ đi vào phòng riêng bên trong theo sự hướng dẫn của viên phục vụ.
“Kia là… Ma Xuyên ư?” Hai mắt Minh Trác sáng bừng lên như thể vừa phát hiện ra bí mật động trời nào đó, “Chẳng lẽ em đang chờ cậu ta? Hai người đang hẹn hò à? Anh biết rồi nhé!”
Biết con mẹ anh chứ biết!
Tôi nắm chặt đôi đũa trên bàn, khom lưng, nhắm mắt lại, cố gắng giữ giọng bình tĩnh: “Tôi đếm đến ‘ba’, anh mà không cút thì tôi sẽ thọc đôi đũa này xuống họng anh.”
Phía đối diện im lặng, Minh Trác tính nói gì thêm nhưng tôi đã trực tiếp nói át giọng anh ta: “Ba!” Nói rồi, tôi đứng bật dậy, cầm đũa trong tay làm bộ như sắp chọc vào anh ta.
Anh ta hoảng hồn, mồm chửi rủa tục tĩu, vắt chân lên cổ chạy trối chết.
Mọi người trong quán đều nhìn tôi nhưng tôi không quan tâm. Tôi vứt đũa, ngồi thụp xuống, giơ tay gọi: “Tính tiền.”
Sau khi lên xe, tôi không nổ máy mà chỉ hạ cửa sổ xuống hút thuốc, nhớ lại đủ thứ chuyện tồi tệ mà Minh Trác gây ra khi đó.
Cả tôi và Ma Xuyên đều tình cờ chọn “sinh tồn nơi hoang dã” làm môn tự chọn chung của năm hai.
Ở trường chỉ có vài môn tự chọn nên khó tránh khỏi việc mọi người chọn trùng môn với nhau, môn học không do tôi tổ chức nên tôi cũng không có quyền quyết định xem ai được tham gia, ai không được tham gia, dù không bằng lòng nhưng cũng chỉ đành học chung một lớp.
Sinh tồn nơi hoang dã, đúng như tên gọi của nó, cần phải được thực hành ở ngoài tự nhiên. Ngoài kiến thức lý thuyết trên lớp, thỉnh thoảng giảng viên sẽ chọn một ngày cuối tuần trời trong nắng ấm để đưa chúng tôi đi cắm trại ở vùng núi sâu ngoài ngoại ô Bắc thị.
Minh Trác là đàn anh năm ba cùng chuyên ngành với tôi, giống như Babyface, anh ta cũng chủ động bắt chuyện, chủ động theo đuổi, chủ động yêu cầu hẹn hò thử xem thế nào.
Hồi ấy tôi chưa biết hiểm ác và cũng chưa có nhận thức rõ ràng về gay, thấy anh ta chân thành, mặt mũi cũng ổn thì tôi đã đồng ý ngay.
Đó là tháng thứ hai tôi hẹn hò với Minh Trác. Nghe nói chúng tôi đang cắm trại trên núi, anh ta hỏi xem có những ai đang ở đó rồi nhất quyết đòi đến gặp tôi.
Tôi tưởng anh ta muốn đến chơi với mình nên không nghĩ nhiều, cứ vậy kêu anh ta tới.
Kết quả, anh ta đã mang đến cho tôi một bất ngờ vô cùng to lớn.
Xong việc nghĩ lại mới thấy đúng là mọi chuyện đều đã có dấu hiệu từ trước, khi mà ánh mắt anh ta cứ dán chặt vào người Ma Xuyên đang ra khỏi lớp với tôi, khi mà anh ta liên tục gặng hỏi tôi về tin tức của Ma Xuyên dù là cố ý hay vô tình, khi mà anh ta trở nên hào hứng, vội vàng tới nơi ngay khi biết tin Ma Xuyên cũng tham gia cắm trại…