“Về trả lại cho em”. Cô nhắc nhở anh.
Anh chỉ cười. Từ nhỏ đã quen sống trong doanh, nhiều năm làm giáo viên, muốn dùng tuổi niên thiếu đàn áp những học sinh còn lớn tuổi hơn mình, nhất định phải có thủ đoạn cao tay. Tướng quân có thể thuần phục ngựa chứng, lại cùng cô gái tranh giành một tấm ảnh chụp, nhưng lời lẽ chính đáng không thể chối từ.
“Tối nay em đến Quảng Đức Lâu xem kịch để quyên tiền cứu tế, anh thì sao?” Cô hỏi, nhân cơ hội luồn tay vào âu phục anh.
“Nghe nói Quảng Đức Lâu diễn kịch góp tiền cứu trợ, biết cô hai sẽ đến nên anh đã thay đổi lịch trình rồi”. Anh kéo âu phục lại chỉn chu.
Kinh ngạc như thế.
Cô nghe thấy Tạ Vụ Thanh muốn đến xem kịch tặng tiền cứu tế, quên mất phải đoạt lại ảnh chụp.
Ra khỏi thương xá, hai người tách ra, ai làm chuyện nấy.
Tạ Vụ Thanh phải về ngõ Đông Giao Dân, còn cô đến Quảng Đức Lâu trước.
Vì biểu diễn quyên góp tiền nên các đào hát nổi danh thành Bắc Bình đều kéo tới, ngay cả những vị ẩn cư trong tô giới Thiên Tân cũng có mặt. Trước cửa nhà hát lớn treo một tấm biển báo tên, khi cô trông thấy tên Chúc Tiểu Bồi cùng Chúc Khiêm Hoài, trong nháy mắt thoáng hoảng hốt, như đang quay về quá khứ.
Phòng riêng không đủ. Hai bên hành lang tầng một bố trí ghế dài, mỗi gian dùng một tấm bình phong chạm gỗ khắc hoa ngăn giữa. Vì theo thời đại, năm nay trong nhà hát bày ghế cho cả quan khách và đường khách [1], phía trước là ghế nam ngồi, phía sau dành cho nữ.
[1] Quan khách, dùng để chỉ khách nam, sau này được dùng với nghĩa rộng hơn. Đường khách mang nhiều nghĩa, một là chỉ khách đi đường, hai là khách nữ, phụ nữ đã kết hôn, phu nhân, hoặc gái làm nghề mại dâm.
Ông chủ Quảng Đức Lâu đưa cô tới chỗ thoáng phía sau lầu hai, mấy bàn bên cạnh đã có người ngồi, không ngừng luyên thuyên về đại chiến ở Trung Nguyên hiện nay.
“Ai cũng bảo đánh sắp xong rồi, quân Tây Bắc đã muốn thất bại”. Ông chủ Quảng Đức Lâu nhỏ giọng nói.
Ông chủ Quảng Đức Lâu thay cô vén rèm. Phòng bao cũ, chốn xưa.
“Bên dưới có không ít quân Tây Bắc”, ông chủ Quảng Đức Lâu nhắc cô, “Hôm nay nếu không có việc gì, không nên xuống dưới”.
Đối với dân bản địa ở Bắc Bình mà nói, nhìn lũ người này không khác gì đèn kéo quân cùng tiền giấy vàng mã. Mười mấy năm trôi qua, hai triều đại lên xuống, quân đội tới lui không ngừng, mỗi người đều tưởng mình khoác hoàng bào, cuối cùng lại bị kẻ khác mang pháo súng đánh đuổi ra khỏi Tứ Cửu Thành.
Sau hai màn kịch, Tạ Vụ Thanh mới đến. Anh vừa đặt chân vào phòng bao, âu phục ngoài vừa cởi, còn chưa kịp treo lên móc áo, bên ngoài ngõ Đông Giao Dân đã gửi đến một bức điện khẩn mới nhất.
Điện báo viết: Quân Đông Bắc muốn nhập quan, quyết định vào ngày 18 tháng Chín.
“Xem ra, chiến sự Trung Nguyên sắp kết thúc rồi”. Tạ Vụ Thanh gấp tờ điện báo.
Vào ngày 18 tháng Chín năm đó, quân đội Đông Bắc tiến vào, ủng hộ chính phủ Nam Kinh, chấm dứt đại chiến Trung Nguyên. Đêm ấy, chẳng ai ngờ được những gì sẽ xảy ra vào ngày này một năm sau.
Trong ngày, người nhận được tin không chỉ riêng Tạ Vụ Thanh.
Diễn kịch quyên tiền kết thúc sớm, tất cả những người mặc quân phục đều bỏ đi. Vì quyên tiền cứu trợ nên huyện trưởng vùng Tây Bắc đang gặp hạn hán cũng được mời tới.
Huyện trưởng cố ý tắm gội sạch sẽ, mặc bộ âu phục không lớn không nhỏ, ngồi ngay ngắn trên hàng ghế dài đầu tiên trước sân khấu chờ phát biểu. Ban đầu ông ta nhìn quanh phòng riêng đều là thân sĩ xuất thân danh giá, trong mắt không nén được vui mừng, nửa chừng thấy phòng bao trống trải, khách khứa bên dưới cũng lục tục kéo về, nôn nóng nhìn trong Quảng Đức Lâu ngày càng vắng vẻ.
Người phụ trách quyên tiền trong buổi diễn đến hỏi Hà Vị góp bao nhiêu. Cô hỏi con số cao nhất, cộng thêm mười vạn tiền vào đó, lại bảo với người phụ trách: “Không cần giấu tên, cứ nói số tiền này lên, có thể kích thích người ta góp nhiều hơn một chút”.
Con người bản tính đua đòi, phàm là người càng có danh vọng lại càng so đo tính toán.
Cô nhờ người phụ trách mời vị huyện trưởng kia lên lầu hai, ngồi phòng bao của Hà gia.
Hà Vị bảo Quân Khương pha trà hoa cúc cho ông, hai người tán gẫu linh tinh, huyện trưởng trước khi nhậm chức từng trải qua thi cử công khai, là một người địa phương Tây Bắc ăn học đàng hoàng. Bài thi lúc trước nói đủ thứ chuyện, từ cách mạng đến tình hình thế giới. “Nói khó cũng khó, nhưng không bằng thiên tai hiện giờ”. Người nọ cười, đáy mắt mang theo bi thương.
Năm ngoái Tây Bắc hạn hán, không một giọt mưa, vụ mùa lương thực không thể thu hoạch, lương thực không thu hoạch thì không thể gieo trồng, đến mùa đông đã thấy tai hoạ tràn lan, người người ăn đất Quan Âm [2], rễ cây khắp nơi không bỏ. 92 huyện thành, không nơi nào không gặp hạn, nơi chịu ảnh hưởng nặng nhất, mười nhà đã có chín nhà bỏ không, ngàn dặm đất đai cằn cỗi, xác người chết đói la liệt, nhưng thị trường hàng dân sinh làm ăn phát đạt, giá cả đều được niêm yết rõ ràng…
[2] Đất Quan Âm (Kaolinit), bắt nguồn từ truyền thuyết cổ đại, khi người dân địa phương nhiễm một loại bệnh lạ gây nôn mửa, chán ăn, thầy thuốc khắp nơi không có biện pháp, sau đó dân chúng cầu xin trời cao, được Quan Âm Bồ Tát mang đất trên thiên đường xuống, xào cùng bột mì, cho bệnh nhân uống, không quá mấy ngày, tình hình chuyển biến tốt đẹp, nên người ta gọi đất đó là đất Quan Âm. Sau này, người ta gọi một loại đất sét trắng (cao lanh) ở vùng Giang Tây, TQ là đất Quan Âm vì có dạng thức tương tự câu chuyện trong truyền thuyết.
“Còn thêm nạn sói”, huyện trưởng nói, “Từng bầy sói trên sườn núi đất vàng đi xuống, rất nhiều người sợ sói cắn cổ, nửa đêm ngủ đều đeo loại vòng gắn đầy gai sắt. Từ năm Quang Tự thứ ba chưa từng gặp qua nạn hạn hán nghiêm trọng như vậy”.
Phạm vi ảnh hưởng của thiên tai quá lớn, làm gì cũng như muối bỏ biển, chỉ cầu mong ông trời đổ mưa.
Hà Vị hứa quyên góp hai xe tải muối, giao cho huyện trưởng dùng để đổi lấy lương thực.
Tạ Vụ Thanh ngồi một bên từ đầu chí cuối không mở miệng.
Nhân gian hoang đường. Phần đông quan quân dưới lầu đến từ Tây Bắc đều vì chiến cuộc hoảng sợ bỏ đi, dân chúng gặp hoạ, bọn họ chỉ lo bản thân tranh quyền.
—
Hôm nay, cô về Bách Hoa Thâm Xử. Vì trường học chuyển thành nội trú nên Tư Niên không thường ở nhà, trong sân im ắng.
Cô vội vàng tắm rửa, xoã mái tóc dài, lười kéo rèm ngủ, nằm thẳng xuống mép giường ngoài Tạ Vụ Thanh hay nằm, hít hà mùi thuốc đông y trên gối anh, nhắm mắt thiếp đi.
Trong mơ, chú hai sốt ruột bế cô, sợ xe kéo chậm chạp, còn bị đội lạc đà cản đường nên dứt khoát cõng cô vòng quanh con ngõ nhỏ chạy về phía Đồng Nhân Đường. Lúc đến cửa Đồng Nhân Đường, đầu chú hai toát đầy mồ hôi, người ta hỏi, cậu hai Hà, sức khoẻ ngài như vậy còn chạy mấy chuyến chắc không xuống giường nổi mất, chỉ là con thừa tự, hơn nữa còn là con gái, không đáng đâu.
Lúc đó Hà Tri Hành chưa tới ba mươi tuổi, mệt đến mức mặt trắng bệch, lo lắng nói: “Mau xem giúp con gái tôi, ngã từ mái nhà xuống”.
…
Cô nóng đến mồ hôi đầy người, hơi hé mắt, thấy trời sáng rồi.
Có người buông rèm, ánh sáng xuyên qua khe hở chui vào phòng, lảng vảng với tro bụi trong không khí, miêu tả từng đường nét khe gạch dưới sàn.
“Về rồi à?” Giọng cô khàn khàn.
Người đàn ông “ừm” một tiếng, vén rèm lên.
“Không thoáng gió”, cô lẩm bẩm, “Hơi ngột ngạt”.
Cánh tay Tạ Vụ Thanh vòng qua người cô.
Tiếng sấm chấn động cách một bức tường truyền tới.
“Sắp mưa sao?” Cô hỏi.
Người đàn ông đáp lần nữa. Sức lực rắn rỏi trên tay anh như chế ngự linh hồn cô, cô hơi nheo mắt, nhìn người cả đêm không về. Áo khoác âu phục sẫm màu treo trên móc áo cao ngang nửa người. Nụ hôn của anh rơi xuống cổ, cô không thấy nhột nên lười so đo, cũng không muốn tỉnh.
“Nói gì đi”.
Anh cười: “Lúc này nói gì chứ?”
Đồ lót bằng lụa tuyết thanh bao lấy cơ thể, cô hơi dịch người, lườm anh, bắt gặp khuôn mặt tuấn tú ngời ngời.
Khí nóng phả vào tai: “Chờ em thức, chờ suốt hai giờ rồi”.
“Anh vẫn ở trong phòng à?”
“Viết hai trang giáo án”.
Người đàn ông này sao có thể. Từ ngõ Đông Giao Dân, anh gặp mặt lãnh sự bàn cách cứu viện người phe mình, tay châm xì gà, trao đổi từng điều kiện sinh tử với người khác. Vừa quay về phòng ngủ bình dị trong nhà, ngồi cạnh cửa sổ, lại cầm bút hút đầy mực xanh, viết hết bản giáo án này đến giáo án khác, nào là cưỡi ngựa, đấu kiếm, bắn súng, dùng đao, dựng cầu, xây thành…
Cô lo anh cứ làm việc vất vả như thế, chân không thể lành nổi.
“Nếu từ chối được, không cần thiết xã giao thì đều từ chối đi”, cô bảo, “Ai cũng biết chuyện anh sống cùng em, chỉ cần viện cớ nói em không vui là được rồi”.
“Cô hai trói Vụ Thanh ở Bắc Bình, ép anh cởi bỏ quân phục, chuyện này từ lâu có ai không biết”.
“Bản lĩnh em lớn thế à?” Cô giả vờ kinh ngạc.
“Quả thật bản lĩnh cô hai rất lớn”. Anh bật cười.
Kể từ khi quân Đông Bắc tiến vào, Bắc Bình quay về dưới quyền kiểm soát của chính phủ Nam Kinh.
Không ít quan chức cấp cao từ Nam Kinh tới đây, muốn gặp Tạ Vụ Thanh nhưng đều bị từ chối. Anh giống hệt những tên cáo già năm mươi, sáu mươi tuổi, hay bảy tám chục tuổi gì đó, nói muốn dưỡng lão, không bàn chuyện chiến sự.
“Có một người bạn đang lẩn trốn trong văn phòng bác sĩ ở Bệnh viện Dung hợp”, anh nói, “Cần phải đưa lên tàu đến Thiên Tân”.
“Anh đưa người đến bệnh viện nước Pháp ở ngõ Đông Giao Dân đi”, cô híp mắt lại, “Hai ngày nữa có một bệnh nhân người Pháp muốn…”
Hai chữ “lên tàu” vẫn chậm chạp mắc kẹt trong cổ họng, thốt không nên lời.
Mưa trong tứ hợp viện không giống những nơi khác.
Giọt mưa rơi trên giàn nho, nước bắn tung toé lên lá nho xanh biếc, còn có khóm trúc, khe đá trắng bạc, theo từng miếng ngói đen dọc bên mái hiên rơi xuống đất. Trong lu nước to đặt ở góc đông bắc, ngày ngày được Lâm Kiêu múc đầy, nào chứa thêm được nước mưa trên trời, không ngừng tràn ra ngoài sân.
Hà Vị muốn quan sát khuôn mặt anh kỹ càng nhưng rất khó, mỗi lần đều như nửa mê nửa tỉnh.
Sau khi làm xong anh có thói quen châm một điếu thuốc, hoặc làm mấy việc lặt vặt, sau đó quay về bên giường cùng cô, nếu không có gì sẽ ngủ thêm một lát, khoảng hai canh giờ. Cũng lúc làm mấy chuyện này, cô mới thấy được bộ dáng xộc xệch của anh, nhưng chỉ cần anh bước xuống giường lấy đồ hay rót tách trà nhuận họng cho cô, đều mặc ít nhất một cái quần dài, thắt lưng để mở.
“Thầy Tạ không có việc gấp”, cô mỉm cười nũng nịu, “Cũng chẳng cho em xem”.
Tạ Vụ Thanh bật cười, nhận tách trà trên tay cô, đặt qua một bên ghế.
“Đàn ông già rồi, có gì đẹp mà xem chứ?” Anh cười hỏi.
Tay cô chạm vào bao súng dưới gối, ngón tay vân vê dây da trên bao súng. Từ khi anh về, lúc nào cũng kê thứ này dưới gối ngủ, cũng thành thói quen của cô. Anh cúi đầu nhìn cô chăm chú: “Từ lần đầu anh đã không hiểu, vì sao em lại để ý tới anh”.
Cô hơi bất ngờ, nhưng vẫn mạnh miệng: “Khi đó còn nhỏ, không hiểu chuyện. Lúc anh hôn em, em cũng không muốn tránh né”.
“Vậy à”, anh cười trêu cô, “Thật ra ý bảo anh ỷ mình lớn tuổi nên ép uổng em”.
Cô nằm sấp một bên đùi không bị thương của Tạ Vụ Thanh. Hương lan ngan ngát toả trong không khí.
Tạ Vụ Thanh bế cô dậy: “Ép thì ép vậy, hiện giờ cô hai chẳng còn đường lui nữa”.
Hai người nhìn nhau cười, cô choàng cổ Tạ Vụ Thanh, dán mặt lên nửa thân trên trần như nhộng của anh, im lặng nghe ngóng một lát, bỗng thấy lạ nói: “Tim anh đập nhanh quá. Thì ra trong sách viết, lúc nằm lên người sẽ nghe thấy nhịp tim, là sự thật”.
Tạ Vụ Thanh cười, bước xuống giường, dưỡng thương đến giờ đã chóng lành, không cần dùng gậy chống vẫn tự mình đi lại được.
Anh đến cạnh bàn sách, sửa lại giáo án viết tay vừa nãy.
Hà Vị cũng đi chân trần đến cạnh anh. Cô trông thấy những mục anh viết, đều thuộc lĩnh vực cô chưa từng nghe. Nét mực xanh của bút máy ngay ngắn in trên trang giấy trắng, mỗi chữ đều như “thiết hoạ ngân câu, dung dư phong lưu”. [3]
[3] Trích từ “Dụng bút luận” của Âu Dương Tuân – một nhà thư pháp lớn thời Đường sơ. Âu Dương Tuân để lại cho đời nhiều quy cách viết thư pháp tuyệt tác, đặc biệt là lối viết chữ Khải của ông rất được yêu thích, người sau gọi là “Âu thể”. Trong “Dụng bút luận”, ông viết: “Bổi hồi phủ ngưỡng, dung dư phong lưu, thiết hoạ vừa vặn, mị như ngân câu”. Hậu thế sau này dùng cụm “thiết hoạ ngân câu” để hình dung bút pháp uyển chuyển, trong cương có nhu, thanh thoát như nước chảy mây trôi (đại khái là khen chữ đẹp và đều ạ ^^)
Trên thanh chặn giấy thuỷ tinh trong suốt có khắc chữ, có sơn đỏ phết qua, nhưng vì anh dùng lâu nên màu sơn cũng phai bớt, chỉ còn sót lại chữ khắc.
Mở đầu là “Tặng thầy Tạ”, kết thúc bằng câu “Xưa nay công danh bạc như vôi, xem nhẹ kim quan như mây trôi” [4]
Hẳn là quà lưu niệm sau khi dạy học ở Bảo Định. Lời này, vừa đọc đã biết nói đến anh.
[4] Nguyên văn “bình sinh nhất mỏng công danh sự, khinh thường kim quan ngọc điệp tiếp”. Giải nghĩa, công danh từ xưa đến nay luôn bạc bẽo dễ thay đổi, chỉ nên xem ấn kim quan (cách gọi ẩn dụ chỉ người làm quan/chức quan) nhẹ nhàng như nước chảy mây trôi.
Hôm nay lúc Tạ Vụ Thanh về nhà tâm trạng không tệ, cô đoán, người đang ẩn náu trong Bệnh viện Dung hợp hẳn là bạn rất thân của anh. Lúc trước khi anh gặp nạn, đã nghĩ cách cứu không ít người, dù lần này ra Bắc không nói rõ nhưng hẳn cũng vì cứu viện phe mình, cô biết điều đó nên đã giúp anh sắp xếp đưa người trốn đi.
Cả hai không ra ngoài nữa.
Trên bệ cửa sổ nước đọng thành vũng, lu nước mưa nhỏ trong nhà không lúc nào vơi.
Ga giường trong phòng ngủ như mang theo hơi ẩm, mấy lần cô kéo phẳng lại bị làm rối tung, cô liền lười vuốt lại. Phòng ngủ này cũng chỉ có hai người họ ở, khi trời tối vẫn phải ngủ tiếp.
Tạ Vụ Thanh tóc ngắn nên dễ thấm mồ hôi, cô ôm cổ anh, vuốt mái tóc ngắn ra sau, che đi mấy sợi tóc bạc: “Sớm biết có ngày này, ngay lần đầu tiên gặp anh đã ở bên nhau”.
Anh cười: “Đạo lý rất đúng”.
Cô muốn ăn chân giò hun tương Thiên Phúc ở khu Tây Đơn, Tạ Vụ Thanh bèn đích thân ra ngoài mua về, bánh nướng vừng vừa bán hết, may mà Quân Khương tới đúng lúc, cùng cô nướng bánh vừng. Quân Khương cười nhạo Tạ Vụ Thanh chỉ biết mua chân giò, định làm mọi người ngán chết à, sau đó đứng trong phòng bếp rửa tay sạch sẽ rồi băm thịt, định nướng bánh nhân thịt cho họ.
Quân Khương còn mang theo một cái hộp gỗ, trước khi vào bếp đã đặt sẵn hộp lên bàn đá giữa sân, bảo: “Giám đốc Hồ nhờ người mang đến”.
Lúc đó, Tạ Vụ Thanh đang ngồi hút thuốc trên sô pha trong chính phòng.
Hà Vị khẽ gõ cửa kính, gọi anh ra ngoài, thấy anh định lấy gậy chống, cô lại khoát tay, tự mình ôm hộp gỗ vào trong: “Vốn định rủ mọi người cùng xem, thôi cho anh xem trước vậy”.
Cô mở khoá đồng, nhấc nắp gỗ, là một máy phát thanh kiểu dáng mới nhất. Không có loa ngoài.
“Hồ Thịnh Thu nói nhất định phải làm xong thứ này mới dám tới thăm anh, phải cho anh biết mấy năm qua hắn không uổng phí”, Cô mỉm cười bật máy, trong tiếng vang rè rè tìm kênh phát thanh. Chốc lát sau, tiếng kịch hát sàn sạt vang lên, chính là cái này.
“Biết thứ này có gì khác không? So với quá khứ ấy?” Cô như phát hiện kho báu, lập tức hỏi.
“Tinh xảo hơn nhiều”.
“Chính là loa thu âm, loại loa này trước đây đều nằm ở ngoài. Nên nó càng thuận tiện di chuyển, tiện mang theo bên người”.
Cô luôn thích chế tạo đồ cách tân hơn cả việc làm ăn buôn bán.
Lúc ở Thiên Tân, rất nhiều người thấy lạ vì sao cô không quan tâm việc kinh doanh muối, rõ ràng là làm ăn kiếm lợi. Nhưng với cô mà nói, đó chỉ thuần là buôn bán. Mà quá trình từ muối thô thành muối tinh luyện mới là thứ công nghiệp cô hằng theo đuổi.
Ban đầu khi chưa có kỹ thuật sản xuất muối tinh luyện, hàm lượng natri clorua có trong muối thô rất thấp, người tây dương cười chê dân trong nước ăn muối thô không khác gì cạp đất. Sau này khi bao muối tinh luyện đầu tiên xuất hiện, trên bao bì in dòng chữ Hải Vương. Đó trở thành sự lãng mạn của các nhà công nghiệp.
Cô cũng cảm nhận được sự lãng mạn ấy và muốn chế tạo những món đồ tân thời hơn.
Thời gian này, trên radio có phát một vở hí khúc, được các chuyên gia trong đài phát thanh sử dụng đĩa keo đen ghi âm lại rồi phát lên.
“Chờ khi nào anh đi tiếp thì mang theo thứ này, em sẽ đàn một khúc dương cầm phát trên radio cho anh nghe”. Cô nói, như thể đã quen với việc chiến sự cấp bách, anh thường phải xa nhà.
Ngoài cửa sổ, Quân Khương hỏi Khấu Thanh có mua hành không, nếu không có hành sao làm bánh nướng nhân thịt được, Khấu Thanh trả lời, Lâm đội trưởng đi mua rồi. Lần này vào kinh, chưa được mấy ngày Khấu Thanh đã thay đổi xưng hô với Lâm Kiêu, hiện tại hắn không còn gọi là phó quan nữa, là trở thành đội trưởng đội cảnh vệ, thế nên Khấu Thanh cũng sửa danh xưng cho đúng.
Quân Khương cười trách Khấu Thanh, sai ai không sai, lại sai một người không biết phân biệt hành lá [5] đi, lỡ như mua nhầm hành hương về, bánh nhân thịt sẽ hỏng mất. Khấu Thanh đáp, người ta là đại đội trưởng, không thể ngốc đến nỗi hành lá cũng không phân biệt được…
[5] Theo mình tra thì, hành lá Quân Khương muốn mua là loại hành thân to (hiện nay gọi là hành baro), còn hành hương sợ Lâm Kiêu nhầm là loại hành nhỏ bình thường mình hay ăn.
Hai người cười khanh khách, hàn huyên về hành lá và Lâm Kiêu.
Tạ Vụ Thanh dập tắt đầu thuốc.
Hà Vị đang chỉnh máy phát, tóc dài chấm eo, vì ngồi xổm nên ngọn tóc chạm lên mắt cá chân cô.
“Vị Vị”.
Cô nhỏ nhẹ bảo: “Thầy Tạ nói đi”.
Anh vuốt ve tóc cô: “Anh hẳn đã tích rất nhiều công đức mới được em coi trọng như vậy”.
“Đúng là người già, lúc nào cũng tự ti”, cô trêu ghẹo anh, “Khi thiếu tướng quân mới vào kinh, lăn qua lộn lại trong mấy nơi son phấn, không phải dõng dạc tuyên bố — ‘nếu động tâm với tôi, chính là không có đường lui’ sao”.
Tạ Vụ Thanh bật cười, nhéo chóp mũi cô: “Đã nghe trộm người ta nói chuyện điện thoại, còn mạnh miệng thế à?”
Cô chun mũi, trả máy phát vào hộp gỗ, đây là sản phẩm đầu tiên nhà máy họ chế tạo thành công, có ý nghĩa rất lớn, không thể tuỳ tiện đặt lung tung: “Nói chuyện chẳng đứng đắn gì cả”. Đàn ông lớn tuổi đều nghĩ một đằng nói một nẻo.
Anh vừa dọn dẹp mấy đầu thuốc trong gạt tàn, ở đây không chỉ có anh mà hôm qua còn thêm mấy vị sĩ quan đến họp.
Có điều vừa nghe cô nói thế, anh đưa tay về phía hộp thuốc, gõ nhẹ một điếu: “Lời đứng đắn nói thế nào?” Anh quẹt que diêm, châm thuốc, toát ra khí chất phong lưu.
“Anh yêu em”, anh cười hỏi, “Lời này có tính không?”
Hay tay cô ôm hộp gỗ bỗng cứng đờ, cô đứng sững ở đó, như đã quên hết mọi ngôn ngữ trên đời.
Cô… chỉ đùa với anh, không ngờ anh lại nói lời này.
“Năm 1922, hai nơi Kinh Tân đều biết chuyện, Vụ Thanh cho rằng cô hai rõ ràng hơn ai hết”, anh nhìn thẳng vào cô, như phát hiện một cô gái trăm ngàn mong cầu mà không có được, anh nói tiếp, “Anh từ phương Nam đến, không biết người phương Bắc theo đuổi con gái thế nào. Năm ấy thật sự đã phí không ít công sức, lại không nắm được trọng điểm, sợ khi về Nam, cô gái ấy sẽ gả cho người khác”.
Cô bị trêu, buồn cười: “Lại nữa rồi, nói chuyện không nghiêm túc”.
Anh không rời mắt khỏi cô, cười nói: “Tất cả đều là những lời nghiêm túc”.
Tạ Vụ Thanh lấy áo sơ mi khoác trên tay vịn sô pha, mặc lên người, cài từng cúc áo ngay ngắn. Áo cổ đứng thẳng thớm, anh đỡ sô pha chầm chậm đứng dậy, nhàn nhã bước ra ngoài. Khi anh đến Tây Đơn mua chân giò cho cô, bảo xe vòng tới Tấn Bảo Trai mua thêm một hộp thức ăn.
Không nói cho cô biết, muốn tặng cô một bất ngờ.
Hà Vị nghĩ anh đến sương phòng có việc, chỗ đó có hai sĩ quan chuyên lo việc giấy tờ.
Khấu Thanh nhảy chân sáo đến trước mặt cô, ghé vào tai cô nói: “Vừa rồi Lâm Kiêu ở phòng bếp bảo với chúng em, trong lòng tiếu tướng quân rất thương cô hai, năm đó, khi cô hai gợi ý ngài dùng bạch thoại trong thư nhà, ngài liền mượn hết những bức thư từ người thân quan quân trong doanh đến trướng quan sát học hỏi”.
Gió thu thổi qua mặt, mưa phùn lộp bộp rơi trên má.
Cô đứng bên khung cửa, nhìn theo Tạ Vụ Thanh khuất sau màn mưa phùn, chậm rãi bước vào sương phòng phía đông. Anh luôn có kiêu ngạo của mình, từ lúc có thể tự đi đứng, liền không dùng gậy chống nữa.
Một vị tướng quân khắt khe với bản thân, nhưng lại dùng nhân nghĩa trị quân.
Lâm Kiêu kể, biên cảnh phương Nam lúc tiền triều gươm giáo sẵn sàng, nhưng vì người ẩn sâu núi rừng, nên khi nhà Thanh bị diệt, tin tức không kịp truyền đến. Đoàn binh bím tóc [6] vẫn ở đó đối đầu với quân địch, trấn thủ biên cương. Tạ Vụ Thanh dẫn người đến, giúp họ thay đổi quần áo mới, dạy họ cắt bỏ bím tóc cũ. Ngày đó anh đến trước mặt những binh lính già trẻ kia, dõng dạc tuyên bố, nếu có ai nguyện rời đi, anh vẫn sẽ biết ơn vì bao năm họ vất vả giữ gìn biên cương, dùng tiền tiếp tế của tiền triều phát quân lương, hộ tống họ một đường về quê an dưỡng, nếu có ai nguyện ở lại, ngay lập tức nhận huấn luyện quân đội kiểu mới.
[6] Đoàn binh bím tóc là cách gọi chỉ bộ phận binh lính cuối triều Thanh, đầu thời kỳ chuyển giao, họ vẫn để tóc dài, thắt thành bím thả sau đầu.
“Tôi tòng quân vì giữ gìn lãnh thổ quốc gia, cũng giống như các vị ở đây, không có gì khác biệt”, thiếu niên Tạ Vụ Thanh nói trước mọi người, “Nếu có một ngày Tạ Vụ Thanh mưu lợi cho bản thân, bất kỳ kẻ nào trong quân, bao gồm cả những người quyết định ở lại đây, đều có thể rút súng bắn chết tôi. Lời thề này, đến chết không đổi”.
Lâm Kiêu cũng nằm trong số những người đó, bắt đầu từ ngày ấy thề chết đi theo Tạ Vụ Thanh.
— HẾT CHƯƠNG 49 —
Lâm Kiêu đang chuẩn bị cơm tối trong sân.
Cô ở cùng anh hai ngày, nhận biết hiện giờ vì để dưỡng thương nên hầu như đồ ăn anh dùng đều do Lâm Kiêu đích thân nấu. Nếu Lâm Kiêu đã xắn tay áo xuống bếp, cô đành giao cho người ta vẫn tốt hơn.
“Lúc nhỏ anh cùng chị ba vào kinh”, anh trông về bức tường, nhìn những tấm ảnh chú thím chụp chung, “Thím là người Bắc Kinh giống em. Thím dẫn mọi người từ Chính Dương Môn vào thành, khi đó thành lâu bị thiêu cháy chỉ còn lại tàn tích”.
Tạ Vụ Thanh kể chuyện trước lúc cô ra đời. Năm 1900, Chính Dương Môn bị liên quân tám nước tấn công thiêu huỷ.
Hà Vị sinh vào cuối triều Thanh, ấn tượng với Tứ Cửu Thành không sâu, chỉ nhớ mang máng các chị gái châu ngọc đầy đầu, mặt hoa da phấn, gò má lúc nào cũng ửng hồng. Cô tuổi nhỏ nên không đeo trang sức, khuôn mặt ẩn trong nguyên bảo lãnh, trên cổ mang vòng nặng trịch, mỗi lần nhúc nhích cổ đều hao tốn sức lực.
Mùa thu năm đó, để ngắm lá phong, cả nhà đi Tĩnh Nghi Viên ở Hương Sơn, xe ngựa nối đuôi nhau thành chuỗi không thấy đầu. Nơi ấy có Chiêu Tự, có tháp Phù Đồ cao bảy tầng, đặt lư hương bằng sắt rất lớn. Lần đầu cô gặp chú hai, chú mặc bộ âu phục cổ quái, đi phía sau tông thân của Hà gia, đứng giữa dàn áo dài xám cùng áo choàng vàng tím, vô cùng bắt mắt.
Những vị tông thân đội mũ da chắp tay đi qua đi lại, trong nhà ai cũng hút thuốc phiện đến mỏi mệt, bước chân yếu ớt uể oải, hai mắt híp lại chẳng có khí chất, giống như giống hệt nhau, không phân biệt được ai với ai.
Duy chỉ có chú hai rớt lại phía sau, trên mặt dịu dàng ôn hoà, trong mắt mang theo tia sáng.
Cô đứng trên thềm đá trắng, lặng lẽ nấp sau cánh cửa được khảm hoa đỏ sậm, trông ra bên ngoài. Đám tông thân bước qua dưới bậc thềm. Nha hoàn bên cạnh mẹ thì thầm bảo, đó là cậu hai vừa du học về nước. Lúc ấy ông nội vẫn còn sống, chú hai được gọi là cậu hai.
Nha hoàn lại nói, vào năm liên quân tám nước tiến đánh, cậu hai vận chuyển gạo vào thành Bắc Kinh cứu tế, bị người khác buộc tội buôn lậu thóc gạo, nhốt giam đánh đập mấy ngày đêm, hiện giờ không thể sinh con, nhóm tông thân bàn nhau cho ông nhận một người con kế tục.
Thời gian đó tiền trang của Hà gia làm ăn phát đạt, vẫn chưa mở vận tải đường thuỷ Hà gia.
Nhóm tông thân bàn tới bàn lui, không ai bằng lòng làm con thừa tự cho Hà Tri Hành, chuyện này không cách nào giải quyết.
Cô lại nghe cha ruột và mẹ nhắc về chú hai, cha cô phẫn uất nói em hai đi theo cách mạng nên rước hoạ, phải chạy ra biển lánh nạn.
Tạ Vụ Thanh ăn cơm tối xong, về phòng nghỉ ngơi.
Hà Vị khép cửa, ra ngoài sân hóng gió.
Lâm Kiêu múc chậu nước, chuẩn bị rửa mặt. Từ lúc hắn trở về Bách Hoa Thâm Xử, luôn tất bật trong ngoài, cả người toát đầy mồ hôi. Hắn vừa phát nước đã trông thấy Hà Vị, tay áo dính nước ướt đẫm rút về, qua loa chà lên áo sơ mi: “Có cần tôi vào không?”
Cô xua tay: “Anh ấy ngủ rồi”.
Lâm Kiêu thẹn thùng cười cười, muốn bưng chậu đồng trắng đến một bên tắm rửa.
“Cứ rửa đi”, Hà Vị cười nhìn hắn, “Sợ gì chứ?”
“Lâm phó quan trải sự đời”. Khấu Thanh đem váy nhỏ Tư Niên vừa thay ra, lấy thìa gỗ múc nửa chậu nước tưới lên quần áo, “Sao rửa ráy trước mặt chúng ta cũng không dám thế?”
Lâm Kiêu thấy đàn bà con gái ở đây liền đỏ mặt, trong lòng e thẹn khi bị vạch trần nhưng ngoài mặt không thể tỏ ra ái ngại. Hắn phát nước hai lần lên mặt, dùng khăn lông lau sạch.
“Để tôi giặt cho”. Lâm Kiêu nói.
“Đây là việc công của tôi, nhận lương đấy”, Khấu Thanh đáp, “Lâm phó quan là tướng lãnh đạo, mỗi người một việc mới tốt”.
Khấu Thanh không muốn ầm ĩ ảnh hưởng đến người đang ngủ, bưng chậu nước ra ngoài cổng lớn, ngồi trên băng ghế nhỏ, chà xát áo lên thềm đá.
Hà Vị kéo Lâm Kiêu đến ngồi trên ghế đá trong sân.
Nhóm người theo họ từ Thiên Tân đến, không vào Bách Hoa Thâm Xử mà đi thẳng tới ngõ Đông Giao Dân của khu lãnh sứ quán.
“Quen biết nhiều năm nhưng chưa từng nghiêm túc trò chuyện với cậu”. Hà Vị tay cầm quạt, nhìn thấy mồ hôi đầy người Lâm Kiêu nên đưa cây quạt hương bồ của ông bác trên bàn đá cho hắn.
Lâm Kiêu nhận lấy, nắm chặt quạt hương bồ, cười nhìn cô: “Tôi không thích nói chuyện, anh em quen biết hơn mười năm cũng không nói quá nhiều”.
Hắn sợ cô nhàm chán, cố gắng tìm đề tài: “Lúc nghĩ cách cứu viện thiếu tướng quân, tôi thấy tàu của vận tải đường thuỷ Hà gia ở Trường Giang rất hoành tráng”, hắn không khỏi khâm phục, “Còn có đường hàng hải ở cảng tỉnh, mấy năm qua cô hai đã giúp không ít người chúng tôi đến Hồng Kông tị nạn, người bên chúng tôi luôn nói, đó là đường thuỷ cứu mạng”.
Hình như Lâm Kiêu có rất nhiều lời khen muốn nói với cô, ngẫm nghĩ một lúc lại lo lắng hỏi: “Mấy chuyện này có khiến cô hai gặp nguy hiểm không”.
“Thời cuộc như vậy, làm gì mới không nguy hiểm?” Cô mỉm cười, nhẹ giọng nói, “Vận tải đường thuỷ Hà gia từ trước đến nay đều giúp đỡ đảng cách mạng, cậu không biết sao?’
“Thiếu tướng quân từng nhắc tới”. Lâm Kiêu không ngờ Hà Vị thẳng thắn thế.
Năm đó chú hai là người thuộc đảng cách mạng, bị bắt phải lẩn trốn ra biển, được người khác cứu giúp, từ đó nảy ra ý tưởng kinh doanh vận tải đường thuỷ. Ghi chép việc làm ăn của Hà gia đều nằm trong khối óc của ba chú cháu, nhớ lộ trình, nhớ thời gian thông quan, duy chỉ không nhớ tên họ. Vô số nhà cách mạng đã được cứu và tìm cách đưa ra ngoài suốt nhiều năm liền.
“Thiếu tướng quân từng nói, cô hai còn xem trọng vận tải đường thuỷ hơn mạng sống, không cách nào bỏ trốn cùng ngài. Ban đầu tôi còn không biết, mấy năm nay rốt cuộc cũng hiểu”.
“Thiếu tướng quân cũng xem cô hai hơn cả mạng mình”. Lâm Kiêu nói tiếp.
Cô cười. Lời này thốt ra từ miệng của người cạnh anh, ý nghĩa khác biệt.
“Năm ấy”, hai tay Lâm Kiêu siết chặt quạt hương bồ, nghĩ mãi mới nói, “Cô ba và thiếu tướng quân ở Kim Lăng. Cô ba muốn gặp cô hai, cô ba nói, một nhà bốn chị em gái, chỉ có cô ba chưa được gặp em dâu đã phải lặng lẽ ra đi”.
Nụ cười Hà Vị chững lại.
“Thiếu tướng quân luôn nghĩ cách muốn cứu cô hai, nhưng sau khi cô ba bị bắn chết, ngài không dám kéo dài nữa, trực tiếp dùng bản thân đổi người”.
Tháng tư hoa hoè rụng đầy Kim Lăng, khắp thành chìm trong màu hoa trắng.
Hà Vị quay về chính phòng.
Quần áo, sách vở Tạ Vụ Thanh mang theo đều để trong rương lớn bằng sắt, đặt bên cạnh sô pha da nâu. Cô sợ sàn nhà trơn trượt, một ngày trước khi quay về từ Thiên Tân đã gửi điện báo, nhờ quản gia mang mấy cuộn thảm xanh sẫm, trải lên đất.
Tạp âm bị thảm sàn nuốt chửng. Cô khẽ vén rèm châu, ngồi xuống mép giường.
Lúc Tạ Vụ Thanh ngủ vẫn mặc áo sơ mi gọn gàng đến khó hiểu, nhìn anh chỉnh tề như lúc nào cũng có thể khoác quân phục lên chiến trường.
Thiếu tướng quân của cô, vì cô, cam tâm chịu chết.
Người đàn ông nằm trên giường bất chợt vươn tay nắm lấy cô.
Tim Hà Vị khẽ động: “Chưa ngủ sao?”
“Vừa chợp mắt thôi”.
Hà Vị tựa sát vào anh nằm xuống. Tạ Vụ Thanh hơi dịch người, nhường nửa giường cho cô.
“Chị ba anh…” Cô nói.
Anh nhận ra cô để tâm đến chị ba mình.
“Chị ba à, là người có tướng phản cốt nhất nhà anh”, Tạ Vụ Thanh thì thầm, “Cha anh là người bảo thủ, tầm nhìn và tư tưởng đều bị hạn chế, lúc ấy ông ủng hộ phản Viên, sau khi Viên Thế Khải chết, lại không ủng hộ Nam – Bắc khai chiến. Ông cho rằng, chiến tranh quá lâu, không nên đánh tiếp nữa. Binh quyền trong tay ông ban đầu đều bị chị ba lừa đi, đặt hết vào tay anh. Sau đó, quân phiệt phương Nam ngày càng khuếch trương, thuốc phiện tràn lan khắp các tỉnh thành, lúc này cha mới nghĩ thông suốt, quyết định đánh tiếp”.
Tạ Vụ Thanh nhớ đến một năm trước khi chị ba mất: “Năm 26, cuối cùng Vân Nam cũng xây dựng thành công quốc lộ đầu tiên. Chị ba nói với cha anh, cha xem, nếu không phải thuế thu nhập đều lọt vào túi riêng của quân phiệt thì quốc lộ này đã sớm hoàn thành”.
Anh trai cô cũng từng nói, tư tưởng người ấy có hạn. Cô bỗng dưng nhớ lại.
Cả đời Tạ lão tướng quân phần lớn thời gian đều đổ vào tiền triều, ngay từ đầu giữ tư tưởng phản Thanh, đã là chuyện không dễ.
“Chị ấy từng xin đến học ở trường trung học nữ sinh Bì Văn Thượng Hải [1], cách nhà khá xa, mẹ anh không cho, không ngờ chị ấy để lại một lá thư rồi ép phó quan của cha đưa mình đến Thượng Hải”, Tạ Vụ Thanh bật cười, “Phó quan của cha thầm thích chị ấy, lại bị chị ấy phát hiện, trở thành nhược điểm của hắn”. Mỗi lần cha mẹ nhắc đến chuyện này, đều không ngừng trêu chọc.
[1] Trường Trung học Nữ sinh Bì Văn Thượng Hải do nhà truyền giáo Elijah Coleman Bridgman và phu nhân Grande của mình thành lập vào năm 1850. Đây là trường học dành cho nữ giới đầu tiên trong lịch sử ở Thượng Hải. Khi trường mới mở không ai đồng ý vào học, trải qua rất lâu mới dần trở thành một trong những nơi giáo dục nổi danh nhất TQ thời Dân quốc. Năm 1953, trường được đổi tên thành Trung học Nữ sinh Số 9 Thượng Hải, đến năm 1966, trở thành Trường Trung học Số 9 Thượng Hải.
“Vị phó quan kia khá giống Lâm Kiêu, nhờ tài thao lược mới thành công, sớm đã thăng làm tham mưu, chỉ là hết lòng trung thành tận tâm, không muốn rời khỏi Tạ gia. Sau đó chị ấy vào trung học, ở lại trường ba năm, vị phó quan kia cũng được cử đến trường sĩ quan, nếu học thành tài quay về sẽ cưới. Ba năm trôi qua, phó quan học xong quay về, mà chị ba lại gửi một phong thư, nói mình đi du học. Chị gái quen biết cô ba Trịnh gia cũng là trong lúc du học”.
Tạ Sính Tích gấp gáp lên đường, không chờ được tàu khách, phải đi nhờ tàu chở hàng. Cô ở khoang hạng ba, trong phòng bày biện sơ sài, chỉ có một cái sô pha lớn làm giường ngủ, ngoài ra chẳng còn gì khác, may mắn còn được sử dụng nước nóng lạnh. Sau khi cô lên tàu, đêm nọ nghe thấy tiếng gõ cửa của một cô gái Trung Quốc đến xin nước nóng gội đầu. Tạ Sính Tích biết người này không mua được vé nên phải ngủ ở kho hàng, liền giữ cô ta lại, hai người nằm cùng một cái sô pha suốt hơn nửa tháng.
Khi đến châu Âu, chị ba học về hoá chất, cô ba Trịnh gia lại học mỹ thuật.
Bọn họ cùng nhau nhập học, hẹn sau khi kết thúc khoá sẽ cùng về nước. Chiến tranh Thế giới bùng nổ, du học sinh các nước phải tạm gác việc học trở về. Trịnh Sính Tích nhiễm bệnh nặng nên không thể đi, người nhà cô ba Trịnh đến đón mấy lần đều bị từ chối. Tạ Sính Tích sợ không chống đỡ nổi, đem toàn bộ nữ trang cùng tiền bạc giao lại cho cô ba Trịnh, nếu cô ấy không định về nước thì nhờ cô ấy ở đây đợi Tạ Vụ Thanh tiếp ứng, sau đó đến Quý Châu tìm Tạ gia, người Tạ gia nhất định sẽ xem cô như con gái ruột mà chăm sóc.
Một tháng sau, Tạ Vụ Thanh huỷ bỏ phong toả tìm được căn hộ nhỏ, chị ba đã khỏi bệnh.
Hai người đường dài về nước. Đôi bạn thân du học tây dương, vượt trùng khơi về lại cố hương, vừa đến nhà trở thành người thuộc hai phe Nam – Bắc đối lập. Từ đó về sau chưa từng gặp lại.
“Sau khi chị ba du học về, phó quan cũng trở thành tham mưu, khi đó trên chiến trường, phó quan kia dùng báng súng chặn xe hỏi chị ba, lời cô nói lúc mười ba tuổi có tính không. Chị ba trả lời, người Tạ gia lời hứa đáng ngàn vàng, nếu còn sống trở về, thì cứ đến hỏi cưới”.
Đèn trong sương phòng phía đông sáng lên, chiếu đến chính phòng, giống như ánh đèn hạ màn sân khấu.
Ve kêu râm ran bên tai, không ai nói một lời.
Vị tham mưu ấy hy sinh trên chiến trường Bắc phạt, còn chị ba bị bắn chết tại Kim Lăng.
Tạ gia năm ấy thất bại thảm hại, chỉ chuyên tâm lo liệu hậu sự, khách đến phúng viếng ít ỏi vô cùng, cô ba Trịnh dẫn theo em trai út Trịnh Độ, từ tận quan ngoại tìm đến, dùng mấy chục bức câu đối phúng điếu, lấp kín linh đường trống rỗng. Cô ấy ngồi suốt cả đêm ở linh đường.
—
Tạ Vụ Thanh vừa xuất hiện ở Bắc Bình đã thu hút rất nhiều sự chú ý.
Hà Vị cũng không hỏi chuyện của anh. Đã là bí mật quân sự, hẳn không phải trò đùa.
Tạ Vụ Thanh mang theo âu phục cách tân, đeo đồng hồ vàng cùng những thú vui của quý công tử bại hoại, mỗi ngày hết ở khách sạn Lục Quốc lại đến nhà hàng Bắc Kinh, Quảng Hoà Lâu, Quảng Đức Lâu ứng phó từng người, tựa như trở về thời điểm anh với vào kinh năm đó. Bất quá lúc này trong tay anh có thêm cây gậy chống. Khấu Thanh âm thầm nói với cô, đàn ông bị thương trên chiến trường giống một chiến công, càng thêm mê hoặc, khó trách khiến người khác lo lắng, khuyên cô nên đi theo xã giao cùng anh.
“Làm sao rảnh theo anh chứ”. Hà Vị cười nói.
Cô không chỉ bận rộn chuyện Bạch Cẩn Hành, còn phải phối hợp với việc vận chuyển lương thực cứu tế.
Bắc đầu từ năm ngoái, chín tỉnh ở Hồ Nam ngập lụt nghiêm trọng, ba tỉnh Tứ Xuyên triều cường dâng cao, Thiểm Tây lại bị hạn hán giày xéo.
Cô đọc tin tức trọng điểm trên tờ “Đại công báo” ở văn phòng, nhìn thấy một huyện chịu cảnh thiên tai nặng nề, giá gạo tăng đến 12 tệ một đấu, không khỏi lo lắng. Ở Bắc Bình, Khấu Thanh một tháng chỉ nhận 3 tệ tiền lương, một căn tứ hợp viện bình thường cho thuê cũng mất 20 tệ một tháng. Giá gạo này, chỉ có thể nói là cao ngất trời.
“Nhiều nơi gặp nạn thiên tai, Trung Nguyên chiến tranh không ngừng”, Hồ Thịnh Thu lắc đầu, “Người chịu khổ chỉ có dân đen”.
Hà Vị thầm than, gấp tờ báo lại.
Tối nay ở Quảng Đức Lâu có diễn kịch để quyên tiền cứu tế, cô phải có mặt.
Mấy buổi diễn kịch quyên tiền thế này, cần có người uy tín đến giữ thể diện, những nhóm thân hào, quân phiệt mới cùng khuê tú danh viện xuất hiện một cái, tiền cứu trợ sẽ tăng vọt, người được hưởng lợi tất nhiên là dân gặp nạn. Những năm nay cô không thường lui tới hoạt động náo nhiệt thế này, chỉ có quyên góp tiền bạc mới đến, mang theo chi phiếu, vàng lá, chi phiếu để quyên tặng, còn vàng lá tặng khách mới.
Có điều trước lúc đó, cô đã hẹn Tạ Vụ Thanh đến thương xá [2]. Hiếm có được nửa ngày nhàn rỗi, đi làm việc riêng.
[2] Nguyên văn là “khuyến nghiệp tràng”, có nghĩa như một trung tâm mua sắm thời kỳ đầu. Đến nay ở Thiên Tân vẫn còn một toà nhà “khuyến nghiệp tràng” này gọi là Quanyechang Shopping Mall. (Mình sợ để trung tâm mua sắm thì hiện đại quá, nên sử dụng từ thương xá, nếu mọi người thấy không ổn thì bình luận nói để mình sửa nha, còn nếu không okk rồi thì cứ để vậy)
Mặt trời ngả về Tây, giữa thềm đá trắng ở cửa lớn có một người đàn ông mặc âu phục giày da, tay chống gậy.
Tạ Vụ Thanh đứng một mình dưới cửa đá chạm hoa trắng, cảnh vệ trực ban tản ra hai bên, ẩn nấp trong đám người. Anh chưa từng thấy một nơi hiện đại hoành tráng thế này, so với Thanh Vân Các còn hơn bội phần, không chỉ có quý nhân quan lớn tìm đến mà còn có rất nhiều học sinh cùng thanh thiếu niên.
Cô bước vài bước lên thềm đá, cười vỗ tay anh.
Anh cúi đầu, nhìn thấy cô gái vừa qua tuổi hoa niên, váy dài liền thân màu hồng nhạt, tay áo rũ lộ ra khuỷu tay cùng cổ tay mảnh khảnh, trên người không đeo trang sức. Hiếm có dịp cô mặc đồ màu sáng thế này, Tạ Vụ Thanh bất giác nhìn thêm mấy lần.
“Kỳ lắm không?” Cô bị anh nhìn chăm chú đến bất an.
Anh lắc đầu: “Là quá đẹp”.
“Tối nay Bộ Giáo dục có đãi tiệc công ở đây, em không muốn bị người khác nhận ra, mau vào trong thôi”, cô kéo cánh tay Tạ Vụ Thanh, tiếng cười giòn vang, “Dẫn anh đi dạo xung quanh, xem chỗ đang được người trẻ yêu thích nhất”.
Lầu một thương xá bán sách cũ cùng đồ dùng hàng ngày, lầu hai bán cổ vật cùng đồ thêu thùa.
Tạ Vụ Thanh theo cô vào thang máy, lên tầng ba, nghe tiếng di chuyển có quỹ đạo của xích sắt, anh cảm nhận được hơi thở của những người xa lạ bên trong, nhưng chủ yếu vẫn là cô đang đứng chắn trước người anh. Ban ngày ban mặt, càn khôn sáng ngời, không phải đôi giày quân đội đạp lên bùn đất trên chiến trường, đối diện với thi thể khắp nơi, cũng không phải đứng dưới ánh đèn lồng đan xen, trong chốn phong nguyệt nâng chén nịnh nọt… Mà là một thương xá ồn ào.
Không ai quen họ, họ cũng không biết ai.
“Trên tầng bốn có nhà hát Tân La Thiên, những người kia đều đến xem bình kịch [3]”. Cô đưa anh ra khỏi thang máy tầng ba, nói về những người vẫn tiếp tục đi lên.
[3] Tên loại hình kịch ở vùng Hoa Bắc, Đông Bắc.
Cô chỉ về cách đó không xa: “Kia là sân bóng bàn. Anh biết chơi không?”
Tạ Vụ Thanh cười: “Một trong những môn giải trí được thích nhất trường quân sự”.
Phía cuối có một tiệm chụp ảnh Đồng Sinh.
Hà Vị cầm tấm danh thiếp trên tay, so sánh tên không sai một chữ mới yên tâm đi vào.
Bên trong có mấy người học việc đang lau cửa, thấy hai người liền hỏi, có đặt trước không. Hà Vị bảo, đặt trước rồi, người đặt là cô gái tên Khấu Thanh. Người học việc lau sạch tay, mở hồ sơ đăng ký trong tủ ra, mép trang giấy đã sớm bị mài đến hoe vàng.
“Vào đi, để tôi gọi sư phụ”, người học việc chỉ tay vào trong, “Có sẵn gương và lược, chỉnh trang một chút”.
Tạ Vụ Thanh vừa đến đây đã đoán được cô muốn chụp ảnh chung.
Cô cùng Tạ Vụ Thanh bước vào. Lúc nhỏ cô từng chụp ảnh một lần, nhưng là nhiếp ảnh gia đến tận nhà chờ cô sẵn, đây là lần đầu cô tự mình ra ngoài chụp ảnh.
“Sợ gọi nhiếp ảnh gia đến nhà sẽ đồn đãi lung tung. Chụp ở đây vẫn an toàn hơn”.
Tin đồn hai người sống chung đã lan ra, nhưng chẳng ảnh hưởng đến quan hệ xã giao bên ngoài. Nhưng những việc như chụp ảnh chung giống xác định mối quan hệ chính thức, cần phải che đậy thật tốt.
Cô đứng trước gương, không dùng lược, chỉ lấy hai tay chải sơ tóc, quay đầu lại đánh giá anh, duỗi tay, dựa theo thói quen của anh, vuốt hết tóc trước trán ra sau đầu. Trán Tạ Vụ Thanh không quá rộng, vuốt tóc về sau lại càng xán lạn đẹp mắt.
Có điều Tạ Vụ Thanh nào quan tâm đến mấy chuyện đẹp mã này.
“Lúc anh đi xã giao còn để tâm chút ít”, cô chế giễu anh, “Hẹn hò với em, chỉ qua loa cho có lệ”.
Cô nhác thấy cọng tóc bạc trên đầu anh, trong lòng nhói đau.
Tạ Vụ Thanh cúi đầu cười, thuận tay vuốt tóc, nhẹ giọng nói: “Người già rồi, làm gì cũng chậm. Chẳng quan tâm ý tứ gì cả”.
Cô nhoẻn cười: “Anh có chú tâm bao giờ?”
Anh cười đáp: “Sau khi quen em, thật ra có một đoạn thời gian cũng để ý lắm”.
“Nói cứ như em háo sắc vậy”.
Anh bảo: “Lấy sắc hầu người [4], chưa hẳn không phải một loại tình thú”.
[4] Ý nói dùng sắc đẹp để dỗ dành cho người khác vui vẻ.
Không đứng đắn.
Sư phụ nhiếp ảnh gia đến, trông thấy bộ dạng của họ, liền hỏi thẳng: Chụp ảnh cưới lưu hiệm?
Hà Vị nhỏ nhẹ “vâng” một tiếng, trước mặt người ngoài, gò má ửng hồng. Sư phụ quan sát nhiều hạng người, hỏi Tạ Vụ Thanh có từng tòng quân không, Tạ Vụ Thanh không phủ nhận, sư phụ giúp họ thị phạm kiểu chụp của mấy đôi vợ chồng nhà lính. Một tay Tạ Vụ Thanh đút vào túi quần tây, một tay đặt trước người, không cần diễn đã có phong thái của đại tướng quân.
Tư thế của anh giống năm mười tám tuổi, có điều tay phía trước không còn nắm thành quyền, trên vai để nửa người Hà Vị tựa vào, hai người tay trong tay.
Cô cảm nhận được sức lực trên tay Tạ Vụ Thanh, tim có chút nghẹn lại.
Ánh sáng loé lên, cô căng thẳng suýt chớp mắt, may mắn kinh nghiệm che đậy. Chụp xong liền hỏi: “Tôi có cười không?”
Sư phụ nhiếp ảnh cười nói: “Có cười, chờ xem”.
Lịch hẹn có chút gấp, cô đi dạo quanh cửa hiệu đồ cổ hai giờ, liền nhận được tấm ảnh kia, giấy chụp hiệu Kodak có cảm giác rất tốt, mặc dù hơi đắt nhưng tiêu tiền đáng giá. Bối cảnh là một vòng cung đổ bóng đang thịnh hành, cô nhìn một lát, lại bị Tạ Vụ Thanh đoạt lấy. Tạ Vụ Thanh xem ảnh còn lâu hơn cô.
“Chỉ có một tấm à?” Anh hỏi.
Cô quên mất hai người nên mỗi người một tấm mới phải.
“Chỉ kịp rửa một tấm, gấp quá”, cô đáp, “Phim đã bị huỷ rồi, họ đã nói trước”.
Tạ Vụ Thanh không nhiều lời, lướt ngón tay lau mặt ảnh, cất vào âu phục.
— HẾT CHƯƠNG 48 —